- Về xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong mỗi
giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, việc thực hành dân chủ
“để cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải
thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người đều hoạt bát mà bệnh “thì thầm,
thì thào” cũng hết... Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng
kiến”(8).
- Về xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng để làm tiền đề
cho việc thực hành dân chủ trong Đảng, trong di huấn để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình... Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”(9).
- Về công tác vận động quần chúng nhân dân, các tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên
phải làm tốt công tác vận động, giúp đỡ nhân dân, tôn trọng quyền lợi của nhân
dân, tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng và Nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân
dân phải tin dân, biết dựa vào dân, phát huy mọi năng lực tiềm tàng trong dân;
“giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân
chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”(10).
- Về vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ
chức đảng, Người đặt ra yêu cầu
là phải tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Dân chủ trong quan
niệm của Người không chỉ được thực hành trong lĩnh vực chính trị, mà trong tất
cả các lĩnh vực khác, như: phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng pháp
luật,... Ở mỗi lĩnh vực đó đều có trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc
thực hành, phát huy dân chủ.
Tư
tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng và hệ thống chính trị là một
trong những tư tưởng rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
cũng chính là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho người dân thực hiện quyền làm
chủ, đã được thể hiện độc đáo trong các quy định của bản Hiến pháp đầu tiên của
nước ta - Hiến pháp năm 1946 - trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Chủ
tịch Hồ Chí Minh sớm quan tâm đến vấn đề con người và quyền con người trong
thực hành dân chủ.
Theo
Người, con người là động lực và mục tiêu của chế độ dân chủ. Quyền con người
trong chế độ dân chủ trước hết phải mang nội dung tự do, ấm no, hạnh phúc, cơm
ăn, áo mặc, học hành. Ngay từ những năm đầu đất nước giành độc lập, Người đã
xác định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét,
thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho
dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có
học hành”(11).
Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, dân chỉ biết đến tự do, dân chủ là khi không chỉ
được ăn no, mặc ấm mà còn được học hành. Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được thành lập, hơn 90% dân số còn mù chữ, thất học(12), vì thế, Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch đã ban hành Sắc lệnh số 17, ngày 8-9-1945, về việc đặt ra phong trào bình
dân học vụ để giúp toàn dân thanh toán nạn mù chữ. Giặc dốt cũng nguy hiểm
như giặc đói và giặc ngoại xâm. Ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ
(ngày 3-9-1945), Người đã có thông báo về việc tiếp chuyện đại biểu các đoàn
thể rằng: “Từ năm nay, tôi sẽ rất vui lòng tiếp chuyện các đại biểu của các
đoàn thể”(13). Đó thực sự là Chính phủ dân chủ, trọng dân,
tin dân và vì dân. Đó cũng là nội dung thiết thực của thực hành dân chủ mà
Người đã rất mẫu mực thực hiện từ ngày đầu thành lập Chính phủ, đến nay vẫn
còn nguyên giá trị và ý nghĩa thời sự.
Nhờ
có tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết dân chủ với dân vận và đại đoàn kết toàn dân
tộc mà mọi công việc của đất nước đều được giải quyết bằng sức dân, hướng tới
phục vụ lợi ích của dân và cho dân. Và đây chính là ngọn nguồn để Người khẳng
định “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn”(14).
Di
huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định thực hành dân chủ trong Đảng là “cách
tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(15)
Trong Di
chúc để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến
những vấn đề căn cốt, cơ bản và trọng yếu của cách mạng Việt Nam. Riêng về vấn
đề thực hành dân chủ, Người nhận định, đây là “cách tốt nhất” nhằm xây dựng và
gia tăng sức mạnh nội lực cũng như sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng.
Người căn dặn: “Trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn
kết và thống nhất của Đảng”(16).
Kết
hợp điều đó với những huấn thị trong suốt cuộc đời hoạt động của Người về vấn
đề dân chủ có thể thấy, thực hành dân chủ trong Đảng chính là thực hành nguyên
tắc tập trung dân chủ. Người chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân
chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ
quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng
số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung
ương”(17); “Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi
hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là
thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến
hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số
nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương.
Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(18); “Từ tỉnh, huyện đến
chi bộ, phải làm đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách.
Nội bộ phải thật đoàn kết. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân
chủ và tập thể”(19).
Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng để giải
quyết mọi khó khăn”; tuy nhiên, dân chủ phải gắn liền với tập trung, và theo
đó, phải thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người nhấn
mạnh: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với
nhau... Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập
trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập
trung”(20). Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, thống nhất cả về
tư tưởng và hành động, để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ
như một người”(21).
Như
vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải sâu sắc bản chất của tập trung dân chủ và
coi đó là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng; đồng thời nhấn
mạnh, tập trung và dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố,
luôn luôn đi đôi với nhau; dân chủ phải đi đến tập trung và tập trung phải trên
cơ sở dân chủ; tập thể lãnh đạo phải đi đôi với phân công cá nhân phụ trách.
Tập trung dân chủ bao hàm tập trung và dân chủ.
Hai thành tố đó không mâu thuẫn với nhau mà luôn thống nhất với nhau
và tác động, bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ; dân
chủ có sự lãnh đạo, được sự bảo đảm của tập trung. Có giữ vững tập trung mới có
thể thực hiện và mở rộng dân chủ. Phát triển và mở rộng dân chủ luôn gắn liền
với giữ vững và tăng cường tập trung; trên cơ sở đó, dân chủ càng phát
triển thì tập trung càng vững chắc. Theo đó, mọi công việc trong Đảng đều phải
được bàn bạc dân chủ. Mọi đảng viên có quyền được nêu ý kiến của mình, nhưng
khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp
trên, toàn Đảng phải phục tùng Ban Chấp hành Trung ương và cao nhất là đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với
tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ
đối lập với tình trạng tản mát, tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật. Dân chủ
là cơ sở của tập trung và tập trung chỉ có thể được thực hiện một
cách hiệu quả trên cơ sở phát huy thật sự dân chủ trong Đảng. Tập trung
trên cơ sở dân chủ hoàn toàn khác với tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên
quyền. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung cũng hoàn toàn khác về bản chất với
dân chủ hình thức, dân chủ vô chính phủ, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật.
Nói
cách khác, tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng, không thể
tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn khổ,
có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu
quả cao trong lãnh đạo và quản lý. Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch
Hồ Chí Minh yêu cầu cần thực hành tập trung dân chủ gắn liền với thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân
chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Như thế là,
vừa đề cao trách nhiệm của cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của trí tuệ tập
thể. Cần phải bảo đảm tối đa dân chủ trong thảo luận, tranh luận để tìm tòi
chân lý. Khi chân lý đã được tìm thấy thì quyền tự do tư tưởng trở thành
quyền tự do phục tùng chân lý.
Thực
tiễn lịch sử về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu là bài học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực hiện không đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng cộng sản, dẫn đến mất dân chủ trong đảng.
Theo đó, một số nước xã hội chủ nghĩa nghiêng về tập trung quan liêu, thống
nhất cứng nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong đảng, xuất hiện hàng loạt các sai
lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác
lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vô chính phủ. Những
sai lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã làm tổn
hại nghiêm trọng đến vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, cản trở sự phát triển
và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng về
chính trị, kinh tế - xã hội, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa của các nước đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét