Thứ Tư, 26 tháng 6, 2024

 Đấu tranh phòng, chống các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng Việt Nam

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã tiến hành nhiều hoạt động chống phá Đảng và hệ thống chính trị nước ta thông qua việc lợi dụng vấn đề dân tộc với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi, thâm độc nhằm kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xúi giục ly khai, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo “điểm nóng” chính trị để thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế, phá hoại sự nghiệp phát triển đất nước. Bài viết góp phần nhận diện và đề xuất các giải pháp đấu tranh phòng, chống các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá Đảng và hệ thống chính trị nước ta. Bài viết đạt Giải Nhì cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng năm 2023 trong Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương.

Các lực lượng chức năng tuyên truyền, vận động người dân bản Huổi Luông (huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) không theo đạo “Bà cô Dợ”

1. Đặc điểm cơ bản của những hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá Đảng và hệ thống chính trị nước ta

Thứ nhất, về mục đích: Vấn đề dân tộc luôn là một “mắt xích” mà các thế lực thù địch thường xuyên nhắm tới và tìm mọi cách triệt để lợi dụng để chống phá ta. Việt Nam là đất nước đa dân tộc, đa văn hóa với 54 dân tộc anh em; các dân tộc đều bình đẳng với nhau, không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp; quyền lợi chính đáng của các dân tộc được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Thế nhưng, các đối tượng phản động, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách khoét sâu đặc điểm đa dân tộc của nước ta, làm sai lệch thông tin, bịa đặt, vu cáo rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền của đồng bào dân tộc thiểu số; từ đó dụ dỗ, xúi giục, kích động đồng bào “ly khai”, gây bạo động, làm mất trật tự an ninh tại một số địa phương. Mục đích cuối cùng trong âm mưu, hành động của chúng là làm mất ổn định đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, xói mòn bản sắc văn hóa, băng hoại giá trị đạo đức cộng đồng các dân tộc Việt Nam; tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bôi nhọ hình ảnh Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, tạo cớ cho các thế lực bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước; phá hoại mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với các quốc gia; hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị nước ta; từ đó, tìm cách lật đổ chế độ XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và đang nỗ lực xây dựng.

Thứ hai, về tính chất và thời điểm: Trong những năm qua, âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch vô cùng đa dạng và ngày càng tinh vi, nguy hiểm, vừa công khai, vừa bí mật; diễn ra cả ở trong nước và nước ngoài, trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thủ đoạn, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch hiện nay được thực hiện bằng nhiều biện pháp xảo trá, thâm độc, nhưng được che đậy, bao bọc một cách tinh vi, hòng làm cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số tin và làm theo.

Các phần tử phản động, thế lực thù địch sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau để chống phá ta. Một mặt, chúng âm thầm gây dựng lực lượng, bí mật tập huấn, đào tạo các kỹ năng tổ chức, tuyên truyền, dụ dỗ, xúi giục, kích động bạo lực. Mặt khác, chúng chờ đợi thời cơ, lựa chọn thời điểm có những “điểm nóng” về an ninh, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, vào trước các kỳ Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, hoặc mỗi khi có chủ trương điều chỉnh, thay đổi chính sách phát triển kinh tế - xã hội; kể cả khi chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị đe dọa, là chúng đăng tải, phát tán thông tin xuyên tạc, bịa đặt... gây hoang mang trong nhân dân; tiến hành hoạt động khủng bố có tổ chức, được trang bị vũ khí; hành vi rất manh động, liều lĩnh tấn công cán bộ chính quyền địa phương, phá hoại trụ sở làm việc.

Nói cách khác, chúng triệt để kết hợp các thủ đoạn về an ninh truyền thống và phi truyền thống để chống phá ta, gây mất trật tự trị an ở nhiều khu vực, đặc biệt là những địa bàn trọng yếu về an ninh, quốc phòng như các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ.

Thứ ba, về nguyên cớ và chiêu bài: Các thế lực thù địch thường đánh tráo khái niệm, quan điểm về cái gọi là “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do” (nhất là tự do tôn giáo, tín ngưỡng), đánh tráo khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” với nội hàm là một quốc gia (nation-state) thành quyền của dân tộc với nội hàm là một tộc người (ethnic groups); hoặc đòi áp dụng các khái niệm từ phương Tây vốn không phù hợp với lịch sử các dân tộc ở nước ta như “dân tộc bản địa”; từ đó, tuyên truyền tư tưởng ly khai, tự trị trong vùng dân tộc thiểu số...

Tại các khu vực tập trung đông đồng bào dân tộc Mông, dân tộc Thái ở Tây Bắc; vùng dân tộc Giarai, Êđê ở Tây Nguyên; vùng dân tộc Chăm ở duyên hải Nam Trung Bộ; vùng dân tộc Khmer ở Tây Nam Bộ, chúng lợi dụng quan hệ đồng tộc xuyên biên giới, lôi kéo, xúi giục đồng bào vượt biên trái phép, thực hiện các hoạt động gây rối, phá hoại, chống phá chính quyền, tuyên truyền, kích động thành lập “nhà nước ly khai, tự trị”, chống phá cách mạng Việt Nam gây mất ổn định chính trị - xã hội.

Một chiêu bài khác của các thế lực thù địch là lợi dụng những vấn đề do lịch sử để lại, hoặc những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, khai thác những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội và trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước tại các địa phương để kích động, hướng lái đồng bào không tin vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chúng thúc đẩy nhiều chiến dịch tuyên truyền phản động, thổi phồng các vụ việc phức tạp, tiêu cực liên quan trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, quy chụp mọi hạn chế là do sai lầm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị; từ đó, móc nối, lôi kéo, xúi giục hoạt động chống phá, gây mất ổn định chính trị - xã hội tại một số địa phương, nhất là vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn.

Đồng thời, chúng dùng tiền, lợi ích kinh tế để mua chuộc đồng bào, hứa hẹn viển vông về “một tương lai tốt đẹp”, lôi kéo đồng bào tham gia các tổ chức phản động, kết hợp với tăng cường phát triển lực lượng chống đối trong các dân tộc thiểu số nhằm âm mưu tiến hành các cuộc bạo động chống phá chính quyền, giết hại cán bộ và người dân vô tội, gây mất trật tự xã hội, làm hoang mang lòng dân và trực tiếp đe dọa an ninh chính trị của đất nước.

Ngoài ra, các thế lực thù địch còn lợi dụng những khác biệt về văn hóa, đời sống tâm lý, tín ngưỡng, tôn giáo, thói quen, tập quán sản xuất,... giữa các dân tộc thiểu số để gây chia rẽ, kích động hằn thù, xung đột trong cộng đồng các dân tộc nước ta... Chiêu bài chúng sử dụng nhiều nhất trong các hoạt động chống phá an ninh trên lĩnh vực dân tộc ở nước ta là kết hợp lợi dụng vấn đề dân tộc với lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Lợi dụng tình trạng một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp khó khăn, thiếu thốn về kinh tế, trình độ dân trí còn hạn chế, phong tục tập quán lạc hậu, các thế lực thù địch đã lập ra nhiều tổ chức núp bóng tôn giáo để tập hợp, lôi kéo đồng bào; dùng thần quyền, giáo lý chi phối họ tham gia các hoạt động chống Đảng, Nhà nước; thực hiện âm mưu “tôn giáo hóa vùng dân tộc thiểu số”.

Các thế lực thù địch tuyên truyền, lôi kéo lực lượng để lập ra cái gọi là “tôn giáo riêng” cho một số đồng bào dân tộc thiểu số như: “Tin lành Đêga”, “Tin lành đấng Christ Tây Nguyên” (UMCC); “Tin lành riêng của người Mông”, “Phật giáo riêng của người Khmer”... Từ đó, lợi dụng tôn giáo như một công cụ tinh thần để khống chế đồng bào, xây dựng tổ chức phản động và lực lượng đối lập, gây mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc nhằm ly khai, lập khu tự trị, lập “tôn giáo riêng”, “nhà nước riêng” ở một số vùng trọng điểm chiến lược. Đồng thời, chúng móc nối với các phần tử cực đoan ở một số quốc gia, tổ chức các cuộc điều trần, họp báo, ra tuyên bố, xuyên tạc, bóp méo tình hình tôn giáo, nhân quyền ở các vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam, gây sức ép, làm giảm uy tín quốc tế, cản trở quá trình hội nhập quốc tế của nước ta.

Bên cạnh đó, các phần tử phản động tìm cách câu kết, móc nối, “lợi dụng” các tổ chức phản động người Việt lưu vong để kêu gọi ủng hộ, cung cấp tiền bạc, vũ khí, tài liệu cho các hoạt động chống phá Đảng và hệ thống chính trị nước ta. Đồng thời, ra sức lợi dụng không gian mạng xã hội tiến hành đào tạo trực tuyến, chỉ đạo số cầm đầu trong nước hoạt động chống phá bằng nhiều hình thức, củng cố, phát triển lực lượng, xúi giục đồng bào trốn ra nước ngoài; thu thập, cắt ghép, xuyên tạc, bịa đặt thông tin, tài liệu về dân chủ, nhân quyền, nhất là thông tin về quyền của các dân tộc thiểu số, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng gửi ra nước ngoài để vu cáo Việt Nam phân biệt đối xử, đàn áp người dân tộc thiểu số trên các diễn đàn quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ của các thế lực thù địch quốc tế để chống phá nước ta.

Thứ tư, về phạm vi thực hiện: Các thế lực thù địch ngày càng mở rộng mạng lưới và địa bàn hoạt động, không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn ở cả nước ngoài.

Ở trong nước, các thế lực thù địch triệt để tận dụng, khai thác mọi “kẽ hở” nhằm tạo ra những mâu thuẫn trong cộng đồng dân tộc để thực hiện chống phá cách mạng Việt Nam về vấn đề dân tộc trên chính địa bàn đồng bào đang sinh sống, coi đó là điểm xuất phát trong thực hiện âm mưu lâu dài của chúng.

Khu vực đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta thường là vùng giàu tài nguyên, vùng đầu nguồn của các con sông lớn, vùng đệm các rừng đặc dụng các khu sinh thái, vùng đặc trưng văn hóa, vùng biên cương - là những vùng kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Đây đều là những địa bàn trọng yếu, nhạy cảm, có sự đa dạng về thành phần tộc người và tôn giáo, từ miền núi phía Bắc (đặc biệt là khu vực Tây Bắc) đến miền Tây Thanh Hóa - Nghệ An, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.

Ở nước ngoài, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức phản động như “Hội người Mông quốc tế”, “Liên hiệp người Mông tự trị”, “Văn phòng Chămpa quốc tế”, “Hội người Khmer - Krum”... Theo thống kê, cộng đồng người Mông ở Mỹ đã hình thành hơn 160 tổ chức, hội nhóm ở 25 bang. Điển hình là các tổ chức “Phát triển quốc gia Mông” (H’Mong National Development - Inc-HND); “Mặt trận giải phóng thống nhất người Mông” (H’Mong United Liberation Front)... Các tổ chức này đều tập hợp các phe phái, hội nhóm người Mông, kêu gọi thành lập “nhà nước Mông”, thông qua Hội người Mông quốc tế, xác định cương lĩnh xây dựng “nhà nước” của dân tộc Mông... Các tổ chức này vừa tập hợp, phát triển lực lượng là người các dân tộc thiểu số đang sinh sống ở ngoài nước, vừa hỗ trợ móc nối phát triển lực lượng ở trong nước; đồng thời tìm cách gây áp lực chống phá cách mạng Việt Nam dưới nhiều hình thức.

Thứ năm, về tổ chức và lực lượng: Các thế lực thù địch ráo riết xây dựng các tổ chức phản động ở vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam. Tổ chức của chúng thường được xây dựng từ lực lượng Việt kiều phản động, cực đoan; hoặc liên kết chặt chẽ với các tổ chức phản động của nước ngoài. Đó là các tổ chức như: “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc (do các thế lực thù địch trong và ngoài nước thành lập, kích động đồng bào Mông ở các tỉnh khu vực Tây Bắc di cư tự do vào các tỉnh Tây Nguyên và di cư sang Lào thành lập nhà nước riêng), “Mặt trận giải phóng Khmer - Krum” ở Tây Nam Bộ, “Mặt trận Chămpa” ở miền Trung...

Một trong những tổ chức chống phá ta quyết liệt là FULRO (viết tắt của “Mặt trận thống nhất đấu tranh của các chủng tộc bị áp bức”), chúng đã dùng nhiều thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gieo rắc tư tưởng ly khai, âm mưu thành lập “Nhà nước Đêga tự trị”, tạo cớ để nước ngoài can thiệp chống phá Việt Nam... Mặc dù FULRO đã bị xóa sổ, nhưng tàn dư của nó vẫn chưa chấm dứt và luôn tìm cách tạo ra những “điểm nóng” trong “vấn đề Tây Nguyên”; chúng không ngừng cấu kết với các phần tử cực đoan, tổ chức phản động trong và ngoài nước tuyên truyền, kích động gây hận thù dân tộc, sẵn sàng nổi dậy gây bạo loạn, tập kích vũ trang khi có thời cơ.

Trong những năm gần đây, xuất hiện nhóm “Người Thượng vì công lý - MSFJ” giả danh “thúc đẩy hòa bình và bảo vệ quyền con người của những người bị áp bức tại Tây Nguyên”, thực chất đây là nhóm đối tượng lợi dụng tình cảm đồng bào huyết thống để xúi giục, kích động người dân tộc thiểu số chống phá chính quyền, chà đạp lên sự bình yên, ổn định của quốc gia - dân tộc để nhận về những đồng USD “tài trợ” cùng những lời hứa mờ mịt về cái gọi là “tương lai hạnh phúc” ở trời Tây. Hầu hết các tổ chức phản động lợi dụng vấn đề dân tộc đều được thế lực nước ngoài hậu thuẫn trên mọi phương diện.

Các âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch hiện nay vô cùng phức tạp, không chỉ là vấn đề nội bộ đất nước mà liên quan với yếu tố nước ngoài. Vì vậy, để đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn đó, bên cạnh việc tăng cường biện pháp về kinh tế, xã hội, văn hóa - tư tưởng, pháp lý, quốc phòng, an ninh, cần kết hợp với biện pháp ngoại giao để tạo ra một hệ thống giải pháp toàn diện, căn cốt trong xử lý, giải quyết vấn đề dân tộc nhằm bảo đảm sự ổn định chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

2. Đảng, Nhà nước ta nhất quán thực hiện chính sách dân tộc “các dân tộc bình đẳng, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển”

Về mặt quan điểm, đường lối chính trị, Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, đoàn kết, hòa thuận trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, với tư cách là người đứng đầu Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ một tôn chỉ cơ bản, mang tính nền tảng về quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về sự bình đẳng và vấn đề đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam. Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plâycu vào tháng 4-1946, Người nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xơ Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt... Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta... Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”.

Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược và đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách dân tộc với nguyên tắc nhất quán: “các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển”. Tháng 8-1952, lần đầu tiên Đảng chính thức công bố “Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng hiện nay”, trong đó đặt ra vấn đề “thực hiện đầy đủ nguyên tắc các dân tộc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”. Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội II của Đảng Lao động Việt Nam cũng khẳng định: “Đảng phải thúc đẩy sự phát triển về kinh tế và văn hóa của các dân tộc thiểu số, thực hiện các dân tộc bình đẳng hoàn toàn và thật sự”.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta tiếp tục kiên trì mục tiêu bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu phải “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số... Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội... Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.

Về mặt pháp lý, quyền bình đẳng các dân tộc được Hiến pháp - văn bản pháp luật cao nhất của quốc gia ghi nhận. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc... Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Điều 11 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị”. Những đường lối chính trị, quy định pháp lý này nhất quán khẳng định, Việt Nam tôn trọng quyền bình đẳng của các dân tộc, nhưng không có bất cứ một quyền nào được đứng cao hơn chủ quyền, chỉ khi chủ quyền lãnh thổ được bảo đảm thì quyền của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam mới thực sự có giá trị và được bảo vệ.

Trong thực tiễn, Đảng, Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng các công trình hạ tầng cấp thiết, trọng điểm, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, dân trí ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo những điều kiện thuận lợi, khuyến khích đồng bào các dân tộc tích cực, chủ động tham gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đóng góp công sức, trí tuệ cho quá trình phát triển đất nước.

Kết quả là, diện mạo và không gian sống của đồng bào đã được khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được cải thiện và nâng cao. Tất nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc, vẫn còn những hạn chế, thiếu sót do điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau. Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị nước ta vẫn đang nỗ lực khắc phục khó khăn, yếu kém, thực hiện tốt hơn nữa chính sách các dân tộc bình đẳng, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các dân tộc, để tất cả các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam phát triển bền vững, cùng phấn đấu thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

3. Đấu tranh không khoan nhượng với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp về tư tưởng, văn hóa, an ninh, quân sự và ngoại giao để đấu tranh kiên quyết với các thế lực thù địch chống phá cách mạng thông qua các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc.

Thứ nhất, Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp dân tộc; kiên quyết không để các thế lực thù địch trong nước và nước ngoài lợi dụng vấn đề dân tộc, tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cụ thể như: tại các hội nghị về nhân quyền của Liên hợp quốc và Liên minh châu Âu (EU), ta đã đấu tranh phản bác, chỉ ra các nội dung không đúng đắn trong các luận điệu tuyên truyền vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp dân tộc; trả lời, thể hiện rõ thái độ đối với các cáo buộc của một số tổ chức quốc tế về việc Việt Nam bắt giữ người dân tộc thiểu số, hoặc về việc xử lý, giải quyết các vụ việc liên quan đến vấn đề dân tộc; nghiêm túc thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống phân biệt chủng tộc (CERD); tổ chức đón nhiều đoàn ngoại giao, báo chí, tổ chức nước ngoài đến tìm hiểu tình hình kinh tế - xã hội, dân tộc, tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số, làm cho họ thấy được chính sách dân tộc nhất quán, chính nghĩa của Việt Nam. Chúng ta đã khẳng định với thế giới rằng, Việt Nam không có “dân tộc bản địa”, các dân tộc Việt Nam là một khối thống nhất, không thể tách rời, được Đảng và Nhà nước đối xử bình đẳng; vì vậy, không có bất cứ một tổ chức lưu vong nào được chính thức tham luận tại các diễn đàn của Liên hợp quốc về vấn đề dân tộc ở Việt Nam.

Thứ hai, trên tinh thần tuân thủ luật pháp quốc tế, thông qua các cuộc gặp, các diễn đàn hội nghị cấp cao và bằng nhiều hình thức khác, Việt Nam yêu cầu một số quốc gia chấm dứt việc ủng hộ, hậu thuẫn cho các tổ chức người Việt phản động lưu vong thực hiện các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước trong khu vực, láng giềng, nhằm tạo điều kiện giúp ta chủ động tổ chức đấu tranh, không để các tổ chức phản động lưu vong tiến hành các hoạt động chống phá Việt Nam.

Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực, nhất là với các nước láng giềng Trung Quốc, Lào, Campuchia trong giải quyết các vấn đề nảy sinh ở khu vực biên giới; phối hợp đấu tranh, làm tan rã các tổ chức phản động vẫn đang len lỏi trong đồng bào dân tộc ở hai bên biên giới; đề nghị các nước phối hợp truy bắt, trao trả những phần tử phản động đang lẩn trốn ở nước bạn, không cho chúng sử dụng địa bàn các nước đứng chân để xây dựng lực lượng, tập huấn các hoạt động chống phá ta; kiểm soát chặt chẽ hoạt động vượt biên trái phép, di cư tự do của đồng bào dân tộc thiểu số; nắm bắt động thái, dự báo nguy cơ, chủ động lên kế hoạch đề phòng từ sớm, từ xa.

Thứ tư, Chính phủ và các bộ, ban, ngành đã phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số vạch trần sự lừa bịp, xảo trá, thủ đoạn dụ dỗ, lôi kéo đồng bào của các cá nhân, tổ chức lợi dụng vấn đề dân tộc chống lại Đảng và hệ thống chính trị nước ta, nhằm hạn chế, vô hiệu hóa hoạt động của chúng cả ở trong nước và ở nước ngoài. Đồng thời, tiến hành tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo, nguyên tắc nhất quán và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.

Thứ năm, kịp thời nắm bắt âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, để chủ động ứng phó, có các biện pháp đấu tranh, không cho chúng có điều kiện mở rộng hoạt động, tìm cớ để kêu gọi các thế lực từ bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Khi xảy ra những “điểm nóng”, bạo động vũ trang tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các lực lượng công an, quân đội đã phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”, cùng nhân dân nhanh chóng, kịp thời, kiên quyết, khôn khéo truy bắt, xử lý triệt để các đối tượng tham gia, nhất là các đối tượng cầm đầu cùng đường dây của chúng; trả lại trật tự an toàn và bình yên cho người dân; giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh lãnh thổ của Tổ quốc và bảo vệ quyền chính đáng của các dân tộc.

4. Một số giải pháp tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá nước ta

Thứ nhất, trên cơ sở nắm vững mục tiêu, quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, theo dõi, sớm phát hiện, nắm bắt và đánh giá đúng tình hình hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, từ đó, chủ động xây dựng kế hoạch ngăn chặn, xử lý các hoạt động gây nguy hại đến tình hình an ninh - chính trị đất nước, không để xảy ra tình huống bị động, bất ngờ. Đồng thời, cần tập trung thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ về các tổ chức trong và ngoài nước đang hậu thuẫn, dung dưỡng cho các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong người dân tộc thiểu số với âm mưu tổ chức các hoạt động chống phá Việt Nam.

Thứ hai, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin đối ngoại và đối thoại với các quốc gia, tổ chức quốc tế nhằm tạo thêm điểm tương đồng trong nhận thức về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở nước ta; chủ động đưa ra những lý lẽ, dẫn chứng, lập luận có sức thuyết phục để tìm được sự đồng tình của cộng đồng quốc tế, từ đó thúc đẩy trách nhiệm của các bên cùng Việt Nam tiến hành các biện pháp ngăn chặn các hoạt động, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá đất nước, góp phần bảo đảm an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ ba, chủ động thúc đẩy mở rộng quy mô, hình thức hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực, tạo điều kiện ngăn chặn, hạn chế và vô hiệu hóa các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch thông qua lợi dụng vấn đề dân tộc, nhất là hợp tác quốc tế về an ninh, quốc phòng, ngoại giao. Đấu tranh ngăn chặn hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá nước ta từ bên ngoài, không để các tổ chức phản động đưa lực lượng, phương tiện từ nước ngoài vào vùng dân tộc thiểu số nước ta để tiến hành hoạt động chống phá. Tăng cường thực hiện các cơ chế liên lạc, trao đổi thông tin, giao lưu... để có đủ tài liệu, chứng cứ phục vụ công tác ngăn chặn, hạn chế và vô hiệu hóa các hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch.

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, củng cố các luận cứ khoa học thuyết phục nhằm đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở Việt Nam. Theo đó, cần nâng cao hơn nữa chất lượng nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, tổng kết, dự báo, cung cấp luận chứng, luận cứ để phục vụ công tác quan trọng này. Để luận giải và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở Việt Nam, cần nghiên cứu sâu sắc lý luận về dân tộc và quan hệ dân tộc (bao gồm: quan hệ giữa dân tộc đa số và thiểu số, quan hệ giữa các dân tộc thiểu số với nhau, quan hệ đồng tộc xuyên biên giới...) cũng như các vấn đề về quan hệ giữa các dân tộc trên thế giới hiện nay.

Bên cạnh đó, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận về tôn giáo, tín ngưỡng, nhân quyền, dân chủ... gắn với đặc điểm lịch sử, văn hóa của các dân tộc Việt Nam theo phương châm khách quan, khoa học, tiếp thu chọn lọc các tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới tiến bộ, góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng của Đảng ngày càng vững chắc.

CĐ, VS (st)

Bảo vệ quyền phụ nữ trên không gian mạng

 

Trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào quá trình số hoá, không gian mạng trở thành nơi diễn ra nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, mà phụ nữ vừa có vai trò quan trọng và cũng là đối tượng dễ bị xâm phạm quyền trên không gian mạng. Bảo đảm quyền của phụ nữ trên không gian mạng là một quá trình mà các chủ thể, đối tượng và nội dung bảo đảm có quan hệ tác động và chi phối lẫn nhau.

Thực trạng bảo đảm quyền phụ nữ trên không gian mạng

Quyền phụ nữ phản ánh đặc thù giới tính của phụ nữ. Theo hai nhà hoạt động nữ quyền nổi tiếng, là giảng viên trường Đại học Illinois là Charlotte Bunch và Samntha Frost: “Quyền phụ nữ là những quyền con người của phụ nữ thông qua lăng kính giới”. Theo đó, quyền phụ nữ là các quyền con người nhưng nó phản ánh đặc thù về giới tính của phụ nữ. Điều này được nhìn nhận dựa trên đặc điểm về mặt sinh học - “lăng kính giới”.

Bảo đảm quyền của phụ nữ trên không gian mạng (KGM) chính là những hoạt động cần phải làm để bảo đảm và nâng cao nhận thức của phụ nữ nói chung và toàn thể xã hội trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trên KGM, bao gồm:

(i) Phòng ngừa, ngăn chặn và xử lí các hành vi xâm hại phụ nữ trên KGM: các hoạt động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của phụ nữ; hạn chế sự tiếp cận và lan tỏa các thông tin, hình ảnh, video của phụ nữ trên các trình duyệt trang web đen, đồi trụy, hình ảnh, video mang tính khiêu dâm; ngăn ngừa, phòng tránh tình trạng kẻ xấu làm quen trên mạng xã hội dẫn đến hiện tượng bắt cóc phụ nữ, chat sex; phòng và chống việc đưa tin thiếu chuẩn xác trên mạng in-tơ-net ảnh hưởng đến quyền của phụ nữ; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lí những hành vi lợi dụng, ép buộc phụ nữ sử dụng KGM để thực hiện những hành vi nguy hại cho chính bản thân phụ nữ, xâm phạm đến quyền phụ nữ (ví dụ như việc ép buộc phụ nữ, lợi dụng phụ nữ, lợi dụng hình ảnh của phụ nữ mà không có sự tự nguyện trong việc livestream bán hàng với phong cách hở hang không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; ép, lợi dụng phụ nữ phát ngôn, quay các clip nguy hại cho chính bản thân mình trên KGM với mục đích câu view)...

(ii) Hướng dẫn và hỗ trợ phụ nữ tiếp cận được các thông tin hữu ích và có tính giáo dục trên KGM, như giáo dục kiến thức, hướng dẫn kĩ năng an toàn, kĩ năng sử dụng Internet, kĩ năng tiếp cận thông tin, kĩ năng kiểm soát thông tin, cảm xúc... cho phụ nữ khi tham gia môi trường mạng.

(iii) Trợ giúp những đối tượng phụ nữ có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần như phụ nữ khuyết tật; phụ nữ, trẻ em gái bị mất môi trường gia đình; phụ nữ, trẻ em gái bị bóc lột trái pháp luật; phụ nữ, trẻ em gái bị ép buộc tham gia mại dâm qua KGM… Việc ưu tiên đến nhóm đối tượng này là yếu tố vô cùng quan trọng góp phần tạo ra môi trường mạng an toàn, lành mạnh cho phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tham gia, hòa nhập cùng với cộng đồng.

Thực trạng xâm phạm quyền phụ nữ trên KGM thời gian qua diễn ra hết sức phức tạp. Xuất hiện khá nhiều loại tội phạm trên KGM mà đối tượng nhắm đến là phụ nữ với các hành vi như: xâm nhập trái phép, bất hợp pháp hoặc đánh sập mạng máy tính, ăn cắp thông tin, cướp, chiếm đoạt tài sản số hóa hoặc tài sản thực tế qua công cụ số; lừa đảo, phổ biến văn hóa phẩm đồi trụy, gửi nội dung khiêu dâm, lừa đảo tình dục, tống tiền bằng nội dung riêng tư nhạy cảm, chăn dắt tình dục, mua bán người vào mục đích tình dục. Hành vi bắt nạt có thể diễn ra ở bất kì đâu và với nhiều hình thức khác nhau như xúc phạm, lăng mạ; gây rối, đeo bám; phao tin bịa đặt; giả danh; xâm phạm, xuyên tạc đời tư; lừa dối; cô lập, tẩy chay.

Tình trạng xâm hại trẻ em gái nói riêng, trẻ em nói chung vẫn diễn ra hết sức phức tạp trên KGM. Theo Báo cáo khảo sát của Viện Nghiên cứu quản lí phát triển bền vững năm 2022, tại Việt Nam, các em nhận thức được các nguy cơ mất an toàn khi sử dụng in-tơ-net, đặc biệt là bị nghiện in-tơ-net (60,9%).

Theo Kết quả khảo sát ý kiến của UNICEF năm 2019, có 170.000 người tại 30 quốc gia cho biết đã từng là nạn nhân bị bắt nạt trên mạng, trong đó 1/5 cho biết đã từng bỏ học vì bị bắt nạt trên mạng và bạo lực; 21% thiếu niên Việt Nam là nạn nhân của bắt nạt mạng và hầu hết (75%) đều không biết về đường dây nóng hoặc các dịch vụ hỗ trợ, 74% trẻ em và trẻ vị thành niên có nguy cơ bị xâm hại tình dục hoặc bị lợi dụng trên mạng.

Chương trình y tế số của Nhà nước chưa quy định chăm sóc sức khỏe trên nền tảng số cho hỗ trợ sức khỏe sinh sản và cho đối tượng là phụ nữ và trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa. Những nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ sở có khả năng tài chính và kĩ thuật hạn chế thì mức độ sẵn sàng và chấp nhận ứng dụng y tế số thấp hơn.

Việc làm của phụ nữ dần bị thu hẹp khi các việc làm truyền thống có tỉ lệ tham gia của lao động nữ lớn như ngành dịch vụ dần thay thế nhân lực bằng các dịch vụ trực tuyến hiệu quả hơn.

Theo Báo cáo của Viện Nghiên cứu Quản lí kinh tế Trung ương năm 2022, tại Việt Nam, tính chung có tới 58% số tổ chức, doanh nghiệp có lao động nữ bị ảnh hưởng bởi chuyển đổi số. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, tỉ lệ doanh nghiệp có lao động nữ bị ảnh hưởng bởi chuyển đổi số lên tới 83%. Lĩnh vực giáo dục và giao thông vận tải - logistics có 50 - 60% số đơn vị có lao động nữ bị ảnh hưởng. Thấp nhất là trong lĩnh vực y tế với 33% số cơ sở y tế bị giảm số lượng lao động nữ.

Làn sóng khởi nghiệp của phụ nữ trẻ tạo nhu cầu huy động vốn lớn mà việc tiếp cận tài chính và tín dụng vẫn là một thách thức đối với phụ nữ dù đã có chính sách không phân biệt đối xử. Việc thiếu các dịch vụ tài chính có thể chi trả là một vấn đề đối với hầu hết các hộ sản xuất nhỏ, nhưng lại mang tính chất đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ vì họ thường thiếu tài sản thế chấp nhằm tiếp cận được các khoản vay. Việc tăng cường minh bạch tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động lập kế hoạch, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các nhà cung cấp tiềm năng và gia tăng chất lượng của hồ sơ dự thầu, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ do phụ nữ làm chủ.

Giải pháp bảo đảm quyền của phụ nữ trên không gian mạng

Xây dựng pháp luật là phương thức vô cùng quan trọng và hiệu quả đối với việc bảo đảm quyền của phụ nữ nói chung và bảo đảm quyền của phụ nữ trên KGM nói riêng nhằm tạo ra khung pháp lí quy định rõ các chủ thể có nghĩa vụ và quyền hạn thực hiện các biện pháp để bảo đảm quyền của phụ nữ trên KGM.

Theo đó, Nhà nước cần phải có các quy định cụ thể về bảo vệ phụ nữ trên các phương diện: mạng in-tơ-net; cơ sở dữ liệu, mạng viễn thông…; quy định rõ các chủ thể có trách nhiệm trong việc bảo vệ, nội dung, phương thức bảo vệ.

Song hành với đó, các cơ quan chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành các thông tư quy định chi tiết. Ở phương diện mạng in-tơ-net, nhà nước đã và đang có nhiều văn bản quy định vấn đề này như Luật An ninh mạng… Tuy nhiên, cần phải có văn bản hướng dẫn việc sử dụng các nền tảng trên KGM, quản lí định danh tài khoản, dữ liệu và hệ thống máy chủ ở Việt Nam, kiểm soát việc đăng tải thông tin, loại bỏ thành phần xấu trong xã hội…. để từ đó có cơ sở pháp lí để bảo đảm quyền của phụ nữ trên KGM.

Xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử trên KGM. Hiện nay, mạng xã hội đang là phương tiện truyền thông giải trí phổ biến được nhiều người sử dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích xã hội mang lại cũng nảy sinh không ít những vấn đề biểu hiện lệch chuẩn, ứng xử thiếu văn hóa hoặc dùng KGM để trục lợi, gây ra những tác động xấu tới nền tảng giá trị đạo đức, văn hóa dân tộc, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của con người, trong đó có quyền phụ nữ. Bộ Quy tắc ứng xử trên KGM nói chung hay Bộ Quy tắc ứng xử bảo vệ quyền của phụ nữ trên KGM nói riêng ra đời đều góp phần đưa ra các chuẩn mực hành vi, ứng xử cho người dùng trên KGM để bảo vệ phụ nữ trước những nguy cơ tiềm ẩn; hướng dẫn, thúc đẩy người dân có ý thức tôn trọng quyền tự do cá nhân, bảo vệ thông tin cá nhân và quyền riêng tư của người khác, nhất là phụ nữ trên KGM.

Xây dựng quy trình bảo vệ và kiểm soát thông tin trên KGM. Xuất phát từ đặc điểm của KGM chính là không giới hạn khoảng cách, xóa bỏ rào cản địa lí và cập nhật thông tin nhanh chóng, do đó chủ thể có chức năng nhiệm vụ liên quan đến an ninh mạng cần phải có quy trình kiểm soát thông tin đầy đủ và chặt chẽ. Quy trình này có thể là vấn đề đặt máy chủ, chặn IP, chặn mã độc, kiểm soát chéo giữa các cơ quan và đặc biệt thiết lập các phương án lập trình tự động phát hiện thông tin xấu để ẩn và xóa bỏ ngay từ khi chia sẻ… Việc xây dựng quy trình bảo đảm quyền của phụ nữ trên KGM không phải là dễ dàng nhưng nó lại là một trong những phương thức quan trọng nhất của hoạt động bảo vệ. Bởi lẽ, phần lớn các vụ xâm hại phụ nữ trên KGM đều do nguồn chia sẻ thông tin gây ra, do đó nếu kiểm duyệt nguồn thông tin ngay từ đầu sẽ giúp phát hiện nhanh chóng, kịp thời thông tin độc hại để kịp thời xóa bỏ. Nếu làm tốt phương thức này sẽ giúp vấn đề bảo đảm quyền của phụ nữ trên KGM có hiệu quả cao hơn.

Định danh tài khoản cá nhân trên KGM. Hầu hết các nền tảng ứng dụng trên KGM người sử dụng cần thiết lập các tài khoản để đăng nhập. Do đó, để kiểm soát người dùng ngay từ đầu cần phải có sự sàng lọc lứa tuổi, xác định được danh tính người sử dụng để qua đó thuận tiện trong việc cung cấp thông tin, cho phép nhìn thấy các hình ảnh, video, dữ liệu trên ứng dụng phù hợp với độ tuổi. Với phương thức này, các nhà sáng lập ứng dụng cần phải xây dựng quy trình kiểm soát, chế độ cho xem trên ứng dụng do mình sáng lập. Việc thiết lập lọc tài khoản như vậy sẽ góp phần rất lớn trong bảo vệ người dùng nói chung và bảo vệ quyền của phụ nữ trên KGM nói riêng.

Tuyên truyền về bảo đảm quyền của phụ nữ trên KGM. Trong bất kì vấn đề nào, phương thức tuyên truyền luôn được đề cao hàng đầu. Tuyên truyền có thể thông qua nhiều hình thức như thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua sách báo và đặc biệt tuyên truyền qua chính KGM (bài đăng của cơ quan truyền thông trên cổng thông tin điện tử; sáng tạo ra video clip gần gũi với mọi lứa tuổi, giới tính,…). Chính những hoạt động đó sẽ làm tăng nhận thức của người dân trong việc quan tâm, bảo đảm quyền của phụ nữ. Phương thức này nếu thực hiện tốt sẽ đem lại tác động rất lớn đến toàn xã hội, nâng cao nhận thức, kĩ năng để phòng ngừa xâm hại đến quyền của phụ nữ trên KGM.

 

SOI XEM MÌNH ĐƯỢC MẤY“DÁM”?

     Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần "7 dám" là quan điểm chỉ đạo được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương nhấn mạnh tại Hội nghị Quân ủy Trung ương 6 tháng đầu năm 2023. Quán triệt, thực hiện tinh thần “7 dám” vừa là giải pháp rất quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, vừa góp phần tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...

Gắn vào thực tiễn “xây” và “chống”
Tinh thần “7 dám” của cán bộ Quân đội trong tình hình mới được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương khái quát, gồm: "Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”. Gắn vào thực tiễn công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chúng ta thấy rõ: “7 dám” vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp của công tác bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội.

Nội hàm của cán bộ “7 dám” là sự cụ thể hóa những đặc trưng, truyền thống tốt đẹp về phẩm chất đạo đức, giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, là sự phát triển tư duy lý luận, đặt ra những yêu cầu mới ngày càng cao đối với phẩm chất, năng lực cán bộ Quân đội trong giai đoạn mới. Khẳng định những vấn đề có tính nguyên tắc này để thấy rõ hơn, sự phát triển của đời sống xã hội là quy luật vận động không ngừng. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, chủ lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng...

Quân đội ta phải đặt ra yêu cầu, tiêu chí và giải pháp ngày càng cao trong xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Khi cán bộ hội tụ đầy đủ phẩm chất, năng lực theo tinh thần “7 dám”, các cơ quan, đơn vị các cấp trong Quân đội sẽ có nền tảng tinh thần vững chắc, tạo động lực mạnh mẽ để cán bộ, chiến sĩ khai mở tiềm năng, năng lực, phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.

Để hiện thực hóa tinh thần “7 dám”, Tổng Bí thư yêu cầu Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các cấp ủy đảng trong Quân đội phải đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đủ đức, đủ tài, có uy tín cao; cấp trên phải làm gương cho cấp dưới, chỉ huy phải mẫu mực trước toàn đơn vị. Trong Quân đội, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm...

Thực tiễn quá trình thực hiện nhiệm vụ ở các đơn vị Quân đội trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu to lớn, những thành tích nổi bật đã đạt được, đáng lưu ý là ở một số đơn vị, trong một số thời điểm còn để xảy ra những vụ việc nghiêm trọng. Một bộ phận cán bộ, cấp ủy, người chỉ huy vẫn còn "bệnh thành tích", giấu giếm khuyết điểm; xử lý một số vi phạm, vụ việc phức tạp, nhạy cảm chưa kịp thời, triệt để... Những hạn chế, khuyết điểm này trong một số trường hợp nhất định không chỉ ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ; chất lượng, hiệu quả huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị... mà còn là cái cớ để các thế lực thù địch lợi dụng không gian mạng thực hiện các chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, kích động, chống phá Quân đội...

Quán triệt phương châm “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống theo quan điểm của Đảng, chúng ta càng thấy rõ tính cấp thiết của việc củng cố, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội theo tinh thần “7 dám”. Đó cũng là căn cứ để cấp ủy, chỉ huy các cấp đẩy mạnh thực hiện phê bình, tự phê bình; đề ra các chỉ tiêu, nội dung, giải pháp đấu tranh, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương “về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”.

Soi rọi vào chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên
Từ thực tiễn hiệu quả thực hiện nhiệm vụ đã được Quân ủy Trung ương sơ kết, đánh giá tại Hội nghị Quân ủy Trung ương vừa qua, chúng ta thấy: Để xảy ra những biểu hiện tiêu cực, yếu kém ở đơn vị, nguyên nhân trực tiếp đều bắt nguồn từ phẩm chất, năng lực, phương pháp làm việc, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, nhất là cấp ủy, người chỉ huy các cấp.

Nhìn rộng ra và sâu hơn, chúng ta thấy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần kiên trì, quyết liệt, không có vùng cấm... trong những năm qua đã đưa ra ánh sáng công lý hàng loạt cán bộ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong những vụ việc, vụ án được dư luận xã hội quan tâm đặc biệt, có không ít cán bộ cấp cao trong Quân đội. Để dẫn đến tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp, cơ bản và căn cốt nhất vẫn là do phẩm chất của cán bộ, đảng viên.

Lấy tinh thần “7 dám” soi rọi vào từng cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao, chúng ta càng thấy rõ, nếu thiếu hoặc coi nhẹ các tiêu chí đó, cán bộ không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Chẳng hạn, khi đơn vị có hiện tượng tiêu cực, vi phạm kỷ luật nghiêm trọng nhưng cán bộ báo cáo không trung thực, tìm cách bao biện, che giấu khuyết điểm... thì đó là thiếu tinh thần “dám nghĩ”, “dám làm”, “dám chịu trách nhiệm”...

Cán bộ thấy đồng chí của mình sai nhưng im lặng, né tránh, làm ngơ... thì đó là biểu hiện không “dám nói”, không “dám hành động vì lợi ích chung”. Che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích để được khen thưởng, thực dụng, chỉ lo vun vén cho quyền lợi cá nhân, luồn lách tìm cơ hội thăng tiến thì đó là những biểu hiện coi nhẹ đổi mới sáng tạo, không “dám đương đầu với khó khăn, thử thách”...

Các tiêu chí, nội hàm của cán bộ “7 dám” có mối quan hệ biện chứng, bổ trợ, tác động qua lại lẫn nhau. Thiếu đi một “dám” sẽ tác động, ảnh hưởng đến những phẩm chất còn lại. Thiếu càng nhiều “dám” hoặc làm sai lệch nội hàm, bản chất của những tiêu chí đó đều là những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, là một bước ngắn dẫn đến tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong bối cảnh toàn quân ta đang nỗ lực tập trung triển khai, thực hiện các mục tiêu, nội dung, giải pháp đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, việc bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ theo tinh thần “7 dám” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đang đẩy mạnh thực hiện đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thực chất các chương trình, kế hoạch xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết phòng, chống chủ nghĩa cá nhân theo các nghị quyết, chỉ thị, kết luận... của Đảng và Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương. Với phương châm kết hợp chặt chẽ “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” theo quan điểm của Đảng; cấp ủy, tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị cần bổ sung vào nghị quyết lãnh đạo, chương trình hành động, tổ chức học tập, quán triệt đầy đủ, sâu sắc tinh thần “7 dám”.

Cần coi đây là một trong những căn cứ quan trọng để thực hiện thường xuyên phê bình, tự phê bình. Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người chỉ huy, bí thư, cấp ủy các cấp cần nêu gương, nghiêm túc đánh giá bản thân trên cương vị, chức trách được giao xem mình được mấy “dám”? Những cái “dám” nào mình còn thiếu, hoặc lâu nay vì nhiều lý do, chưa thực sự coi trọng thì có kế hoạch khắc phục, rèn luyện, phấn đấu. Soi xem mình được mấy “dám” sẽ có căn cứ để đánh giá bản thân có hay không thái độ bàng quan, cầu an, “mũ ni che tai”, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai né tránh đấu tranh, nói xấu, tìm kẽ hở của đồng chí, đồng đội để xoi mói, nịnh bợ, tâng công, cầu vinh, vụ lợi... Soi xem, nếu thấy những thứ ấy đang đè nặng hoặc lởn vởn trong tư duy, nếp nghĩ của mình thì hãy tự sửa, tự gột rửa.

Quân đội ta mạnh ở tính đoàn kết, thống nhất, tự giác, nghiêm minh. Bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ theo tinh thần “7 dám” không chỉ là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong một thời điểm mà cần lấy đó làm “cẩm nang” thường xuyên, gắn kết với các hình thức, phương thức giáo dục khác để đẩy mạnh tự giáo dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện. Chỉ khi cán bộ thực sự “dám” đối diện với những thói hư, tật xấu, khuyết điểm... của bản thân thì mới có động lực để “dám” cống hiến, hy sinh vì tập thể, vì đơn vị, vì sự nghiệp xây dựng Quân đội. Đó cũng là cách để ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội./.


Yêu nước ST.

PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN, TỔNG KẾT THỰC TIỄN, CHÚNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI ĐỂ BẢO VỆ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI!

     Trong cuộc đấu TRANH để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh-hệ thống tư tưởng mang ý nghĩa và giá trị thời đại, thì việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những giải pháp quan trọng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Vấn đề này luôn là cốt yếu nhằm thống nhất những nhận thức chưa đúng, đồng thời phản bác sự xuyên tạc nhằm hạ thấp, phủ nhận những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới!

Ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dù vậy, vẫn còn những nhận thức chưa đúng, hiểu chưa thấu đáo, nhất là việc các thế lực thù địch lợi dụng tự do, dân chủ, lợi dụng sự phát triển của internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thậm chí, một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất đã vào hùa với sự xuyên tạc này.

Họ tìm mọi cách, dùng mọi lý lẽ khi nói và viết: Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh là tư biện, lý thuyết, giáo điều; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sao chép, máy móc Chủ nghĩa Mác-Lênin, không phù hợp với thực tiễn hiện nay, cần từ bỏ nó để kịp đi với con đường chung mà thế giới hiện nay đang đi-con đường tư bản chủ nghĩa...

Phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn, chống quan điểm sai trái để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới
Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Họ xuyên tạc rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không có tư tưởng của riêng mình hoặc tư tưởng của Người không được coi là một hệ thống. Dựa vào những luận điểm của Người có tính bổ sung, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin và bao hàm sự kế thừa những giá trị tư tưởng tiến bộ của nền cộng hòa Pháp và Mỹ, họ quy kết rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa cộng hòa và chủ nghĩa hòa bình hơn là một người theo chủ nghĩa cộng sản.

Họ đưa ra một góc nhìn phiến diện rằng tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, không có tư tưởng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, không mang bản chất mác-xít, thậm chí đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ quan điểm chống phá sai trái ấy, họ đã sử dụng nhiều thủ đoạn để cố tình khiến dư luận có cái nhìn sai bản chất.

Những ý kiến trên là nhận thức rất sai trái và là sự xuyên tạc vô căn cứ. Cả về lý luận và thực tiễn đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử của Việt Nam, là sự kết hợp nhuần nhuyễn Chủ nghĩa Mác-Lênin với giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Chính Chủ nghĩa Mác-Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, sinh động, giàu tính thực tiễn, có giá trị dẫn đường cho thành công của cách mạng Việt Nam. Giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện rất rõ “trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc...” như Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 của Bộ Chính trị khóa VII đã khẳng định.

Phát triển lý luận gắn với tổng kết thực tiễn
Trong cuộc đấu tranh quyết liệt bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận, tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phát triển và làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội Việt Nam; bảo vệ uy tín của Đảng cũng như các quan điểm, đường lối của Đảng trong tiến trình cách mạng. Bởi thế, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những giải pháp quan trọng để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới hiện nay.

Đến nay, công tác nghiên cứu và việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân sống, chiến đấu, lao động và học tập theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại. Tuy vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Việc đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào học trong các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề chưa đạt hiệu quả cao, chưa tạo được sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo học sinh, sinh viên và chưa có chương trình thích hợp trong các bậc học phổ thông.

Riêng trong hệ thống giáo dục phổ thông và cao đẳng, đại học, việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh chưa gây được ấn tượng sâu sắc cho học sinh, sinh viên. Chương trình giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh ở một số trường học, bậc học còn có sự lồng ghép với các môn học khác... Hệ thống giáo trình, tài liệu phục vụ việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh ở các bậc học sau chương trình giáo dục phổ thông tuy có giáo trình song chưa có sự thống nhất giữa các cơ sở đào tạo...

Do tính chất học tập, giáo dục và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh ở các bậc học có ý nghĩa quan trọng, bởi thế cần xác định đúng vị trí, vai trò các nội dung học tập về tư tưởng Hồ Chí Minh, không được cắt xén chương trình học tập. Giáo trình học tập phải giúp học sinh, sinh viên có thể tự nghiên cứu được, phải đầy đủ và sâu sắc về kiến thức, nội dung, giải đáp được những điều còn chưa rõ, chưa hiểu và học hỏi lẫn nhau.

Để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, chúng ta cần rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là các chuyên gia đầu ngành trong hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận.

Bản thân những nhà nghiên cứu mác-xít, những người làm công tác lý luận cũng phải nghiên cứu nghiêm túc và kỹ lưỡng lý luận mác-xít, những tác phẩm nguyên bản của C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin... từ đó phát hiện những vấn đề mới, cách tiếp cận mới để giải quyết bài toán thực tiễn của xã hội hiện đại đang đặt ra; tránh lối nghiên cứu “tầm chương trích cú”, kinh viện, áp dụng lý luận vào thực tiễn một cách máy móc, thiếu sáng tạo, làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng bị xơ cứng, xa rời thực tiễn.

Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn không chỉ tập trung trực diện vào các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà cần chú ý tới những vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đấu tranh và xây dựng xã hội mới.

Trong mục tiêu xuyên tạc, phủ định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực phản động, cơ hội không chỉ trực diện hướng tới phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng mà họ còn thông qua hình thức, biện pháp gián tiếp để thực hiện ý đồ của mình. Họ tập trung phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng, bôi xấu lãnh đạo, phủ định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước...

Bên cạnh đó, họ “ca tụng” các giá trị dân chủ, nhân quyền, văn hóa theo lối sống phương Tây... Tất cả những chiêu bài đó nhằm cố minh chứng việc chúng ta lựa chọn sai con đường, sai mô hình do xuất phát từ học thuyết và tư tưởng lỗi thời, ảo tưởng. Thực chất mục tiêu của họ suy cho cùng là phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng, kêu gọi theo con đường mới, từ bỏ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bởi vậy, song song với việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận như trên thì cũng rất cần việc thường xuyên đánh giá, tổng kết thực tiễn để chứng minh tính đúng đắn, đồng thời có phương cách bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Thực tế hiện nay cũng cho thấy, những nhận thức sai trái, sự chống phá của các thế lực thù địch đối với tư tưởng Hồ Chí Minh cũng ngày càng tinh vi. Họ liên kết, tán phát thông tin sai trái hòng phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh.

Họ thông qua các phương thức như: Gửi đơn thư góp ý, khiếu nại, tố cáo đến các cơ quan Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử và các cơ quan ngôn luận; thông qua các tổ chức dưới dạng tài liệu, sách truyền tay, thông tin truyền miệng; thông qua hội nghị, hội thảo, tổ chức các sự kiện chuyên đề; lập các trang web của nhiều tổ chức, cá nhân để đăng thông tin; thông qua mạng xã hội tán phát các thông tin và liên kết tạo thành đợt tấn công theo chuyên đề, theo các sự kiện.

Từ thực tiễn đó, để bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đòi hỏi chúng ta cũng phải vận dụng các phương thức thông tin phù hợp, sáng tạo để phản bác lại những quan điểm xuyên tạc, sai trái, đồng thời chủ động, kịp thời định hướng thông tin, đưa thông tin chính thống đến dư luận, người dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm môi trường ổn định cho phát triển./.
Môi trường ST.

ĐƯA RA KHỎI ĐẢNG NHỮNG ĐẢNG VIÊN “HỮU DANH VÔ THỰC”!

         Làm trong sạch nội bộ Đảng là vấn đề được Đảng ta rất quan tâm, chú trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Tiến hành đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất đang được Đảng ta đẩy mạnh, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” là chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Đây là cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”, không phải là cuộc đấu giữa các “phe cánh” hay “đấu đá nội bộ”, như có người không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc với động cơ sai, dụng ý xấu” (1).

Làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh
Việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, đưa những người không còn đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng, góp phần làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng và góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Theo V.I.Lênin, đưa những người không còn đủ tiêu chuẩn ra khỏi đảng là tất yếu khách quan, bởi khi đảng giành được chính quyền, trở thành đảng cầm quyền thì nhiệm vụ chính trị của đảng đã có sự phát triển, đòi hỏi phải tăng cường công tác xây dựng Đảng nhằm đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới: “Ngày nay... mặt trận quân sự đã nhường chỗ cho mặt trận kinh tế, vì chúng ta đã chuyển sang chính sách kinh tế mới... Để thực hiện việc cải thiện đó, chúng ta phải gạt bỏ ra khỏi đảng những phần tử xa rời quần chúng (cố nhiên không cần nói đến những phần tử làm ô danh đảng trước quần chúng)” (2). Mặt khác, do vị trí của đảng cầm quyền đã làm cho một số kẻ cơ hội, vì sự hấp dẫn của đảng, tìm mọi cách luồn lách, chui vào đảng, dẫn đến tình trạng bè cánh, phe nhóm trong đảng. Bên cạnh đó, một số người cộng sản khi có chức quyền đã tha hóa, biến chất, mắc bệnh kiêu căng, quan liêu, tham nhũng và ăn hối lộ. Do đó, V.I.Lênin cho rằng: “Những đảng viên hữu danh vô thực thì cho không, chúng ta không cần. Đảng độc nhất nắm chính quyền trên thế giới quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải quan tâm là làm tăng thêm số lượng đảng viên” (3).

Hiện nay, Đảng ta đang đẩy mạnh việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước, thậm chí là những đảng viên được đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn phát triển, tương lai rộng mở nhưng lại thiếu tu dưỡng, rèn luyện, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, “gục ngã” trước những cám dỗ vật chất tầm thường. Có thể nói, chưa bao giờ chúng ta xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm như vừa qua, từ vụ án công ty Việt Á, vụ Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao), vụ liên quan đến Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát đến vụ công ty AIC, dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi... Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Đây là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, rất đau lòng, nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của nhân dân, chúng ta phải làm và kiên quyết làm”(4). Những sai phạm của cán bộ, đảng viên không thể để tiếp diễn, kéo dài, phải kiên quyết xử lý, kịp thời, nghiêm minh và công khai, làm nghiêm từ trên xuống dưới, không có vùng cấm, vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai.

Để Đảng trong sạch cần phải làm gì?
Tiến hành xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, rà soát, sàng lọc và kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện cao độ tính đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng ta hiện nay. Đây cũng là cơ sở quan trọng để đấu tranh, bác bỏ quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị cho rằng việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật là “thanh trừng, đấu đá nội bộ”. Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đặt ra nhiều vấn đề đối với nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng ta hiện nay nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ:

Nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21-1-2019 của Ban Bí thư về “Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”. Chú trọng công tác xây dựng kế hoạch tạo nguồn kết nạp đảng viên. Cấp ủy, tổ chức đảng cần tiến hành chặt chẽ, cẩn trọng việc thẩm tra lý lịch và lấy ý kiến nhận xét của tổ chức chính trị-xã hội đối với người được xem xét kết nạp vào Đảng. Chú trọng việc kết nạp đảng viên ở cơ sở trọng điểm còn ít đảng viên hoặc chưa có đảng viên. Kết hợp chặt chẽ giữa kết nạp đảng viên với giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện và sàng lọc đảng viên. Đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới bảo đảm thiết thực, chất lượng, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào Đảng. Kiên quyết chấn chỉnh những biểu hiện sai trái trong công tác kết nạp đảng viên, khắc phục triệt để tình trạng chạy theo số lượng, xem nhẹ chất lượng.

Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên. Đa dạng hóa các nội dung giáo dục, rèn luyện đảng viên, trong đó tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng; chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn; các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng học tập lý luận chính trị, học tập nghị quyết; chủ động nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước những vấn đề phát sinh; tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Tăng cường công tác quản lý đảng viên toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; các quan hệ xã hội; về việc lập và sử dụng các trang thông tin trên internet, mạng xã hội; quản lý chặt chẽ đảng viên ở ngoài nước và đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập, lao động. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 2-1-2020 của Bộ Chính trị về “Trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú”. Quan tâm, tạo điều kiện và phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ đảng viên trong tự học, tự rèn luyện, tự quản lý.

Đề cao tính đấu tranh tự phê bình và phê bình của các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Thường xuyên giáo dục cho đội ngũ đảng viên nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, mục đích của tự phê bình và phê bình; duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê bình. Thường xuyên đổi mới nội dung, cách thức tiến hành tự phê bình và phê bình. Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình cần có động cơ trong sáng, thái độ chân thành, không nể nang, né tránh, bao che khuyết điểm; không lợi dụng tự phê bình và phê bình để nói xấu, gây mất đoàn kết, hạ uy tín của các cá nhân, tổ chức. Mặt khác, cần có biện pháp bảo vệ người phê bình đã dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời cần có quy định cụ thể đối với cá nhân, tổ chức có khuyết điểm, bị phê bình phải kiên quyết sửa chữa, khắc phục khuyết điểm không để kéo dài; các cá nhân, tổ chức khi được phê bình cần tôn trọng và tiếp thu những đóng góp để đề ra các biện pháp khắc phục, sửa chữa cho phù hợp. Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với phê bình của quần chúng. Nêu cao vai trò, trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, thực hiện “trên trước, dưới sau”, làm “từ trong ra, từ ngoài vào”. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện có thái độ thành kiến, trù dập người phê bình khuyết điểm; thiếu trách nhiệm cả trong phê bình và tự phê bình; chống mọi biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, cục bộ bè phái, mất đoàn kết trong thực hiện tự phê bình và phê bình.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt, thực hiện tốt Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng”. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đối với công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; chủ động nắm chắc tình hình tổ chức đảng, đảng viên, nâng cao năng lực dự báo các tình huống, các vấn đề phức tạp, nổi cộm có thể nảy sinh trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Thực hiện chặt chẽ nguyên tắc trong kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; tăng cường công tác giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề, kiểm tra đảng đột xuất đối với các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm để ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm. Kịp thời củng cố, kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp có trình độ chuyên môn nghiệp vụ; có đủ phẩm chất, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm và có dũng khí đấu tranh trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Giải quyết kịp thời, dứt điểm các đơn, thư tố cáo, khiếu nại theo đúng quy định; không để xảy ra tình trạng đơn, thư kéo dài hoặc lợi dụng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để gây mất đoàn kết, chia rẽ trong các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên.

Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng về nhiệm vụ “xây” và “chống”, trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Tập trung xây dựng đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sạch, lành mạnh; luôn năng động, sáng tạo, đi đầu trong các hoạt động, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung; đồng thời luôn vững vàng trước những cám dỗ của lợi ích vật chất. Triển khai thực hiện hiệu quả mô hình “chi bộ bốn tốt”, “đảng bộ cơ sở bốn tốt”. Cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Tiếp tục cụ thể hóa nội dung đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tăng cường công tác tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt trong công tác xây dựng Đảng. Bên cạnh đó, cần kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; hoặc lợi dụng công tác xây dựng Đảng để đưa ra khỏi Đảng những người không cùng phe cánh, những người mình không ưa thích, hoặc dám đấu tranh phê bình mình./.
-------------------------
(1), (4) Nguyễn Phú Trọng (2023), “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.14, 28.
(2) V.I.Lênin (1921), “Vấn đề thanh Đảng”, Lênin toàn tập, tập 44, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.151-153.
(3) V.I.Lênin (1919), “Nhà nước của công nhân và tuần lễ Đảng”, Lênin toàn tập, tập 39, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.255.
Yêu nước ST.

TUNG HỎA MÙ... “CHUYỆN THÂM CUNG BÍ SỬ”!

     Chiều chủ nhật, tại quán trà đá vỉa hè Thủ đô có 4 người tuổi trung niên xì xào bàn tán: - Mấy hôm nay, facebook của các đối tượng “lề trái” liên tục đăng tin “hot” về một số cán bộ cấp cao phe nhóm, đấu đá nhau để tranh chức quyền các ông ạ!
- Có trang đăng cả những chuyện mà họ gọi là “thâm cung bí sử”, chuyện đời tư của cán bộ cấp cao, chuyện một vài cán bộ làm thế nào để chạy vào quy hoạch Trung ương...

- Thì thi thoảng các trang mạng “lề trái” vẫn đăng tin như vậy, nhưng dịp này nó đăng dày hơn, nhiều chuyện hơn. Dân thường như mình không biết đường nào mà lần, các ông nhỉ?

Ngồi ngay ghế bên cạnh uống trà để chờ đến giờ đón cháu đi học vẽ về, ông Hoàng là cựu chiến binh vô tình nghe được câu chuyện của 4 trung niên. Là người hiểu biết, có nhiều năm kinh nghiệm trong công tác đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, tính tình lại cương trực “thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, không được sống thờ ơ, vô trách nhiệm”, nên ông Hoàng quay sang nói với 4 người ngồi bàn bên:

- Tôi vô tình nghe các chú nói chuyện. Biết các chú đang bị những thông tin suy diễn, xuyên tạc, bịa đặt trên một số trang mạng của các đối tượng bất mãn, phản động làm cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nên tôi xin phép được tham gia vài lời. Các chú có biết vì sao mấy hôm nay một số trang mạng "lề trái" lại đăng nhiều thông tin nói xấu lãnh đạo cấp cao không?

Sau khi cả 4 người trung niên đồng loạt trả lời: “Không ạ!”, ông Hoàng cười và nói:
- Các chú có vẻ không chú ý đến các sự kiện, thông tin chính trị chính thức, nhưng lại tò mò, quan tâm những tin tức giật gân, không hề có cơ sở. Sở dĩ mấy ngày nay, các đối tượng bất mãn, phản động tung nhiều tin xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu một số đồng chí lãnh đạo cấp cao là bởi từ ngày 16/5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tiến hành Hội nghị lần thứ chín để bàn nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có nội dung quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương khóa XIV. Chúng tận dụng cơ hội này, cố tình tung tin hỏa mù, nói xấu, hạ thấp uy tín lãnh đạo cấp cao hòng tạo dư luận xấu, chống phá công tác cán bộ của Đảng ta nhằm thực hiện âm mưu nham hiểm, sâu xa là chống phá Đảng, Nhà nước; làm cho nhân dân mất niềm tin vào chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. Thực tế, trước các kỳ Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội hay những lần lấy phiếu tín nhiệm, khi Trung ương bàn công tác cán bộ thì các phần tử phản động, bất mãn đều tung hỏa mù, xuyên tạc, nói xấu cán bộ cấp cao như vậy. Các chú thấy tôi nói có đúng không?

4 người đàn ông “dạ, vâng”, nhưng một người vẫn hỏi ông Hoàng:
- Vì sao bác lại khẳng định những thông tin “thâm cung bí sử” mà các trang mạng “lề trái” đăng tải là sai sự thật, là suy diễn, xuyên tạc?

Là cử nhân luật, được tín nhiệm bầu làm hội thẩm nhân dân cấp quận và nhiều lần tham gia xét xử tại các phiên tòa nên ông Hoàng đã trả lời hết sức thuyết phục:
- Tôi khẳng định những thông tin nói xấu lãnh đạo cấp cao mà các đối tượng phản động, bất mãn tung ra với chiêu trò “chuyện thâm cung bí sử” để thu hút người đọc là sự suy diễn, xuyên tạc trắng trợn và vu khống, bởi vì không có bất kỳ bằng chứng xác đáng nào để chứng minh đó là sự thật. Bản thân những kẻ tung tin đó cũng không dám chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin chúng đăng tải, như thế thì sao các chú lại tin? Chưa kể, đa số những kẻ tung tin “chuyện thâm cung bí sử” của nước ta lại đang sống ở nước ngoài, làm sao được chứng kiến sự việc trong nước, nhất là chuyện đời tư, chuyện quan hệ, công việc của các đồng chí lãnh đạo, nên chúng chỉ "ăn ốc nói mò". Ngay chúng ta sinh sống và làm việc trong nước, cách trung tâm chính trị của đất nước chỉ vài bước chân mà còn không biết “chuyện thâm cung bí sử” nữa là những đối tượng ở xa đất nước hàng nghìn cây số. Chưa kể, hằng ngày, chúng ta xem thời sự, thấy các đồng chí lãnh đạo cấp cao gặp gỡ, tiếp xúc với nhau thân tình, cởi mở, thể hiện tinh thần đoàn kết, thống nhất rất cao, thế mà chúng tung tin "phe nhóm đấu đá kịch liệt để tranh giành quyền lực, cán bộ này đang tìm cách hạ bệ cán bộ kia để đưa nhau ra khỏi diện quy hoạch, bổ nhiệm"(!)... Chuyện bịa như thế thì các chú thử hỏi có lừa được đứa trẻ thông minh không?

Nghe ông Hoàng phân tích thấu đáo, 4 người đàn ông cứ gật đầu lia lịa, rồi bắt tay ông Hoàng rất chặt thay cho lời cảm ơn ông đã giúp họ tỉnh táo nhận rõ đúng-sai, hiểu rõ những ai đang có âm mưu đen tối hòng chống phá Đảng ta và đất nước./.
Yêu nước ST.

KIÊN CƯỜNG, BỀN BỈ TRONG “CUỘC CHIẾN” GIỮ VỮNG VỊ THẾ, UY TÍN, THANH DANH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM!

     Để góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, vấn đề cần quan tâm hiện nay là phải nhận thức đúng đắn, thực hiện đồng bộ việc nâng cao hiệu quả, tăng cường tính chiến đấu và bảo đảm tính thuyết phục trong “cuộc chiến” giữ gìn, bảo vệ vị thế, uy tín, thanh danh của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản chất chế độ chính trị-xã hội ưu việt mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn!

Kiên trì bồi đắp niềm tin, lý tưởng cao đẹp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
Mục tiêu của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, sự ổn định chính trị-xã hội, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nếu xa rời nguyên tắc này thì việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch cũng không có tính mục đích.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch phải góp phần vào việc tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu, phổ biến, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và quần chúng. Mặt khác, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này sẽ góp phần bồi dưỡng lập trường, tư tưởng, ý thức hệ, thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, hình thành tư duy lý luận chính trị cho những người xây dựng và hoạch định chính sách, cũng như những nhà nghiên cứu khoa học lý luận nói chung; góp phần vào việc bổ sung, phát triển những nguyên lý, lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận trong nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch phải góp phần hình thành, bồi đắp niềm tin, lý tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng trong công cuộc xây dựng xã hội mới, con người mới. Sự vững vàng về lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước các cấp trong hệ thống chính trị chính là hiệu quả thiết thực trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần củng cố niềm tin vững chắc vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn.

Vận dụng phương pháp đấu tranh mác-xít trong “cuộc chiến” bảo vệ Đảng
Trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, chúng ta cần vận dụng phương pháp mà các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, thù địch nhằm phủ nhận, xuyên tạc, bôi nhọ Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Ngay từ đầu năm 1842 đến tháng 3-1843, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tích cực đấu tranh, vạch trần bản chất vụ lợi, sự lừa gạt của luật pháp và nhà nước Phổ; thể hiện sự cảm thông sâu sắc với tình cảnh khổ cực của những người nông dân trồng nho xứ Môden. Những bài viết đăng trên Báo Sông Ranh thời gian này bước đầu hình thành tính phê phán, tính chiến đấu mạnh mẽ của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với những khuynh hướng duy tâm và lập trường chính trị thỏa hiệp, phản động của một số nhà triết học, nhà tư tưởng, nhất là những đại biểu của phái Hêghen trẻ.

Thông qua các tác phẩm: “Vấn đề Do Thái”, “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen-Lời nói đầu”, “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”, “Lược khảo phê phán khoa kinh tế chính trị”, “Gia đình thần thánh”, “Tư bản”..., C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục làm rõ những hạn chế của cách mạng tư sản và phê phán những quan điểm phản động, phản cách mạng, chủ nghĩa vô chính phủ, trực tiếp phân tích và phê phán xã hội tư bản. Đặc biệt, “Chống Đuyrinh” là một tác phẩm kiểu mẫu đấu tranh chống kẻ thù của Chủ nghĩa Mác.

V.I.Lênin đã khẳng định rằng, toàn bộ giá trị của học thuyết Mác là ở chỗ, lý luận đó về bản chất là một lý luận có tính chất phê phán và cách mạng. V.I.Lênin đã phê phán toàn diện triết học duy tâm tư sản và chủ nghĩa xét lại trong triết học. Các tác phẩm của V.I.Lênin đã kết hợp một cách hữu cơ tinh thần cách mạng chiến đấu với tính khoa học sâu sắc, góp phần nâng cao nhận thức và sự nghiệp cải tạo thế giới bằng con đường cách mạng.

Ngày nay, những quan điểm sai trái, thù địch núp bóng ở nhiều vấn đề khác nhau và rất khó nhận diện. Tuy nhiên, kiên định với những nguyên lý căn bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và giữ vững nguyên tắc của Đảng thì chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện, nhận diện và có dũng khí đấu tranh với mọi quan điểm sai trái, thù địch.

Khẳng định sức sống không thể phủ nhận của Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết khoa học, vì chủ nghĩa ấy đã chỉ ra được những quy luật khách quan trong sự vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy; đồng thời lần đầu tiên, chủ nghĩa ấy đã tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học khi làm cho lý luận gắn với hoạt động thực tiễn của con người. Tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa ấy có cơ sở từ sự tiếp thu toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của nhân loại từ thời cổ đại đến thời đại các ông, mà trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.

C.Mác đã tiến hành tổng kết lịch sử, kế thừa có chọn lọc, có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát thực tiễn thời đại. Chủ nghĩa ấy được xây dựng trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, thông qua sự khái quát của C.Mác và Ph.Ăngghen nên nó là học thuyết chính xác. Cơ sở cho tính khoa học và tính cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin còn là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Cho nên học thuyết ấy còn mang tính thực tiễn.

Lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin tuyệt đối không phải là khoa học trừu tượng, tư biện mà là khoa học về cách mạng, khoa học của thực tiễn và vì thực tiễn hướng tới mục tiêu giải phóng con người khỏi sự chế ngự bởi “vương quốc tất yếu”, để bước tới “vương quốc tự do”. Xuyên suốt toàn bộ di sản lý luận đồ sộ, sâu sắc của C.Mác là một thế giới quan mới và phương pháp luận khoa học và cách mạng, đem lại cho nhân loại tiến bộ và nhất là cho giai cấp công nhân một công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới. Hạt nhân làm nên tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác chính là thế giới quan duy vật biện chứng-thế giới quan đã xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ thành một hệ thống chỉnh thể-chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, C.Mác đã đưa ra hai phát minh khoa học vĩ đại là quan niệm duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Với quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, các quy luật phát triển của xã hội loài người được phát hiện. Ph.Ăngghen viết: “Trên hành tinh của chúng ta, Sáclơ Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ. Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử loài người”(1). V.I.Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”(2) .

Với thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết trở thành một chế độ chính trị-xã hội tồn tại đến ngày nay đã minh chứng hùng hồn cho giá trị và sức sống mãnh liệt, trường tồn và vai trò to lớn của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong sự phát triển của lịch sử nhân loại.

Thực tiễn là chân lý chứng minh sự lựa chọn đúng đắn của chúng ta
Thước đo quan trọng nhất thể hiện tính hiệu quả của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch chính là thành quả của sự nghiệp đổi mới, cuộc sống hạnh phúc của nhân dân ta.

Thông qua các hình thức tuyên truyền, truyền thông đa dạng, phong phú trên các kênh, chúng ta cần làm cho thế giới biết đến Việt Nam ngày nay đã có vị thế mới trong cộng đồng quốc tế, quy mô nền kinh tế ngày càng lớn mạnh. Từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, chỉ với 14 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 250USD trong những năm đầu đổi mới, sau gần 4 thập niên, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình và có quan hệ kinh tế-thương mại với hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.

Việt Nam đã tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các FTA thế hệ mới, là nước thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ổn định nhất trong ASEAN. Việc ký kết và thực thi các FTA, nhất là các FTA thế hệ mới, chủ trì các hội nghị đa phương lớn của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là FTA giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) với 28 nước thành viên EU, đã đánh dấu bước tiến mới của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều nước, trong đó có tất cả các nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã thực sự chủ động, tích cực tham gia hội nhập quốc tế với một vị thế mới, bắt kịp với xu thế của thời đại.

Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và nhiệm kỳ 2020-2021; Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016 và nhiệm kỳ 2023-2025; Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017; Hội đồng Kinh tế-Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018. Năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận, hoàn thành tốt 3 trọng trách: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA, góp phần nâng cao uy tín, vị thế trong khu vực và trên thế giới.

Mới đây, Việt Nam đề xuất và soạn thảo Nghị quyết kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (UDHR) và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna (VDPA), được Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua. Điều này đã hiện thực hóa chính sách đối ngoại chủ động, tích cực, có trách nhiệm tham gia giải quyết các vấn đề của cộng đồng quốc tế. Việt Nam đang trở thành nước có quan điểm, cách tiếp cận mới, góp phần định hướng những giá trị chung cho nhân loại.

Hiện nay, các nhà đầu tư quốc tế luôn coi Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng, lợi thế cũng một phần bởi giá trị văn hóa, con người Việt Nam. Bên cạnh đó, với sự định hướng đúng đắn, quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và trên hết là một thể chế chính trị có vai trò định hướng, dẫn dắt và quản trị tốt, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được những bước tiến mới mạnh mẽ trong tương lai.

Những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đã chứng tỏ những người cách mạng chúng ta đang đi đúng hướng. Vì vậy, những quan điểm sai trái, thù địch cần phải được quét sạch trên con đường đi của chúng ta!
-----------------------
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tập19, tr.496
(2) V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 23, tr.53.
Yêu nước ST.

TRỊ BỆNH “NGÁO CHỮ” TRONG HỘI THẢO!

     Hội thảo là một dịp quan trọng để các đại biểu phát huy trí tuệ, tâm huyết, luận bàn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn. Thế nhưng đáng buồn thay, không ít đại biểu lại xem hội thảo như sân khấu để phô trương, chứng tỏ bản thân với những mỹ từ sáo rỗng. Hành vi ấy là biểu hiện của căn bệnh “ngáo chữ”, khiến không ít hội thảo trở nên thiếu dân chủ, thiếu khoa học, gây lãng phí, nguy cơ dẫn tới nhiều mối nguy, hệ lụy!

Mối nguy từ bệnh “ngáo chữ”
Tại một cuộc hội thảo của ngành, chủ đề được xác định khá thiết thực, có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Một nữ đại biểu trước hội thảo báo với ban tổ chức: “Bài tham luận của tôi dài 3 trang đã được in trong kỷ yếu nên tôi xin phép không đọc lại để khỏi làm mất thời giờ”. Một vị chủ tọa liền nói: “Không, cô cứ đọc bài tham luận của mình để bảo đảm đúng thời gian”. Những tưởng đã xong, nữ đại biểu nọ sau khi đọc xong tham luận của mình, liền xin phép chia sẻ một số “điều tâm huyết bấy lâu”. Chẳng quan tâm phía dưới nghĩ gì, nữ đại biểu cứ phát biểu tràng giang đại hải, khoe mẽ, tung hô, kể lể quá trình mình làm việc khó khăn thế nào, thành tích ra sao, rồi lên án, phê phán cá nhân này, tổ chức khác, khiến nhiều người nghe tỏ vẻ bức bối, khó chịu; ban tổ chức phải nhiều lần ngắt lời mới dừng được nữ đại biểu. Một số người chứng kiến tỏ ra ái ngại: Hội thảo chứ có phải buổi liveshow cá nhân đâu mà “ngáo chữ” đến vậy?

Thực tế, tại nhiều hội thảo hiện nay, bên cạnh những ý kiến tâm huyết, đi sâu vào vấn đề trọng tâm, cống hiến nhiều luận cứ khoa học, có tính lý luận và thực tiễn thì chúng ta vẫn gặp khá nhiều trường hợp bị “ngáo chữ” như vậy. Biểu hiện thường thấy của căn bệnh này là người phát biểu thao thao bất tuyệt, kiểu “nói như rồng leo”, không bám sát nội dung đề dẫn hội thảo, các vấn đề cốt lõi, những khó khăn, hạn chế, đề xuất giải pháp mà lại lạc đề, sa vào kể lể, tung hô thành tích bằng những mỹ từ sáo rỗng, sáo ngữ, lập ngôn, vừa máy móc, vừa thiếu khoa học, thiếu dân chủ. Thậm chí có đại biểu bước lên diễn đàn thì quên mất mình là ai, bỗng hóa thành “anh hùng”, có quyền phê phán, lời lẽ cay độc với người này, người nọ, tự huyễn hoặc bản thân... Lại có đại biểu “ngáo chữ”, không biết mình đang nói cái gì, nói đến đâu. Ngôn ngữ thì “đao to búa lớn”, sặc mùi sính ngoại, câu nào cũng phải thêm vào vài từ tiếng Anh như: “4.0”; thời đại “@”, “business”... mà quên mất rằng ngồi phía dưới toàn là các bậc tiền bối khoa học nước nhà.

Xét về mặt ngữ nghĩa, “ngáo chữ” và “sáo ngữ” hay “ngộ chữ” đều có nét tương đồng với nhau, ấy là hành vi đều dùng lời nói theo dạng rập khuôn máy móc, không truyền tải thông tin cần thiết, thiếu lý luận, thiếu thực tiễn. Nếu như “sáo ngữ” là hành vi người nói có dụng ý dùng lời lẽ mỹ miều, bùi tai, thuận chiều để “che lấp” những vấn đề không muốn nói, thì “ngáo chữ” là hành vi người nói không kiềm chế được lời nói của mình, ảo tưởng về bản thân, thậm chí là hành động phụ họa không bình thường trên hội thảo. Hành vi này vừa gây mất thời gian hội thảo, vừa vô bổ, lạc lõng, phiến diện. Người nghe vì thế cảm thấy mình như là “nạn nhân”, bị tra tấn tinh thần. Thậm chí, có chuyên gia còn đem so sánh hành vi “ngáo đá” và “ngáo chữ” trong các hội thảo trá hình xuất hiện lâu nay; tuy khác nhau về hành vi nhưng đều có điểm chung đó là nói về những đối tượng không còn ý thức được hành vi của mình, thường có hành động gây nguy hiểm cho bản thân, gia đình và cộng đồng.

Bệnh “ngáo chữ” có nhiều nguyên nhân, song cơ bản bắt nguồn sâu xa từ thói phô trương, ưa hình thức, sính dùng từ ngữ to tát, mỹ miều để chứng tỏ bản thân là người học cao, hiểu rộng, am tường thời cuộc, trí tuệ hơn người... Hành vi này thật sự nguy hiểm khi nó lan truyền từ người này sang người khác, bởi hiệu ứng “con gà tức nhau tiếng gáy”. Những người “ngáo chữ” chẳng những gây bực tức cho người nghe mà còn làm ảnh hưởng đến nội dung chương trình, kịch bản, chất lượng của cuộc hội thảo. Các vấn đề mang tính khoa học, lý luận và thực tiễn không được tập trung bàn luận, tháo gỡ, thậm chí đi lệch hướng, không bảo đảm tính khoa học, thiếu dân chủ, thiếu khách quan.

Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng chỉ rõ những biểu hiện: “Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu...”, được xác định là một trong số những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo, sáo rỗng, phát biểu xa rời thực tiễn chính là nguyên nhân làm mất niềm tin của nhân dân, cấp dưới, về lâu dài là mối nguy xói mòn niềm tin trong Đảng, kìm hãm sự phát triển của xã hội.

Mạnh mẽ thay đổi tư duy, thực hành nói đi đôi với làm
Hội thảo là cuộc gặp gỡ của những đại biểu có cùng mối quan tâm về một vấn đề khoa học hoặc thực tiễn cấp thiết. Cái đích cao nhất của hội thảo là đi đến tận cùng các vấn đề tri thức khoa học, tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề mà thực tiễn đang cần, lòng dân đang mong. Sẽ rất đáng quý nếu các đại biểu mang đến hội thảo những ý kiến hay, phát kiến mới, đóng góp cho nội dung trọng tâm hội thảo, giải quyết những khâu khó, việc yếu, cấp thiết.

Để hội thảo đạt hiệu quả thực chất, việc trước hết và quan trọng hàng đầu hiện nay là đòi hỏi những người đứng đầu, những người làm công tác tổ chức cần thay đổi tư duy, đặt ra yêu cầu cao trong công tác chuẩn bị và vận hành hội thảo. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6-2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo cần tiếp tục đổi mới cách thức tổ chức các phiên họp, từ khâu tổ chức, báo cáo tới khâu thảo luận, phát biểu. Trong đó, việc xây dựng các báo cáo phải theo hướng ngắn gọn, súc tích, dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm, dễ kiểm tra, dễ đánh giá, tập trung vào những công việc trọng tâm...

Với tinh thần ấy, đã đến lúc cần kiên quyết nói không với bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo. Cần phải xem đây là hành vi lệch chuẩn và vi phạm kịch bản, quy định của hội thảo để kịp thời xử lý. Theo đó, trước mỗi cuộc hội thảo, ban tổ chức cần phải xem xét, xây dựng kỹ lưỡng kịch bản, các đại biểu tham luận; trong đó làm rõ yêu cầu về thời gian, chủ đề, ý kiến phản biện... Việc mời các đại biểu tham luận, đóng góp ý kiến phải được xem xét phù hợp; đó phải là những người có học vấn, am hiểu, chuyên sâu về lĩnh vực hội thảo; có lý lịch khoa học tốt. Tránh việc mời đại biểu tham luận như một dịp để tri ân và giải quyết những mối quan hệ trong công tác. Quá trình điều hành hội thảo, người chủ trì cần linh hoạt, có phương pháp xử lý kịp thời, dứt khoát với các đại biểu mắc bệnh “ngáo chữ”.

Bản thân các đại biểu tham luận tại hội thảo cần phải xem đây là cơ hội quan trọng để đóng góp tâm huyết, trí tuệ, sáng kiến cho hội thảo. Từng người cần tích cực, chủ động nghiên cứu kỹ lưỡng chủ đề hội thảo và chắt lọc, cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề mà mình được tham luận, bảo đảm tính lý luận, thực tiễn, thiết thực. Tránh trường hợp nói trong hội thảo khác, ra ngoài hội thảo nói khác, hay nói trong kỷ yếu khác nhưng tham luận trực tiếp lại khác. Hội thảo là cuộc hội ngộ của các chuyên gia, nhà khoa học, các đại biểu, thành công của cuộc hội thảo đó là công sức, trí tuệ, tâm huyết của tập thể được kết tinh, đúc rút, cung cấp nhiều luận cứ về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần giải quyết thấu đáo vấn đề mà quần chúng nhân dân mong chờ. Bởi vậy, đứng trước hội thảo, mỗi đại biểu cần phải khiêm tốn, đúng mực, tránh hành vi lộng ngôn, cao ngạo, tự cho mình cái quyền được phê phán người này, người nọ. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng trau dồi kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức khoa học cả về lý luận và thực tiễn.

Một tham luận hay trong hội thảo cũng không phải là đọc nguyên văn như một bản báo cáo thành tích đã soạn sẵn, mà cần phải có những yếu tố phản biện, tranh luận, đóng góp, phát kiến. Bởi vậy cần phân biệt rõ việc phản biện và bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo. Phản biện được hội thảo ghi nhận, đánh giá cao nếu đại biểu tham luận nêu lên được cái mới, tính đột phá, sáng tạo, thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám đột phá sáng tạo. Còn “ngáo chữ” lại là hành vi đáng phê bình bởi lối hoang tưởng, ảo tưởng sức mạnh cá nhân, khoe mẽ, sáo rỗng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên phải nói những điều thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, tránh lời nói đao to búa lớn, sáo rỗng, nói không đi đôi với làm. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Người viết năm 1947 với bút danh X.Y.Z, Bác chỉ rõ “ba chứng bệnh phải tẩy sạch” đó là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và bệnh ba hoa. Người yêu cầu: Phải tự phê bình và phê bình nghiêm khắc khi mắc vào những bệnh rất có hại ấy và phải quyết tâm sửa chữa trong tư tưởng và trong hành động, trong các mối quan hệ.

Trong bối cảnh toàn Đảng đang tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc trong các cơ quan của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, bảo đảm tính khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể, thì việc nói không với bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo như nêu ở trên cần được nhận diện và sớm khắc phục. Muốn làm được điều này cần sự thay đổi trong tư duy của cả hệ thống chính trị, nhất là những người đứng đầu. Song hành với đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, thực hành nói đi đôi với làm, gắn lý luận với thực tiễn, có như vậy mới tạo động lực cho sự phát triển nói chung./.
Yêu nước ST.