Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2022

Bão qua... tình người ở lại

 

Bão số 4 đã đi qua nhưng người dân Quảng Nam vẫn còn đó những nỗi lo. Tuy bão không gây thiệt hại về người, song thiệt hại nhiều về tài sản, hoa màu... Thế nhưng từ trong mưa bão, hình ảnh cán bộ, chiến sĩ quân đội sát cánh cùng các lực lượng phòng chống, khắc phục hậu quả đã để lại những tình cảm sâu đậm trong lòng nhân dân.

Theo Ban chỉ đạo Phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Quảng Nam thông tin, cơn bão số 4 sau khi đổ bộ vào đất liền đã gây nhiều thiệt hại về tài sản, hoa màu. Theo đó, có 52 người bị thương; 110 ngôi nhà bị sập trên 70%; 2.974 nhà bị hư hại, tốc mái; 131 phòng học bị tốc mái... Bão cũng làm hư hại hàng trăm ha lúa, hoa màu, hơn 2.000 con gia súc, gia cầm của người dân bị thiệt hại; hơn 1.000 ha rừng, 1.400 cây xanh ngã đổ sau bão; 5 ghe, tàu của ngư dân bị chìm, gần 1.000m bờ sông, biển sạt lở…

Bão qua... tình người ở lại
Mưa bão số 4 gây sạt lở nghiêm trọng trên địa bàn Tây Giang. 

Là địa bàn nằm phía bắc của tỉnh Quảng Nam, huyện Duy Xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ bão Noru. Ông Nguyễn Thế Đức, Phó chủ tịch UBND huyện Duy Xuyên cho biết, bão số 4 khiến 600 hộ dân/gần 2.300 nhân khẩu bị cô lập do nước lũ dâng cao, toàn huyện có 12 ngôi nhà ở xã Duy Vinh bị gió bão đánh sập và tốc mái hoàn toàn; 144 nhà dân bị tốc mái một phần; 30 phòng học ở các trường trên địa bàn huyện bị tốc mái, hư hỏng đồ dùng dạy học…

Do ảnh hưởng của bão số 4, nhiều tuyến đường trên địa bàn Tây Giang bị sạt lở nghiêm trọng, chia cắt giao thông. Tại tuyến đường DT 606 từ Bha lê lê đi A Tiêng và tuyến đường trên địa phận xã Lăng đi 4 xã vùng cao Chơ Chun, Gary, A Xan và Trhy bị cô lập hoàn toàn, nhiều nhà dân bị sập. Những số liệu nêu trên chưa phải là quá lớn, song đó cũng để lại nỗi khó khăn cho các địa phương trong thời gian tới, nhất là thời điểm khu vực miền Trung thường hứng chịu những trận mưa bão…

Thiên tai là tàn khốc, là mất mát, song từ trong gian khổ, tinh thần “cứu dân là mệnh lệnh trái tim”, “lo cho dân như lo cho mình” của cán bộ, chiến sĩ quân đội và các lực lượng trên địa bàn đối với người dân vùng lũ càng rõ nét. Bão qua... tình quân dân thêm nồng ấm.

Bão qua... tình người ở lại

Các lực lượng của huyện Tây Giang dốc sức dọn đường thông tuyến. 

Những ngày qua, Ban CHQS huyện Duy Xuyên huy động hơn 200 cán bộ, chiến sĩ và dân quân lao động giúp dân lợp lại mái nhà, sửa sang các phòng học, dọn vệ sinh môi trường... Với tinh thần “lo cho dân như lo cho mình”, trong hai ngày qua, Ban CHQS huyện Tây Giang huy động gần 400 cán bộ, chiến sĩ, dân quân do Trung tá Lê Huy Đông, Chính trị viên Ban CHQS huyện trực tiếp chỉ huy phối hợp cùng các lực lượng tích cực chặt cây đổ, dọn đường, thông tuyến; giúp dân khắc phục nhà sập, tốc mái.

Đến thôn Arooi xã Gari, chúng tôi thấy hơn 20 chiến sĩ dân quân do đồng chí Hối H Nhái, Chỉ huy trưởng Ban CHQS xã Gary chỉ huy giúp gia đình ông Risah Kíu khắc phục hậu quả. Nhà ông Risah Kíu (dân tộc Cơ Tu) bão đến chỉ kịp dắt theo vợ và hai con nhỏ thoát thân, còn ngôi nhà bị đất đá trên núi sạt lở tràn vào khiến đồ dùng, vật dụng hư hỏng hết.

Bên ngôi nhà đang được dân quân nạo vét bùn đất, ông Risah Kíu cảm động nói: “Vợ chồng tui thường xuyên đau ốm, sức khỏe yếu, may có các chú bộ đội, dân quân giúp sức, nếu không thì nguy!".

Bão qua... tình người ở lại

Lực lượng vũ trang huyện Tây Giang giúp dân sửa chữa nhà bị tốc mái do bão số 4.

Sát cánh cùng với Ban CHQS huyện, cán bộ, chiến sĩ biên phòng cũng “dốc sức” giúp dân. Trung tá Hoàng Thanh Hà, Đồn trưởng Đồn Biên phòng Ga Ry cho biết: “Để kịp thời giúp dân khắc phục hậu quả sau bão, đơn vị đã huy động gần 100 cán bộ, chiến sĩ xuống địa bàn các xã giúp dân tháo dỡ nhà cửa bị hư hại và di chuyển tài sản từ vị trí trú tránh trở về nhà; tham gia khôi phục nhiều ngôi nhà bị hư hỏng do ngã đổ, tốc mái, bùn đất tràn vào vùi lấp".

Chiều 2-10, trao đổi với chúng tôi, Đại tá Hoàng Văn Mẫn, Chính ủy Bộ đội Biên phòng Quảng Nam cung cấp thông tin: “Hiện nay, toàn bộ lực lượng của Bộ đội Biên phòng Quảng Nam thường trực 100% để tập trung ưu tiên giúp dân khắc phục hậu quả. Sau khi bão tan, tất cả đơn vị tăng cường lực lượng xuống các địa bàn ven biển, khu vực sạt lở ở các xã miền núi để hỗ trợ, giúp dân khắc phục thiệt hại do bão gây ra, giúp người dân sớm ổn định cuộc sống".

Nguồn: QĐND.

Giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng ở Bộ đội Biên phòng: Đồng bộ nhiều giải pháp, tạo chuyển biến rõ nét

 

Đảng ủy, Bộ tư lệnh (BTL) Bộ đội Biên phòng (BĐBP) vừa tổ chức đợt kiểm tra đánh giá kết quả quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị số 173-CT/ĐU ngày 3-7-2021 của Thường vụ Đảng ủy BĐBP và Kế hoạch số 3088/KH-BĐBP ngày 6-8-2021 của BTL BĐBP về “Tăng cường giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, bảo vệ nội bộ; chấn chỉnh, khắc phục tình trạng vi phạm kỷ luật, pháp luật và bảo đảm an toàn trong BĐBP”.

Phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trò chuyện với Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Bộ đội Biên phòng về nội dung này.

Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, Đảng ủy, BTL BĐBP đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị 173 và Kế hoạch 3088 như thế nào?

Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn: Trên cơ sở làm điểm của một số cơ quan, đơn vị, chúng tôi chỉ đạo toàn lực lượng mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm nhằm quán triệt, tuyên truyền và đánh giá thực chất, toàn diện những nội dung, yêu cầu của Chỉ thị 173 và Kế hoạch 3088. Từng cán bộ, chiến sĩ (CB, CS) quán triệt sâu sắc, cam kết thực hiện nghiêm; nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức và thực hiện tốt “tự soi”, “tự sửa”, nhất là trách nhiệm nêu gương của lãnh đạo, chỉ huy các cấp nhằm giữ vững phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ và truyền thống anh hùng của lực lượng BĐBP.

Giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng ở Bộ đội Biên phòng: Đồng bộ nhiều giải pháp, tạo chuyển biến rõ nét

Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn. Ảnh: THU THẢO.

Đặc biệt, Đảng ủy, BTL BĐBP yêu cầu các đơn vị tăng cường công tác nắm tình hình chính trị nội bộ, quản lý diễn biến tư tưởng của CB, CS; kịp thời phát hiện các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và vi phạm pháp luật, kỷ luật; giải quyết kịp thời, đúng quy định các vấn đề mới phát sinh ngay từ cơ sở. Làm tốt công tác rà soát, đánh giá chất lượng chính trị và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm kỷ luật, pháp luật. Các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên được củng cố, kiện toàn bảo đảm chất lượng, phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo; nâng cao chất lượng sinh hoạt theo hướng mở rộng dân chủ, đề cao kỷ luật, duy trì thực hiện nghiêm quy chế lãnh đạo trên các mặt công tác. Các đơn vị thường xuyên quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tăng cường tình đoàn kết, thống nhất và đẩy mạnh phong trào thi đua, kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng các điển hình tiên tiến, cách làm hay theo tinh thần “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”...

PV: Qua đợt kiểm tra sâu rộng và toàn diện vừa qua đã cho thấy những kết quả nổi bật gì, thưa đồng chí?

Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn: Theo báo cáo của các đoàn kiểm tra, toàn lực lượng BĐBP đã quán triệt nghiêm túc, tập trung triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, do vậy, công tác quản lý tư tưởng, bảo vệ nội bộ và chấn chỉnh, khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật, kỷ luật, bảo đảm an toàn có chuyển biến rõ rệt.

Giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng ở Bộ đội Biên phòng: Đồng bộ nhiều giải pháp, tạo chuyển biến rõ nét
 

Tiểu đoàn Huấn luyện - Cơ động, Bộ đội Biên phòng tỉnh Kiên Giang duy trì huấn luyện nghiêm túc.Ảnh: VIẾT LAM

Trước hết, nhận thức của cấp ủy, chỉ huy các cấp, nhất là quyết tâm chính trị trong lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác này được nâng cao. Nổi bật là các đơn vị đã tập trung xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ công tác ở những địa bàn khó khăn, phức tạp, nhạy cảm; kiên quyết khắc phục những hạn chế trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường tuyên truyền, thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật cho mọi quân nhân; nền nếp, lễ tiết tác phong, chế độ công tác của từng CB, CS được duy trì nghiêm.

Cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các đơn vị coi trọng làm tốt công tác quản lý tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của quân nhân, nắm chắc tình hình chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện dấu hiệu tiêu cực, vi phạm kỷ luật, pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai nghiêm; khi có vụ việc đã kịp thời xem xét, xử lý vi phạm của tập thể, cá nhân và trách nhiệm liên đới theo đúng quy định của pháp luật, kỷ luật Đảng và quân đội, không có vùng cấm.

Nhờ đó, việc chấp hành kỷ luật, pháp luật và bảo đảm an toàn của các đơn vị ngày càng tốt hơn; CB, CS phát huy tinh thần tự giác trong thực hiện nhiệm vụ. Hiệu quả thực tế là số vụ việc, số quân nhân vi phạm kỷ luật, mất an toàn trong lực lượng BĐBP giảm 16,7% so với cùng kỳ năm trước; hơn 2/3 số cơ quan, đơn vị đầu mối trực thuộc BTL BĐBP không có vụ việc vi phạm nghiêm trọng. Đặc biệt, các mặt công tác của toàn lực lượng BĐBP được nâng lên rõ rệt, hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới và đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật trên tuyến biên giới, cùng các nhiệm vụ khác.

PV: Bên cạnh kết quả đã đạt được, công tác quản lý tư tưởng, bảo vệ nội bộ, khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật, kỷ luật và bảo đảm an toàn trong lực lượng BĐBP có gặp khó khăn gì không, thưa đồng chí?

Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn: Đó là các thế lực thù địch tăng cường chống phá, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa; tội phạm, vi phạm pháp luật, buôn lậu, gian lận thương mại ở khu vực biên giới, vùng biển diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Tội phạm không chỉ có vũ khí “nóng” và rất liều lĩnh, manh động, sẵn sàng chống trả BĐBP quyết liệt khi bị phát hiện, xử lý mà còn tìm mọi cách, thông qua mọi mối quan hệ để dụ dỗ, mua chuộc, khống chế, ép buộc CB, CS “bỏ qua” vi phạm của chúng. Những thông tin đa chiều trên internet, mạng xã hội tác động trực tiếp đến CB, CS, nhất là chiến sĩ trẻ... 

Một khó khăn nữa là BĐBP hoạt động trên địa bàn rộng, phân tán, nhiều đội, trạm, tổ, chốt và tàu công tác nhỏ lẻ, xa chỉ huy, đường sá đi lại khó khăn nên việc duy trì các chế độ, nền nếp, bảo đảm điều kiện sinh hoạt, làm việc và công tác giáo dục, quản lý, kiểm tra, giám sát phải hết sức khoa học, linh hoạt, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp thì mới hiệu quả.  

PV: Thời gian tới, Đảng ủy, BTL BĐBP tập trung vào những giải pháp gì để làm tốt hơn nữa công tác quản lý tư tưởng, bảo vệ nội bộ, khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật, kỷ luật và bảo đảm an toàn?

Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn: Xác định đây là quyết tâm chính trị để bảo đảm cho lực lượng BĐBP hoàn thành tốt nhiệm vụ, trên cơ sở rút kinh nghiệm sau đợt kiểm tra vừa qua, nhất là những điểm còn hạn chế, thời gian tới, Đảng ủy, BTL BĐBP tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn lực lượng thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm sau:

Trước hết, BTL thông báo kết quả kiểm tra và yêu cầu các cơ quan, đơn vị tổ chức sinh hoạt nghiêm túc, làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm và đề ra biện pháp cụ thể để khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện nhiệm vụ. Tiếp tục phát huy, nhân rộng những cách làm hiệu quả trong công tác quản lý tư tưởng, bảo vệ nội bộ, khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật, kỷ luật và bảo đảm an toàn, như: Duy trì và nâng chất lượng hoạt động của tổ 3 người, chiến sĩ bảo vệ...; thường xuyên chăm lo, bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội; xây dựng môi trường đơn vị thân thiện, đoàn kết, dân chủ...

Hai là, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy đối với công tác quản lý tư tưởng, bảo vệ nội bộ, khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật, kỷ luật và bảo đảm an toàn; làm tốt công tác quản lý tư tưởng quân nhân; kịp thời nắm và định hướng dư luận... Thực tiễn cho thấy, đa số vụ việc vi phạm kỷ luật, mất an toàn đều có nguyên nhân chủ quan từ sự lơ là, thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý của lãnh đạo, chỉ huy đơn vị. Vì vậy, cần gắn trách nhiệm cụ thể của cán bộ các cấp trong quản lý, chỉ huy, bảo đảm sự thường xuyên, liên tục và nhất là phải thực sự nêu gương. Đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, đảng viên nghiêm túc, thực chất và kịp thời thay thế cán bộ chủ trì nếu không làm tốt công tác quản lý, chỉ huy đơn vị, xử lý nghiêm nếu có vi phạm.

Ba là, tiếp tục chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đi đôi với thường xuyên kiểm tra và duy trì thực hiện nghiêm các quy định trong quản lý, bảo vệ biên giới, kiểm soát xuất, nhập cảnh, xử lý các vụ việc liên quan đến buôn lậu... không để xảy ra tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ. Tăng cường các biện pháp bảo vệ nội bộ, nắm chắc tình hình đơn vị, các mối quan hệ xã hội, tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh, sức khỏe của quân nhân để có biện pháp quản lý, giáo dục phù hợp. Kịp thời phát hiện những dư luận, dấu hiệu tiêu cực để ngăn chặn hiệu quả và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Chú trọng công tác bảo đảm an toàn, quản lý chặt chẽ quân nhân, vũ khí, trang bị, phương tiện, nhất là trong những ngày nghỉ, giờ nghỉ và trong huấn luyện, diễn tập, dã ngoại, công tác ở ngoài doanh trại, đặc biệt là đối với CB, CS công tác ở các bộ phận nhỏ lẻ, dễ xảy ra vi phạm.

Nguồn: QĐND.

ĐẨY LÙI NHỮNG TÁC PHẨM “NÚP BÓNG NGHỆ THUẬT” LÀM THA HÓA TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI Thời đại hội nhập quốc tế và xã hội phát triển góp phần làm cho đời sống văn học-nghệ thuật (VHNT) ngày càng phong phú. Song VHNT cũng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, phức tạp. Lợi dụng các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Zalo, YouTube và lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, một số “văn tài tha hóa” đã cho ra đời những sản phẩm "núp bóng tác phẩm nghệ thuật", làm tha hóa tư tưởng con người và tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần xã hội. Văn nghệ sĩ tha hóa sẽ cho ra những đứa con tinh thần lạc lối, nguy hại Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”(1). Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, những văn nghệ sĩ yêu nước đã sử dụng một loại vũ khí có sức mạnh “thanh cao mà đắc lực”-thứ vũ khí không được chế tác bằng kim loại, không gây sát thương, nhưng mang lại hiệu quả chiến đấu to lớn, góp phần làm nên những chiến thắng lẫy lừng của dân tộc Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ở thế kỷ 21. Nhà thơ Sóng Hồng(2) đã viết: “Dùng bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ: Bom đạn phá cường quyền” ("Là thi sĩ"). Những vần thơ như thay cho lời khẳng định về giá trị, vị trí, vai trò của VHNT trong kháng chiến giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta xác định, VHNT là lĩnh vực rất quan trọng để bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, hoàn thiện nhân cách, đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh của con người. Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) khẳng định: “VHNT là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn, trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam... VHNT Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ”(3). Ngày nay, trong điều kiện đất nước phát triển, đặc biệt là sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tư duy sáng tạo văn học cũng như tâm lý học sáng tạo nghệ thuật của văn nghệ sĩ đã được đổi mới, mở rộng và phát triển mạnh mẽ, hội nhập cùng với xu hướng hiện đại của các nước tiên tiến trên thế giới. Cũng từ đó, VHNT ngày càng có cách nhìn phóng khoáng hơn, biên độ sáng tạo được mở rộng hơn, hệ thống tiếp nhận cũng được định hình theo sự phân tầng của tư duy nghệ sĩ; góp phần đổi mới, đa dạng hơn về đề tài, nội dung tư tưởng. Tuy nhiên, thời gian qua xuất hiện một số văn nghệ sĩ đã bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, mua chuộc; hay thậm chí chính họ bị tha hóa về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Những đối tượng này thành lập các hội, nhóm, “sáng tạo” ra một thứ nghệ thuật đồi trụy "núp bóng" văn hóa, văn chương; tạo ra những cái gọi là “tác phẩm nghệ thuật” thiếu chuẩn mực, thiếu đạo đức, chà đạp truyền thống lịch sử, làm ô uế thuần phong mỹ tục của dân tộc với những tư duy lệch lạc, những câu chuyện rẻ rúng, những thứ ngôn từ thô tục... để phủ nhận thành quả cách mạng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đổ biết bao xương máu mới giành được. Thậm chí, “tác phẩm nghệ thuật” ấy được lồng ghép và tạo dựng những hình ảnh dung tục với một lối tư duy phi truyền thống, phi văn chương, phi nghệ thuật, phi chính trị... nhằm mục đích tuyên truyền, kích động, bôi nhọ lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ, bôi nhọ anh hùng dân tộc, bôi nhọ nền tảng truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc...Ví như những cuốn sách: “Bên kia bờ ảo vọng”, “Một cơn gió bụi”, “Tây Hùng Vương”, “Mối chúa”, “Đất mồ côi”... làm cho người tiếp nhận, nhất là thế hệ trẻ bị hoang mang, dẫn đến nhận thức lệch lạc, đánh mất niềm tin vào cuộc sống, trật tự xã hội bị đảo lộn, tư duy con người bị xô lệch, mất phương hướng. Xây dựng phòng tuyến văn hóa đủ sức ngăn ngừa những tác phẩm lệch lạc, xấu độc Đảng, Nhà nước ta và các cơ quan quản lý không hạn chế, kìm hãm tư duy sáng tạo nghệ thuật của văn nghệ sĩ, nhưng định hướng, mong muốn, khuyến nghị các văn nghệ sĩ cần đặt những sản phẩm sáng tạo-những thành quả lao động nghệ thuật-vào đúng vị trí của nó và phù hợp với các giá trị chuẩn mực của cộng đồng, xã hội. Trong bối cảnh thông tin bùng nổ hiện nay, cần thực hiện nhiều giải pháp để xây dựng phòng tuyến văn hóa đủ sức ngăn ngừa hiệu quả những hệ lụy tiêu cực từ các tác phẩm VHNT có nội dung thấp kém, xấu độc. Giải pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện hiệu quả những định hướng của Đảng về VHNT gắn với phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Đặc biệt chú trọng quán triệt và thực hiện tốt nội dung Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) "Về tiếp tục xây dựng và phát triển VHNT trong thời kỳ mới" và những chương trình, kế hoạch về phát triển văn hóa, VHNT mà các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương và chính quyền các địa phương đã xác định. Coi trọng và phát huy vai trò, trách nhiệm của những người làm nhiệm vụ “gác cổng nghệ thuật”, những cơ quan trực tiếp làm công tác biên tập, xuất bản, phát hành, tránh để những sản phẩm phi nghệ thuật được xuất bản, phát tán, lưu hành trong đời sống xã hội. Các cơ quan quản lý, cơ quan biên tập, xuất bản phải thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác biên tập; phối hợp chặt chẽ với cơ quan liên quan để phân tích, sàng lọc và nắm được tư tưởng văn nghệ sĩ thông qua sản phẩm sáng tạo. Bên cạnh đó, những người làm công tác quản lý VHNT phải thực sự nhạy bén trong nhận định, đánh giá tác phẩm nghệ thuật, biết phân biệt rõ những tác phẩm nghệ thuật chân chính với những sản phẩm “núp bóng nghệ thuật” được tạo ra bởi tư duy thấp hèn, phục vụ những lợi ích cá nhân không lành mạnh và mang động cơ đen tối. Đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và cán bộ, đảng viên, cần nhận thức đầy đủ về vai trò, tầm quan trọng của VHNT trong đời sống tinh thần của nhân dân. Lĩnh vực VHNT là một mặt trận mà những “chiến sĩ văn hóa” cần đem hết tài năng, trí tuệ và nhiệt huyết của mình để cống hiến, sáng tạo những tác phẩm VHNT có giá trị. Cùng với đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần đấu tranh với những tác phẩm “núp bóng văn hóa”, những tác phẩm phi nghệ thuật và những cuốn sách có tư tưởng lệch lạc, ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước, bôi nhọ lịch sử dân tộc, ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng, nhận thức, tình cảm của nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Chúng ta tôn trọng sự tự do sáng tạo nhưng phải quan tâm bồi dưỡng tư tưởng chính trị, quan điểm, lập trường cho văn nghệ sĩ. "Lá, cành" của "cây xanh" văn nghệ sĩ phải luôn "quang hợp" ánh sáng lý tưởng cách mạng, nếu không, "cây" sẽ bị héo và "quả" sẽ sài đẹn. Lịch sử nghệ thuật cho thấy, các nghệ sĩ lớn luôn tự do sáng tạo theo một xu hướng nhất định. Sáng tạo VHNT theo những nguyên lý cơ bản của mỹ học Mác-xít là sáng tạo theo tinh thần nhân văn, tiến bộ, phù hợp với quy luật tư tưởng và tình cảm tâm lý tiếp nhận của con người. Sứ mệnh cao cả nhất của văn nghệ sĩ là tự do sáng tạo vì nước, vì dân, vì chủ nghĩa xã hội, vì những phẩm giá tốt đẹp của con người và giá trị chân, thiện, mỹ của xã hội. Trong xã hội hiện đại, để góp phần cho VHNT đi đúng hướng và có sức sống dồi dào, sức lan tỏa sâu rộng, các cơ quan chức năng và các hội chuyên ngành VHNT cần tiếp tục tổ chức các chuyến đi thực tế để văn nghệ sĩ có điều kiện tìm hiểu kỹ hơn về đời sống xã hội, từ đó có những cảm nhận vui buồn, cảm thông và chia sẻ với các tầng lớp nhân dân, nhất là người lao động. Vốn sống của văn nghệ sĩ không chỉ loanh quanh trong một cơ quan, địa phương, ngành nghề mà phải vươn ra khắp mọi miền Tổ quốc. Sinh thời, nhà văn Nam Cao từng nhấn mạnh: “Sống đã rồi hãy viết”. Vì lẽ đó, việc duy trì tổ chức những chuyến đi thực tế để các văn nghệ sĩ được sống, được hít thở, được đập cùng nhịp đập trái tim của nhân dân ở mọi lúc, mọi nơi trên đất nước Việt Nam sẽ góp phần giúp họ am hiểu cuộc đời, biết chắt lấy tinh hoa đời sống để xây dựng mô hình, chất liệu, sức sống cho tác phẩm VHNT.
Nhận diện và ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nguy cơ hết sức nghiêm trọng, diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có quốc phòng - an ninh. Đây thực sự là một mối hiểm họa tiềm tàng, một thứ “giặc nội xâm” nguy hiểm, cần sớm được nhận diện, ngăn ngừa và đấu tranh kịp thời, hiệu quả. Ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã chỉ rõ: “Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” còn diễn biến phức tạp”. Lợi dụng những vấn đề liên quan đến quốc phòng - an ninh của đất nước, các thế lực thù địch đã và đang đẩy mạnh nhiều hoạt động chống phá. Mục đích của chúng là tuyên truyền, kích động nhằm làm lung lạc, suy giảm hoặc mất niềm tin của nhân dân vào với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó có lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên cần nêu cao cảnh giá, nhận diện và đấu tranh kịp thời. Đối với những người có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh có 3 mức độ. Mức độ biểu hiện đầu tiên, là thái độ thiếu tin tưởng vào khả năng, sức mạnh quốc phòng - an ninh trong bảo vệ Tổ quốc. Nhìn lại sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 (2014), khi tình hình biên giới, biển, đảo có diễn biến phức tạp, nhạy cảm, những người này thể hiện sự bi quan, hoang mang. Một số quay sang phê phán phương pháp xử lý của Đảng, Nhà nước ta. Thậm chí còn cho rằng, Việt Nam là nước nhỏ yếu nên phải nhượng bộ, phải “chấp nhận”. Mức độ tiếp theo, từ thiếu niềm tin, họ bắt đầu đòi hỏi phải có sự đổi mới nhưng theo hướng dựa vào bên ngoài, xa rời nguyên tắc độc lập, tự chủ. Họ muốn đi theo các nước lớn, cụ thể là Mỹ để nhận được sự giúp đỡ về vũ khí trang bị nhằm gia tăng sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đây là suy nghĩ phiến diện, có thể gây ra mối nguy hại lâu dài cho đất nước. Bởi lẽ, mọi sự viện trợ, giúp đỡ không phải là “miễn phí”, mà còn kèm theo những yêu cầu, đòi hỏi từ nước lớn nên thường dẫn tới yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội, thậm chí nguy cơ xảy ra xung đột, chiến tranh. Ở mức độ cao hơn, họ xuyên tạc, công kích đối đường lối, chính sách quốc phòng - an ninh của Đảng và Nhà nước. Đây là mức độ biểu hiện, phản ánh rõ ràng tính chất trầm trọng và đặc biệt nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Nội dung thông tin và luận điệu xuyên tạc hết sức đa dạng, với nhiều biểu hiện khác nhau. Nhưng chủ yếu vẫn là đòi phi chính trị hóa, phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với QĐND và CAND; xuyên tạc mục đích của các hợp đồng mua bán vũ khí, các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta tới các nước và nguyên thủ các nước tới thăm nước ta; việc sử dụng đất quốc phòng; xuyên tạc lịch sử và thực trạng tình hình biên giới trên đất liền và hiện trạng biển, đảo... Mục đích của những thông tin và luận điệu xuyên tạc đó là làm xấu hình ảnh của QĐND và CAND trước nhân dân và dư luận quốc tế; tạo ra sự nghi ngờ, hoang mang trong nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo, cách thức giải quyết sự việc liên quan đến quốc phòng - an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, từng bước tác động nhằm làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và truyền thống tốt đẹp của QĐND và CAND. Để đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” nói chung và “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh nói riêng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nhận diện kịp thời, chính xác những biểu hiện của “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa”; chủ động ngăn chặn, kiên quyết phản bác, đấu tranh với những luận điệu sai trái, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Là lực lượng tiên phong, gương mẫu đi đầu, cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; không để sa ngã trước những cám dỗ tầm thường; không để các thế lực thù địch lợi dụng, mua chuộc, lôi kéo, tác động. Đ.S
Quân đội đấu tranh phòng chống âm mưu "Diễn biến hòa bình" trong tình hình mới Những năm gần đây, tình trạng bất ổn, bạo động, biến động chính trị và xung đột vũ trang trên thế giới, điển hình như ở các nước Trung Đông, Bắc Phi và cuộc chiến tranh giữa Nga- Ucrainai đang diễn ra có sự tham gia rất lớn của các trang mạng xã hội. Cùng với đó, “Diễn biến hòa bình” qua mạng xã hội đã và đang là phương thức, thủ đoạn chủ yếu của các thế lực thù địch, phản động quốc tế trong giai đoạn bùng nổ thông tin ngày nay, nhất là đối với Việt Nam chúng ta. Phạm vi bài viết xin đề cập chiến lược diễn biến hoà bình (DBHB) của các thế lực thù địch. Âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “DBHB” trên lĩnh vựcquốc phòng, an ninh (QP, AN) trên mạng xã hội. Biện pháp Quân độitham gia phòng, chống chiến lược “DBHB”trên mạng xã hội hiện nay. Chiến lược "Diễn biến hòa bình" Chiến lược “DBHB” là chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mà không cần đến chiến tranh. Vì vậy, chiến lược “DBHB” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước xã hội tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự, thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hóa chế độ chính trị - xã hội theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản do Mỹ thao túng, bá quyền. Mục tiêu của “DBHB” là làm cho đại đa số cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân, từ cán bộ cấp cao cho đến người dân đều có chung tâm trạng hoài nghi, dao động; không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, nhằm tiến tới xóa bỏ mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Đặc trưng cơ bản để nhận biết được chiến lược “DBHB” so với các chiến lược phản cách mạng khác, chính là: cuộc chiến không sử dụng súng, không mùi thuốc súng; cuộc chiến chủ yếu sử dụng các công cụ mềm như kinh tế, ngoại giao văn hóa, tư tưởng, khi cần mới sử dụng sức mạnh quân sự, để răn đe đối phương; tác động từ bên ngoài vào tạo nên sự chuyển hóa, tự diễn biến, tự suy yếu bên trong các nước xã hội chủ nghĩa, thông qua con người, lực lượng phương tiện của chính đối phương; không phá hủy của cải vật chất của đối phương bằng sức mạnh quân sự, chủ yếu “ru ngủ”, gây mất cảnh giác cách mạng của Nhân dân lao động, mua chuộc, lôi kéo những người có chức vụ cao trong cơ quan Đảng và nhà nước, những văn nghệ sĩ, tri thức có uy tín, những người có tư tưởng dao động, nhận thức lệnh lạc hoặc bất mãn với chế độ. Chiến lược “DBHB” mang tính toàn cầu, được triển khai trên quy mô lớn và rộng khắp, tiến hành gặm nhấm, không vội vã, có trọng tâm, trọng điểm, từng bước làm cho đối phương rối loạn nội bộ rồi sụp đổ... “DBHB” đã trở thành một trong những nguyên nhân đến sự sụp đổ của các nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch phản động đang đẩy mạnh “DBHB” đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Chiến lược “DBHB” do các thế lực thù địch tiến hành, đã và đang là một trong bốn nguy cơ của cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định: “DBHB” do các thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Âm mưu, thủ đoạn chiến lược DBHB của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với quốc phòng, an ninh hiện nay Trên lĩnh vực QP, AN, âm mưu của địch là phi chính trị hóa quân đội và công an, vô hiệu hóa các lực lượng vũ trang trong cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng tập trung chống phá hệ tư tưởng của Đảng trong quân đội; tuyên truyền kích động gây mơ hồ, chia rẽ mối quan hệ bản chất giữa Đảng với quân đội; quân đội với công an và các ngành khác, làm cho quân đội giảm lòng tin với Đảng, xa rời mục tiêu chiến đấu và nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội, làm cho quân đội mất bản chất cách mạng. Mặt khác, chúng chỉ đạo việc đầu tư vào những địa bàn dễ phá vỡ thế trận QP, AN của ta. Thủ đoạn hiện nay mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã, đang và sẽ tập trung chủ yếu là sử dụng internet, không gian mạng, chủ yếu là mạng xã hội để chống phá cách mạng nước ta. Thông qua việc thiết lập các website, blog để tổ chức truyền tải thông tin xấu, độc nhằm: Phá hoại tư tưởng, đời sống văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân; Gây nhiễu loạn thông tin, làm phức tạp về chính trị xã hội; Làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp. Chiêu bài chính chúng tập trung hướng vào là lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội; khai thác thông tin từ những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống để xuyên tạc, thổi phồng; lấy hiện tượng quy kết thành bản chất; đăng tải thông tin thật, giả lẫn lộn, đưa ra cái gọi là “tài liệu chứng minh” để, xuyên tạc vai trò lãnh đạo, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bịa đặt về bí mật theo kiểu hé lộ những “thâm cung bí sử” trong Đảng… Qua đó, tác động “dương Đông kích Tây” làm gia tăng các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và kích động xã hội nảy sinh quan điểm tùy tiện, phản biện vô nguyên tắc, phản đối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kêu gọi từ bỏ Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin; thúc đẩy lối sống thực dụng, thẩm thấu tư tưởng văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân (nhất là thế hệ trẻ) làm phai nhạt lý tưởng cách mạng, băng hoại đạo đức xã hội... Trong lĩnh vực QP, AN, Các thế lực thu địch thường lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, chỉ huy; khai thác thông tin từ một số vụ việc tiêu cực đơn lẻ rồi xuyên tạc sự thật, thổi phồng thiếu sót khuyết điểm; lấy hiện tượng quy kết thành bản chất; đăng tải thông tin thật, giả lẫn lộn để đả kích, phủ nhận truyền thống, bản chất cách mạng của quân đội, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, chia rẽ mối quan hệ mật thiết quân đội với nhân dân, kích động đòi “phi chính trị hóa” quân đội. Qua đó, thúc đẩy nhanh các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong quân đội; truyền bá lối sống thực dụng, thẩm thấu tư tưởng văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa, tinh thần, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, mục ruỗng về tổ chức, băng hoại về đạo đức của quân nhân. Các thông tin được chúng nhào nặn rất tinh vi, trộn lẫn thật - giả, tốt - xấu, khó nhận diện, trở nên cực kỳ nguy hiểm. Quan điểm của Đảng trong phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình”trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ QP, AN là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trận tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực QP, AN”. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp QP, AN; xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi âm mưu và hành động bạo loạn lật đổ của địch; không để địch cài cắm, móc nối, mua chuộc nội bộ; bảo vệ bí mật quân đội, quốc gia. Đồng thời, nâng cao năng lực và hiệu quả tham mưu cho Đảng và nhà nước của các bộ, ngành, cơ quan chức năng về QP, AN; luôn chủ động, có những quyết sách đúng đắn để làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của địch. Tích cực xây dựng cơ sở chính trị, làm tốt công tác vận động quần chúng, đặc biệt ở những địa bàn trọng yếu, vùng rừng núi, biên giới, hải đảo; làm tốt công tác giáo dục, vận động Nhân dân nâng cao cảnh giác cách mạng, tham gia tích cực vào sự nghiệp QPAN, phòng chống “DBHB”, bạo loạn lật đổ. Đại hội XIII của Đảng xác định phương hướng, mục tiêu: "Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ“. Đồng thời phải nâng cao trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền số quốc gia trên không gian mạng trong mọi tình huống. Tiếp tục xây dựng, củng cố, hoàn chỉnh thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa phương. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), huyện (quận) ngày càng vững chắc, làm thất bại mọi âm mưu gây mất ổn định trên đất nước ta của địch. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng - an ninh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành tập trung thống nhất của nhà nước. Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt với Lực lượng vũ trang Nhân dân và Công an Nhân dân. Kiên quyết không để kẻ địch thực hiện âm mưu phi chính trị hóa, tiến tới vô hiệu hóa Lực lượng vũ trang Nhân dân, nhất là Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân của ta. Giải pháp của Quân đội tham gia phòng chống “Diễn biến hòa bình” hiện nay Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “DBHB” của các thế lực thù địch trên các trang mạng xã hội là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải được triển khai tích cực, thường xuyên và lâu dài. Trong đấu tranh phải kiên quyết, linh hoạt, chủ động, sắc bén, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” làm chính. Đối với quân đội trong thời gian tới cần củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng, chống “DBHB” trên không gian mạng bằng một số giải pháp như sau: Một là, lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể, phù hợp chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Quán triệt Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; Đề án “Quân đội phòng, chống “DBHB” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới”; Chỉ thị số 47/CT-CT, ngày 08/01/2016 của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về tổ chức lực lượng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị trên không gian mạng trong Quân đội; đồng thời, bám sát thực tiễn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là trước những sự kiện quan trọng, vụ việc phức tạp, nhạy cảm… kịp thời thông tin, định hướng tư tưởng cho cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ. Qua đó, để cán bộ, chiến sĩ nắm chắc về đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam và nhiệm vụ phòng, chống “DBHB”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nêu cao tinh thần cảnh giác và ý thức tổ chức kỷ luật, “tự miễn dịch” trước hoạt động chống phá tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo 35 của đảng ủy các cấp thực hiện tốt việc tham mưu, xây dựng, ban hành đồng bộ hệ thống quy chế, quy định, chương trình hành động cụ thể; chủ động xây dựng, tổ chức lực lượng để hoạt động đấu tranh trên không gian mạng có nền nếp, bảo đảm bí mật, rộng khắp, thống nhất, hiệu quả và bảo vệ mình. Thường xuyên nghiên cứu, nắm chắc tình hình, cung cấp thông tin, “chỉ thị mục tiêu” và định hướng để đấu tranh kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm. Các nghị quyết, kết luận lãnh đạo thường kỳ của các cấp ủy, tổ chức đảng đều có nội dung, biện pháp lãnh đạo đấu tranh trên không gian mạng, gắn với thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình, bảo đảm tính nhạy bén, sáng tạo, nhưng phải chấp hành nghiêm quy định bảo vệ chính trị nội bộ, không để lọt, lộ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, ngăn chặn kịp thời các tài liệu phản động, văn hóa phẩm xấu độc thâm nhập vào nội bộ. Thứ hai, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần xác định: đấu tranh trên mạng xã hội là một nội dung quan trọng nhằm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; phải kiên quyết, kiên trì và nhạy bén, linh hoạt. Cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần chú trọng quản lý hoạt động trên mạng xã hội của cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ khi sử dung internet, tham gia mạng xã hội và trong công tác đấu tranh chống “DBHB” trên không gian mạng; kịp thời chấn chỉnh các trường hợp chưa chuẩn mực trên mạng xã hội, bảo đảm hoạt động đấu tranh luôn đúng định hướng. Cấp ủy đảng các cấp phải xác định đây là một nhiệm vụ quan trọng cần tập trung lãnh đạo, vận dụng phù hợp với thực tiễn nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị bằng kế hoạch, chương trình cụ thể. Cần linh hoạt, sắc sảo, sáng tạo, tránh giáo điều, dập khuôn, máy móc; đề cao ý thức chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quy định phát ngôn,... nắm chắc tình hình trên mạng xã hội của quân nhân, kịp thời phát hiện những biểu hiện dao động, suy thoái về tư tưởng, chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để có biện pháp giáo dục; kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm. Thứ ba, cần giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thái độ chủ động, tích cực tham gia đấu tranh chống “DBHB” trên không gian mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Muốn vậy, trước hết các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục thực hiện tốt Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, nâng cao nhận thức lý luận chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, kịp thời định hướng một cách thấu đáo, thuyết phục những vấn đề mới nảy sinh có ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm, tâm lý của bộ đội. Phải giáo dục cho quân nhân hiểu rõ “tính hai mặt” của không gian mạng cũng như âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; tạo khả năng “tự miễn dịch” cho cán bộ, chiến sĩ trước các thông tin xấu độc, cũng như tăng cường sức “đề kháng” để chủ động tiến công, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với âm mưu “DBHB” trên không gian mạng. Thứ tư, duy trì thường xuyên và có hiệu quả hoạt động thông báo thời sự và công tác tuyên truyền trong nhân dân. Với tỉ lệ người dân sử dụng internet và mạng xã hội đông đảo như Việt Nam hiện nay, cùng với tình trạng nhiễu loạn thông tin trong thời gian qua, thực trạng “phản ứng chậm” với những thông tin sai trái, bịa đặt trên mạng xã hội của các cơ quan, đơn vị diễn ra còn phổ biến. Do đó, các cơ quan, đơn vị phải nhạy bén, thường xuyên, kịp thời, chủ động cung cấp thông tin chính thống thông qua chế độ thông báo thời sự và các hình thức tuyên truyền trong nhân dân. Đối với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, phạm vi tác động, ảnh hưởng lớn, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần tranh thủ sự chỉ đạo, định hướng của cơ quan cấp trên, chủ động thông báo, thông tin chính thống trên các trang mạng xã hội, tạo sự đồng thuận cao trong cơ quan, đơn vị và nhân dân trên địa bàn; duy trì hiệu quả chế độ đọc báo, nghe tin, giao ban, hội ý để cung cấp thông tin, định hướng nội dung, thống nhất biện pháp tuyên truyền, đấu tranh. Cần xác định rõ căn cứ, cơ sở lý luận và thực tiễn để phản bác đối với những thông tin sai trái; hướng dẫn cụ thể biện pháp, hình thức thông tin tuyên truyền trong nhân dân cho cán bộ, chiến sĩ. Thứ năm, phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng trên địa bàn xây dựng cơ chế và phát huy có hiệu quả các thiết chế để kịp thời cung cấp thông tin chính thống cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên địa bàn đóng quân. Trong đó, cần chú trọng thiết lập các trang, nhóm cộng đồng trên nền tảng có sẵn như: Facebook, Zalo, Mocha... thu hút được đông đảo người dân tham gia. Đồng thời, triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Luật An ninh mạng và Nghị định số 15/2020/ND-CP ngày 3-2-2020 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện và giao dịch điện tử. Tuy nhiên, cũng cần phải thống nhất nhận thức: không phải thông tin phản ánh tiêu cực nào cũng đều là thông tin sai trái, phản động, thù địch; cần có cách nhìn nhận khách quan, toàn diện, từ đó tránh quy chụp, tạo hiềm khích, gây mất uy tín và chất lượng của các trang, nhóm, làm giảm sút hiệu quả của hoạt động thông tin, tuyên truyền trên địa bàn. Chống “DBHB” trên không gian mạng là cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt, gay gắt, lâu dài và vô cùng phức tạp. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, đi đầu, Lực lượng vũ trang nói chung, các đơn vị quân đội nói riêng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh hiệu quả, thiết thực, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch trong tình hình hiện nay./.
Ai đang đánh tráo khái niệm về nhân quyền? Cái gọi là “thư ngỏ” của một vài tổ chức nhân danh quốc tế về nhân quyền gửi tới các quốc gia thành viên Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) nhằm vận động không bỏ phiếu cho Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 thật thiếu cơ sở. Ngoài việc thường xuyên “đâm bị thóc, chọc bị gạo” vấn đề nhân quyền của các quốc gia mà họ thù địch, thì vài tổ chức nhân danh quốc tế về nhân quyền này đã làm được gì để quyền con người trên thế giới tốt đẹp hơn? Thật lố bịch khi họ lại tự cho mình có quyền phán xét, mặc cả, ra điều kiện về nhân quyền đối với các quốc gia có chủ quyền như Việt Nam. Một bản kiến nghị “tổ ong” Tổ ong có hình thức thủng lỗ chỗ. Thư ngỏ của một số tổ chức này giống như một tổ ong. Nó chỉ có phần lõm mà không có phần lồi. Thôi thì vẫn còn một chút niềm tin vớt vát rằng, nhiều khả năng nguồn thông tin mà các tổ chức nhân danh nhân quyền này tiếp nhận được về Việt Nam thông qua một lăng kính méo mó. Vì họ không được mắt thấy, tai nghe, tiếp nhận thông tin sai lệch nên họ mới đưa ra kiến nghị rằng “Việt Nam là một quốc gia vi phạm nhân quyền nghiêm trọng và triền miên, không tuân thủ các cam kết, có thành tích hợp tác kém với Hội đồng Nhân quyền (HRC)”. Họ tiếp tục chụp mũ: Tình hình nhân quyền đang xấu đi ở Việt Nam như đàn áp các tổ chức phi chính phủ, các nhà báo độc lập, các nhóm tôn giáo, những người bảo vệ môi trường và đất đai, những người ủng hộ nhân quyền... Trong khi đó, báo cáo của họ lại phớt lờ, không đề cập đến những thành tựu với sự nỗ lực không mệt mỏi mà Việt Nam đã đạt được khi phấn đấu cho quyền con người. Những thành tựu ấy không chỉ được “tai nghe, mắt thấy” ở Việt Nam, mà còn được chính các tổ chức lớn của LHQ báo cáo, đánh giá định kỳ, như Chương trình Phát triển của LHQ (UNDP); Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hay chính Hội đồng Nhân quyền (HRC)... Đến đây thì "thư ngỏ" đã “lòi đuôi cáo” khi nó rất không công bằng, cố tình chỉ thấy cây mà không chịu thấy rừng. Không chỉ dịp này, năm nào cũng vậy, họ luôn cùng nhau “tiền hô hậu ủng” để cho ra đời những bản báo cáo về nhân quyền đầy màu sắc chính trị, sai sự thật để chống phá Việt Nam và một số quốc gia mà họ cho là đối lập về hệ tư tưởng. Điều đầu tiên cần nói rõ, những tổ chức nhân danh nhân quyền trên không có tư cách để đánh giá, chấm điểm, xếp loại về nhân quyền ở Việt Nam, chứ chưa nói đến việc làm sai trái khi cố tình gửi yêu sách đến LHQ. Chính lịch sử hàng trăm năm đấu tranh cho sự tiến bộ của loài người, vì quyền con người, các quốc gia trong mái nhà chung LHQ đã thống nhất một quan điểm: “Áp đặt tiêu chuẩn dân chủ, nhân quyền cho một quốc gia là vô lý”. Các nước trên thế giới ở những trình độ phát triển khác nhau, thể chế chính trị khác nhau nên không thể lấy giá trị, tiêu chuẩn về dân chủ, nhân quyền của nước này áp đặt cho nước khác. Các văn kiện pháp lý về quyền con người được LHQ quy định rất rõ ràng. Không quốc gia nào, kể cả LHQ, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia, chứ đừng nói gì đến các tổ chức nhân danh. Mục 7, Điều 2, Chương I, Hiến chương LHQ khẳng định: “Hiến chương này hoàn toàn không cho phép LHQ được can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào...”. Trong môi trường hội nhập, sự trao đổi, hợp tác, đối thoại trên lĩnh vực quốc tế về nhân quyền là rất quan trọng, vì có thể bổ sung thêm cơ chế, kinh nghiệm trong việc bảo đảm quyền con người, tuy nhiên, theo các quy định pháp lý, nó chỉ nhằm bổ sung chứ không thể thay thế các cơ chế về bảo đảm quyền con người đang vận hành tại các quốc gia. Vậy thì mấy tổ chức nhân danh nhân quyền kia lấy tư cách gì để đòi tước tư cách một quốc gia có chủ quyền như Việt Nam? Họ chẳng có tư cách gì! Sự thật không như họ nói Cùng với việc bác bỏ nội dung sai sự thật, không khách quan với định kiến xấu mà một số tổ chức nhân danh nhân quyền quốc tế đã đưa ra về tình hình Việt Nam, ngày 22-9, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, về việc Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh, những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người trong thời gian vừa qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Chúng ta hãy kiểm chứng lời của người phát ngôn: Trước tiên, xin được dẫn đánh giá của bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam qua Báo cáo phát triển con người toàn cầu năm 2020: “Với chủ trương phát triển lấy con người làm trung tâm, ưu tiên phát triển con người và thúc đẩy bình đẳng trong các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, Việt Nam đạt được mức phát triển con người cao. Đây là một thành tựu đáng ghi nhận và cũng tạo cơ hội cho sự phát triển tốt hơn, nhanh hơn trong giai đoạn tới”. Từ nhiều năm nay, LHQ luôn lấy Việt Nam là một điểm sáng về phát triển con người, nhất là trong thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo, về công bằng và tiến bộ xã hội. Việt Nam nằm trong số những quốc gia đạt tốc độ giảm đói nghèo nhanh nhất thế giới. Năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành "Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo", về đích trước gần 10 năm so với thời hạn. Cũng theo bà Caitlin Wiesen, quốc tế nhìn nhận rất tích cực những thành quả Việt Nam đạt được trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo trong vài thập kỷ vừa qua. Đảng, Nhà nước ta luôn xác định chính sách nhất quán của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, lấy con người là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Lấy con người là trung tâm của phát triển và được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển”(1). Chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam là công bằng, hướng tới mọi đối tượng, không chỉ chú trọng phát triển kinh tế ở thành thị, mà luôn dành nguồn lực lớn, sự quan tâm sâu sắc tới xây dựng nông thôn mới, chăm lo đời sống người nông dân. Qua từng năm, hầu hết các chỉ tiêu về phát triển văn hóa, xã hội đều thay đổi nhanh chóng. Một điểm đặc biệt của Việt Nam được quốc tế đánh giá rất cao, đó là đất nước rất chú trọng đến Chỉ số phát triển con người (HDI), dù kinh tế chưa đạt được như các nước tiên tiến. Báo cáo hằng năm của UNDP cho thấy, Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất thế giới. Nếu năm 1990, HDI của Việt Nam chỉ đạt mức thấp là 0,48 thì đến năm 2021, HDI của Việt Nam được UNDP công bố là 0,703, xếp thứ 115 trong số 191 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cùng với quan tâm phát triển con người, quyền của các nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật... có những bước tiến rõ rệt. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua; được LHQ đánh giá là điểm sáng về thực hiện bình đẳng giới trong thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ. Phát biểu tại phiên họp cấp cao Khóa họp thường kỳ lần thứ 46 Hội đồng Nhân quyền LHQ ngày 22-2-2021, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh (nay là Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ) khẳng định: "Là một thành viên tích cực của LHQ cũng như cộng đồng quốc tế, Việt Nam khẳng định thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người, và luôn nỗ lực thúc đẩy phát triển quyền con người cả ở trong nước cũng như trên thế giới". Một quốc gia có trách nhiệm giữa nói và làm Cũng tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao ngày 22-9 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định: "Chính sách nhất quán của Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người. Điều này đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013 và nhiều văn bản pháp luật khác có liên quan". Quyền con người ở Việt Nam đã được thể hiện toàn diện, đầy đủ trong hiến pháp-đạo luật nền tảng của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp 2013, đã quy định rất rõ các quyền dân sự, chính trị; các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; các quyền của nhóm dễ bị tổn thương. Đặc biệt, Hiến pháp 2013 đã dành riêng một chương gồm 36 điều chế định và hiến định rõ ràng các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đây là bản hiến pháp được quốc tế đánh giá là đỉnh cao trong hoạt động lập hiến bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nó phù hợp với thực tiễn Việt Nam và với chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Đơn cử như Điều 24 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Cùng với hiến pháp và các bộ luật, đến nay Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người, như: Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người; Công ước về quyền của người khuyết tật... Dù là quốc gia phải chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh tàn phá, nhưng đến nay, chúng ta có quyền tự hào, tự tin khi Nhà nước Việt Nam đã xây dựng được hệ thống pháp luật khá toàn diện, trong đó lấy con người làm trung tâm. Việc Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 là phù hợp với thực tiễn. Việt Nam không những đã có nhiều đóng góp tích cực mà còn có kinh nghiệm khi phấn đấu cho quyền con người. Trước đó, năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu 184/192, cao nhất trong số các nước thành viên mới. Khi đó, những sáng kiến của Việt Nam trong nhiệm kỳ 2014-2016 được quốc tế đánh giá cao, tiêu biểu như việc Việt Nam phối hợp cùng các quốc gia khác đưa ra: Vấn đề về bảo đảm quyền lao động của người khuyết tật; về bảo đảm môi trường làm việc an toàn cho người lao động trên biển; Nghị quyết về tác động của biến đổi khí hậu với quyền trẻ em; về nâng cao giáo dục trong phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em gái... Việc Việt Nam tiếp tục ứng cử là thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 là hoàn toàn xứng đáng. ASEAN cũng đã chính thức công nhận Việt Nam là ứng cử viên duy nhất của khối. Đó là minh chứng xác đáng cho những thành tựu và nỗ lực không ngừng của Việt Nam cho một cuộc sống tươi đẹp trên hành tinh xanh. Việt Nam ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 cùng nhiều cam kết, ưu tiên với thông điệp “Tôn trọng và Hiểu biết-Đối thoại và Hợp tác-Tất cả các quyền con người cho tất cả mọi người”. Việt Nam cũng đã được Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ủng hộ là ứng cử viên duy nhất của hiệp hội cho nhiệm kỳ này. TRÍ TUỆ TỎA SÁNG

PHÒNG, CHỐNG SỰ XUYÊN TẠC, BẢO VỆ NHỮNG GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM!

         Gần 8 thập kỷ xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam thực sự là một quân đội anh hùng, "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”; được Đảng và nhân dân ta hết mực tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ và ngay cả kẻ thù cũng phải nể phục. Tuy nhiên, thời gian qua vẫn có những luận điệu xuyên tạc nhằm hạ thấp, bôi nhọ truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.
     Trong quá trình thực hiện âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược "diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn tập trung xuyên tạc những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, nhất là xuyên tạc về lòng trung thành của quân đội với Đảng, với Nhà nước và nhân dân; xuyên tạc mối quan hệ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế của quân đội với những lời lẽ hết sức phản động, phản khoa học nhằm thực hiện âm mưu "phi chính trị hóa” quân đội, hòng làm suy giảm sức mạnh chiến đấu của quân đội, làm phai mờ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế.
     Trong điều kiện mới, trước sự tác động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, trước yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần chú trọng nâng cao hiệu quả phòng, chống sự xuyên tạc của các thế lực thù địch về những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam nhằm giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta và Bộ đội Cụ Hồ./.


Môi trường ST.

Âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng nhân quyền để chống phá Việt Nam

Dân chủ, nhân quyền luôn là một trong những vấn đề chiến lược được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hòng đưa nước ta đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Chúng coi đó là một yếu tố quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống phá từ bên trong. Trong đó, chúng đã tập trung vào một số hoạt động chủ yếu sau:

Một là, vu cáo, xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, ra sức tuyên truyền, cổ súy cho dân chủ tư sản phương Tây

Các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta; cho rằng chế độ xã hội ở Việt Nam là độc tài, chuyên chính. Chúng lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót của ta trong thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc những vấn đề bức xúc trong nhân dân để lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất ANCT-TTXH. Chúng ra sức tuyên truyền, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”, tuyệt đối hóa các giá trị phổ quát về quyền con người theo mô hình của phương Tây; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người; đàn áp “những người bất đồng chính kiến”.v.v..Từ chỗ cho rằng, quyền con người là tuyệt đối, bất biến, các thế lực thù địch đã giải thích nhân quyền là tự do thực hiện quyền mà không bị cấm đoán, không bị giới hạn nhằm cổ xuý hoạt động lợi dụng nhân quyền vi phạm pháp luật nước ta. Các thế lực thù địch còn lợi dụng những vụ việc phức tạp nảy sinh trong dân tộc, tôn giáo nhằm thổi phồng, bóp méo tình hình thực tế để xuyên tạc chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo hòng kích động quần chúng, tín đồ gây rối ANCT-TTXH, tạo cớ để bên ngoài can thiệp.

Hai là, dùng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta

Hoa Kỳ và các nước đồng minh luôn gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện về dân chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, cải cách dân chủ, pháp luật theo kiểu phương Tây. Thông qua các buổi điều trần, họp báo, hội thảo của Quốc hội Mỹ, các nước Châu Âu để gây sức ép buộc Việt Nam phải có những “tiến bộ cụ thể về nhân quyền, tôn giáo”. Thông qua các diễn đàn công khai như hội thảo, hội nghị khoa học, các buổi tiếp xúc, đối thoại với các cơ quan chức năng của Việt Nam yêu cầu ta phải đưa ra các lộ trình thực hiện các điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền, thành lập Tòa án Hiến pháp ở nước ta. Họ còn gửi thư, bản kiến nghị tới Liên hiệp quốc, Quốc hội, Chính phủ các nước, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta để phản đối việc chính quyền bắt giữ, xét xử một số đối tượng chống đối trong nước, đòi trả tự do cho các “tù nhân lương tâm”. Lợi dụng việc chính quyền đấu tranh, xử lý số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị vi phạm pháp luật, chúng đã tạo cớ, vu cáo chính quyền vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp người “bất đồng chính kiến” và những người “yêu nước”, kêu gọi sự can thiệp của cộng đồng quốc tế. Các thế lực bên ngoài còn thông qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài triển khai các dự án hỗ trợ cải cách tư pháp để tìm cách hướng lái, can thiệp vào quá trình xây dựng, sửa đổi pháp luật của Việt Nam và gây sức ép, đặt điều kiện đòi ta mở rộng các quyền và tự do cơ bản của công dân theo tiêu chí của họ, tạo hành lang hoạt động cho số chống đối chính trị, các tổ chức “xã hội dân sự” trong nước.

 Ba là, dùng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để thúc đẩy, hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị đối lập với Nhà nước

Đây là một trong những hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch nhằm “diễn biến hòa bình” với nước ta. Chúng cho rằng việc tồn tại nhiều đảng phái chính trị lãnh đạo xã hội là tiêu chí duy nhất của dân chủ; đồng thời xuyên tạc rằng, chế độ độc đảng ở Việt Nam là trở ngại lớn nhất trong quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam, muốn có dân chủ thực sự thì Việt Nam nên xóa bỏ chế độ độc đảng. Chúng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận lịch sử dân tộc ta, cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; từng bước làm mất lòng tin cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua đó, chúng tập hợp lực lượng hình thành các tổ chức dưới danh nghĩa “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, “yêu nước” như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“Nhóm công dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”.v..v..Chúng ra sức tuyên truyền về vai trò của các tổ chức dân sự trong xã hội, qua đó hòng thúc đẩy sự ra đời của các khuynh hướng dân chủ cực đoan, phát triển “xã hội dân sự”, hình thành các tổ chức chính trị, hội nhóm bất hợp pháp. Chúng tìm cách móc nối, lôi kéo một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện tha hóa, biến chất, số cấp tiến là lãnh đạo các cơ quan, ban ngành để mua chuộc, lôi kéo tạo dựng ngọn cờ tập hợp lực lượng chống phá từ bên trong. Chúng còn tuyên truyền, vận động số người có trình độ thấp, số biểu hiện cơ hội, bất mãn ký tên vào kiến nghị, tuyên bố…nhằm đưa ra yêu sách “dân chủ, nhân quyền”,“bảo vệ chủ quyền”…mục đích là thêu dệt, bóp méo tình hình thực tế ở trong nước, qua đó tập hợp lực lượng hình thành các hội nhóm chống chính quyền, như: Tuyên bố 72 ra “bản kiến nghị sửa đổi” Hiến pháp theo mô hình dân chủ đa nguyên, v..v..Ở bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong ráo riết hỗ trợ kinh phí, chỉ đạo đường lối đối với số trong nước phục hồi tổ chức, kích động tư tưởng ly khai, tự trị để lừa mị, lôi kéo, tập hợp quần chúng tổ chức biểu tình, bạo loạn; hình thành các hội nhóm, tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước.

Bốn là, tác động Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế ban hành văn bản xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam

Các thế lực thù địch tác động Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên.v..v..với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo nhằm làm cho cộng đồng quốc tế hiểu không đúng tình hình trong nước; điển hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ, Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hàng năm của Anh, Úc, Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu..v..v..Trong đó, chỉ riêng Hạ viện Mỹ hàng năm đã liên tục thông qua nhiều Dự luật, Nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam như: Dự luật HR 1587 (năm 2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013), Nghị quyết H.Res.484.v..v…Các báo cáo thường niên của các tổ chức quốc tế như: Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Nhà Tự do (FH), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ), Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI)… mặc dù phải thừa nhận Việt Nam có “chuyển biến tích cực” về dân chủ, nhân quyền nhưng vẫn xuyên tạc tình hình thực tế trong nước, vu cáo Nhà nước vi phạm dân chủ, nhân quyền. Ngoài ra, các thế lực bên ngoài còn tác động các chính khách cực đoan trong Quốc hội Mỹ, Anh, Đức…tổ chức các buổi điều trần, hội thảo nhằm xuyên tạc, vu cáo hoặc thổi phồng các sự kiện thực tế trong nước để rêu rao Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, dân tộc hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Đặc biệt, chúng còn tìm cách thông qua các chính khách cực đoan như: Z.Lofgren, C.Smith…tác động Quốc hội Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo” (CPC) để áp dụng các biện pháp “trừng phạt” đối với nước ta.


XUYÊN TẠC CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG – MỘT THỦ ĐOẠN BỈ ỔI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm và dành những tình cảm, trách nhiệm sâu sắc để chăm sóc Thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Thế nhưng, thay vì đồng lòng, ủng hộ các hoạt động thể hiện đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc những năm gần đây đâu đó vẫn có tiếng nói lạc lõng, xuyên tạc về chính sách Thương binh, Liệt sĩ, phủ nhận sự hi sinh đóng góp của họ.

Thâm độc hơn, chúng còn đánh đồng người hy sinh, cống hiện vì cách mạng với người ngã xuống trong chiến tranh mà không tham gia, cống hiến gì, thậm chí là kẻ cam tâm làm tay sai cho thực dân đế quốc, phản bội Tổ quốc; đồng thời, gây ra những hành động cụ thể để hạ thấp, phủ nhận sự hy sinh, cống hiến của người có công; cho rằng đất nước được giải phóng là do công sức của toàn dân tộc chứ không riêng gì thương binh, liệt sĩ.

Lợi dụng những vướng mắc, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công ở một số địa phương, chúng viết bài, đưa thông tin, hình ảnh… trên mạng xã hội trắng trợn xuyên tạc, cố ý lập lờ, đánh tráo giá trị, “đổi trắng, thay đen” nhằm gây xáo trộn tư tưởng, tạo hoài nghi về chính sách ưu đãi đối với người có công, đổ điều cho rằng, kinh tế Việt Nam chậm phát triển là do gánh nặng của chính sách xã hội, trong đó có chi nhiều cho thương binh, liệt sĩ. Mục đích kích động chống phá Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Bất chấp đạo lý, các thế lực thù địch, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, phản động luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn để xuyên tạc, chống phá. Họ hạ thấp sự hy sinh của các Anh hùng liệt sỹ, thương binh trong quá trình giải phóng dân tộc, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người có công nhằm kích động, chống phá chế độ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt vấn đề dân tộc

Một là, cần có quyết tâm cao hơn nữa và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương để thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; Kết luận số 65-KL/TW ngày 30-10-2019 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới”. Đồng thời, thực hiện tốt các nghị quyết, các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện các chính sách còn hiệu lực đối với vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Trong đó, tập trung cao độ thực hiện thắng lợi các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18-11-2019 của Quốc hội khóa XIV.

Hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi theo hướng toàn diện, bền vững, đồng thời mở rộng vốn ưu đãi đối với các chương trình, dự án, tạo sinh kế cho đồng bào. Đẩy mạnh việc đa dạng hóa và xã hội hóa các nguồn lực, trong đó, nguồn lực nhà nước có vai trò quan trọng và quyết định trong việc huy động các nguồn lực khác. Đổi mới chính sách tín dụng của Ngân hàng chính sách xã hội theo hướng tăng định mức và mở rộng đối tượng cho vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Trong đó, để phát huy tiềm năng lợi thế của vùng dân tộc và miền núi trong phát triển kinh tế, cần đẩy mạnh các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, phù hợp với các vùng và phù hợp với đặc điểm văn hóa, tập quán của các dân tộc.

Bên cạnh đó, cần chú trọng đầu tư và khai thác các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch, dịch vụ nhằm tạo sinh kế và công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho đồng bào các dân tộc. Đồng thời, khơi dậy tinh thần tự lực, ý chí, khát vọng vượt khó vươn lên của đồng bào các dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế để làm giàu chính đáng.

Ba là, tập trung ưu tiên nguồn lực trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng kiên cố, nhằm bảo đảm đến năm 2025 có “100% số xã có đường ôtô đến trung tâm được rải nhựa hoặc bêtông hóa; 70% thôn có đường ôtô đến trung tâm được cứng hóa; 100% số trường lớp và trạm y tế được xây dựng kiên cố. Trong đó, đến năm 2030 có trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có đủ cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân”(14). Phát triển hạ tầng để thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai như lũ ống, lũ quét, khô hạn, nước biển dâng…

Cùng với đó, cần tăng cường đầu tư đồng bộ hạ tầng viễn thông, năng lượng nhằm bảo đảm có 99% số hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc và miền núi được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp. Đồng thời, đẩy mạnh dịch vụ phát thanh, truyền hình nhằm bảo đảm đến năm 2030, đạt 100% đồng bào dân tộc thiểu số được xem truyền hình và nghe đài phát thanh. Ngoài ra, cần đẩy mạnh công nghệ thông tin để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của đồng bào.

Bốn là, phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc và miền núi; nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; đầu tư, phát triển hệ thống các trường dân tộc nội trú, bán trú và các trường dự bị đại học. Hỗ trợ về ăn, ở cho học sinh, sinh viên các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và vùng đặc biệt khó khăn. Đồng thời, đổi mới phương thức và chính sách cử tuyển đối với con em đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở các khu vực đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và hỗ trợ khởi nghiệp đối với thanh niên các dân tộc sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề.

Bên cạnh đó, cần nâng cao tỷ lệ và chất lượng khám chữa bệnh cho đồng bào, nhất là tuyến cơ sở, đẩy mạnh đầu tư các dịch vụ y tế; phát triển y học dân tộc kết hợp với y học hiện đại; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế nhằm tạo điều kiện cho đồng bào được khám chữa bệnh từ tuyến cơ sở đến tuyến Trung ương. Xây dựng và đẩy mạnh chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em nhằm nâng cao về thể chất, tầm vóc của thanh, thiếu niên người dân tộc thiểu số.

Đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở phù hợp với văn hóa và tập quán của các dân tộc ở từng vùng, từng địa phương. Quan tâm sưu tầm, bảo tồn và phát huy có hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống, kể cả vật thể và phi vật thể. Kiên quyết xóa bỏ các hủ tục lạc hậu và sớm chấm dứt tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống. Nâng cao hơn nữa mức hưởng thụ về văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Năm là, củng cố, tăng cường xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nhất là ở những vùng trọng điểm, vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn. Chú trọng hơn nữa công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số.

Đẩy mạnh việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý cán bộ người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới theo quy định. Đồng thời, có chính sách đặc thù trong việc tuyển dụng công chức, viên chức đối với người dân tộc thiểu số, nhất là nhóm dân tộc thiểu số rất ít người, nhóm dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Chú trọng phát hiện, quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và thực hiện tốt chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ người dân tộc thiểu số.

Đổi mới tổ chức bộ máy, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, có cơ chế, chính sách biểu dương, tôn vinh những người có uy tín, già làng, trưởng bản có nhiều đóng góp cho công tác dân tộc.

Sáu là, đẩy mạnh công tác xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở vùng dân tộc và miền núi. Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch trong việc chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời, không để xảy ra các “điểm nóng” phức tạp về an ninh, trật tự, nhất là các địa bàn chiến lược xung yếu, như vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.

Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trên thế giới nhằm trao đổi kinh nghiệm, thu hút các nguồn lực để đầu tư cho các chương trình, dự án; chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi. Có cơ chế khuyến khích cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, đặc biệt là con em đồng bào dân tộc thiểu số đóng góp nguồn lực cho phát triển toàn diện vùng dân tộc và miền núi.