Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

Nguy cơ chiến tranh khu vực, khủng bố là những vấn đề nóng hiện nay

 


Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, song nguy cơ chiến tranh khu vực, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo vẫn còn tiềm ẩn, khó lường. Nguy cơ này xuất phát từ nhiều nguồn gốc, nguyên nhân khác nhau, cả vấn đề lịch sử, hiện tại, các phương diện từ ý thức hệ tư tưởng, đến địa chính trị, kinh tế, văn hóa, dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… Các cường quốc muốn thiết lập một trật tự thế giới mới, khẳng định vị thế, vai trò của mình đối với khu vực và thế giới. Mặc dù vậy, khả năng giải quyết vấn đề luôn mở ra hòa bình, hợp tác, phát triển để vượt qua những khác biệt, mâu thuẫn và xung đột quốc tế. Xu thế chung của thế giới hiện nay thể hiện qua các mối quan hệ tất yếu và phổ biến giữa hòa bình, hợp tác và phát triển.

Phát triển toàn diện, nhất là phát triển kinh tế - xã hội là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của mỗi quốc gia.

 


 Ngày nay thực lực kinh tế quyết định vị thế của một quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế và đời sống chính trị thế giới. Ưu tiên kinh tế đã trở thành trào lưu thế giới và là tất yếu phát triển của lịch sử đương đại. Phát triển kinh tế - xã hội hiện nay không chỉ liên quan đến vấn đề quốc tế dân sinh, đến ổn định chính trị lâu dài của một đất nước mà còn liên quan đến hòa bình và an ninh của khu vực và thế giới. Sự suy thóai - phản phát triển không chỉ diễn ra ở cục bộ một nước mà sẽ nhanh chóng ảnh hưởng và liên lụy đến khu vực và thế giới. Phát triển kinh tế thị trường là định hướng chủ yếu của các quốc gia hiện nay. Hàng loạt các vấn đề kinh tế - xã hội hiện nay đang đặt ra cho các quốc gia mà con đường giải quyết chỉ có thể là hòa bình và hợp tác phát triển. Phát triển và những cơ hội phát triển trong công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc sẽ tạo ra thực lực đảm bảo cho hòa bình và hướng tới một nền hòa bình vững chắc.

Trong quan hệ quốc tế hiện nay, hợp tác và đấu tranh luôn là hai mặt cùng tồn tại trong quan hệ quốc tế. Đây là một tất yếu khách quan. Nó đòi hỏi phải được nhận thức đúng và có sự kết hợp hài hòa khi xem xét đến các quyền lợi của mỗi quốc gia và cả cộng đồng. Tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia đều có thể dẫn đến đổ vỡ trong quan hệ giữa các quốc gia cũng như giữa quốc gia với cộng đồng quốc tế. Trong quá trình xem xét, phải xuất phát từ nguyên tắc hợp tác để đấu tranh và đấu tranh để hợp tác chặt chẽ hơn, bền vững hơn. Xuất phát từ quyền lợi cụ thể của mỗi chủ thể quan hệ quốc tế trong quan hệ đối ngoại, phải thấy luôn tồn tại đối tác và đối tượng. Vấn đề đặt ra cho các đảng cộng sản là phải nhấn mạnh, phải chú ý tìm thấy đối tác để khắc phục đối tượng, tìm thấy điểm tương đồng để hạn chế, khắc phục bất đồng gắn với bối cảnh lịch sử cụ thể trong từng thời điểm của quan hệ quốc tế.

Trong bối cảnh của thế giới đương đại sẽ không có mối quan hệ nào chỉ là đối tượng và ngược lại chỉ là đối tác. Xuất phát từ lợi ích của mỗi quốc gia, của mỗi khu vực cần tìm thấy các điểm tương đồng, các lợi ích chung để khắc phục bất đồng. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt luôn song hành. Điều quan trọng nhất trong quan hệ giữa các quốc gia là giải quyết theo nguyên tắc đồng thuận khắc phục bất đồng; cố gắng biến những bất đồng lớn theo hướng giảm nhẹ, và tuyệt đối tránh làm cho bất đồng nhỏ thành bất đồng lớn. Thống nhất hợp tác và đấu tranh, đối tượng và đối tác là một xu thế đang tồn tại trong quan hệ quốc tế hiện nay, đang nổi lên trong sự lựa chọn của các dân tộc. Đây là một xu thế, một nguyên tắc trong ứng xử giữa các nước, “hợp tác và đấu tranh vì lợi ích quốc gia, vì hòa bình - phát triển và cùng giải quyết những thách thức toàn cầu là xu hướng chung của nhân loại”[1].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.266.

Hợp tác là xu hướng trong quan hệ quốc tế hiện nay

 


Hợp tác là phương thức đạt tới hòa bình và phát triển. Chỉ có hợp tác tích cực, lành mạnh và văn minh mới thực hiện được hòa bình và phát triển. Hợp tác đó phải dựa trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và lợi ích của tất cả các bên, tin cậy, hiểu biết lẫn nhau và cùng có lợi.

Hợp tác trong điều kiện nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa bao hàm cả cạnh tranh và đấu tranh bảo vệ lợi ích dân tộc, đồng thời đảm bảo lợi ích quốc tế hiện tại cũng như tương lai. Lợi ích của các nước trong xu thế toàn cầu hóa ngày càng liên hệ chặt chẽ và tùy thuộc lẫn nhau, do đó, cần có hòa bình để liên kết với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Không thể có sự phát triển nếu không có cơ sở và nền tảng là hòa bình, cũng không thể có phát triển nếu không thông qua phương thức hay động lực là hợp tác và đấu tranh.

Hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường. Hợp tác để bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh xâm lược và khủng bố; để phòng tránh và vượt qua các thảm họa thiên nhiên từ những biến động dữ dội của môi trường; để duy trì, tái tạo, phát triển sự sống, xác lập lại trật tự hài hòa vốn có của tự nhiên, xã hội và con người; để cùng nhau bảo tồn và phát huy các giá trị tích cực của truyền thống lưu giữ trong các bản sắc văn hóa dân tộc; để sáng tạo văn hóa, phát triển văn hóa nhân loại trong sự thống nhất trong sự đa dạng, đồng thời cùng nhau đấu tranh chống các nọc độc văn hóa, phản động, phản văn hóa.

Hợp tác diễn ra bằng con đường song phương và đa phương, bằng mở cửa và hội nhập bằng chia sẻ trách nhiệm và đảm bảo công bằng trong lợi ích, bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Hợp tác đòi hỏi phải tích cực, chủ động và cộng đồng trách nhiệm, không hẹp hòi và vụ lợi, không sô vanh, bá quyền. Hợp tác lành mạnh đòi hỏi phải giải quyết hài hòa mối quan hệ dân tộc và quốc tế. Hợp tác hiện nay đòi hỏi phải tuân thủ theo nguyên tắc: vừa hợp tác vừa cạnh tranh, ganh đua một cách có văn hóa trên tinh thần hòa bình và bao dung. Trong quá trình hợp tác cũng rất cần sự nỗ lực, sáng tạo của các chủ thể thông qua các cơ chế phối hợp, điều chỉnh, hòa giải và thương lượng theo các chuẩn mực chung cùng nhau giải quyết bất đồng.

Hòa bình là xu thế lớn hiện nay

 


Hòa bình là điều kiện tiên quyết cho hợp tác và phát triển. Hòa bình vẫn là khát vọng, là mục tiêu đấu tranh của nhân loại tiến bộ, do đó luôn có sự thống nhất, đồng thuận cao trong nhận thức và hành động của các dân tộc. Thế giới hiện nay xét về tổng thể là hòa hoãn, cùng tồn tại hòa bình, nguy cơ nổ ra chiến tranh lớn, chiến tranh thế giới về cơ bản đã được ngăn chặn, nhưng nguy cơ chiến tranh khu vực, xung đột dân tộc, sắc tộc vẫn tiềm ẩn và sẵn sàng bùng phát bất cứ lúc nào, nơi nào. Khủng bố và chống khủng bố tuy có phần lắng dịu so với những năm trước, nhưng những nguồn gốc, đặc điểm vẫn chưa giải quyết dứt điểm và xu hướng vận động trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm phức tạp đời sống chính trị toàn cầu, làm mất ổn định chính trị - xã hội, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế, có nguy cơ làm mất đi cơ hội hòa bình và phát triển của tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới.

Hòa bình, là mục tiêu đấu tranh hàng đầu của nhân loại tiến bộ và là khát vọng sống mãnh liệt của các dân tộc, nhất là các dân tộc đã từng chịu các cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài. Hòa bình và phát triển là nguyện vọng, là mối quan tâm của toàn thế giới, là sự thống nhất và đồng thuận trong nhận thức lẫn hành động của tất cả các dân tộc. Thế giới cần hòa bình, nhân dân cần hợp tác, quốc gia cần phát triển, xã hội cần tiến bộ, tất cả đã trở thành trào lưu, xu thế tất yếu của thế giới ngày nay. Việc đảm bảo hòa bình không hề dễ dàng trong một thế giới chứa chất nhiều điều bất ổn, nhiều biến động khó lường và thách thức gay gắt. Đấu tranh cho hòa bình và an ninh chung ngày càng trở nên bức xúc, có tính thời sự và là chủ đề lớn của thời đại.

Vai trò của Quân đội trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

 


Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; là quân đội mang bản chất của giai cấp công nhân, chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quân đội có vai trò rất quan trọng trong thực hiện mục tiêu sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc - một trong hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và dân tộc. Đó là mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thể hiện mục tiêu lý tưởng của giai cấp công nhân; trong đó bảo vệ Đảng, cơ sở chính trị - xã hội của Đảng và nền tảng tư tưởng của Đảng là nội dung hết sức quan trọng để giữ vững chế độ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng tham gia hiện thực hóa mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và giai cấp công nhân. Quân đội tham gia bảo vệ lợi ích kinh tế, xã hội, tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho để phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội là nhiệm vụ chính trị thường xuyên; đồng thời, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và đời sống cán bộ, chiến sĩ. Các đơn vị trong toàn quân đều thể hiện vai trò này, song trực tiếp, thường xuyên nhất là các doanh nghiệp quân đội, các đơn vị thực hiện nhiệm vụ kinh tế - quốc phòng. Thông qua đó, quân đội còn trực tiếp xây dựng đội ngũ công nhân quốc phòng vững mạnh, đóng góp vào sự phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, trở thành lực lượng trung tâm, tiêu biểu trong cơ sở chính trị - xã hội của Đảng.

Quân đội là lực lượng rất quan trọng trong thực hiện nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân về văn hóa, tư tưởng. Quân đội tham gia giữ gìn, phát triển, phát huy các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị văn minh nhân loại để xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa; là lực lượng đi đầu trong việc truyền bá tư tưởng - hệ giá trị của giai cấp công nhân trong quân đội và toàn xã hội, thông qua hoạt động tư tưởng, lý luận, văn hóa, công tác tuyên huấn, công tác dân vận và vận động quần chúng…

Quân đội là lực lượng quan trọng trong thực hiện chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, tham gia gìn giữ hòa bình và các mục tiêu khác của thời đại hiện nay, vì một thế giới hòa bình, hợp tác, phát triển, thịnh vượng và văn minh.

 

Quan niệm mô hình chủ nghĩa xã hội

 


Mô hình chủ nghĩa xã hội là một kiểu tổ chức xã hội được xây dựng theo nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học, phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của từng quốc gia dân tộc, bao gồm những đặc trưng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khẳng định trình độ và bản chất ưu việt của chế độ xã hội từng bước được bổ sung, hoàn thiện.

Mô hình chủ nghĩa xã hội thể hiện nhận thức của đảng cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở mỗi nước về xã hội sẽ xây dựng. Xác định mô hình chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình hiện thực hóa mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cọng sản chủ nghĩa. Việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ thường xuyên của các đảng cộng sản, đảng công nhân. Khả năng điều chỉnh mô hình chủ nghĩa xã hội tùy thuộc vào hoạt động thực tiễn và năng lực tư duy lý luận của các đảng cộng sản. Việc trao đổi và học tập, kế thừa kinh nghiệm giữa các đảng cộng sản là nhân tố thực tiễn quan trọng để điều chỉnh mô hình một cách khoa học.

Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra một vấn đề có tính quy luật là có thể có nhiều mô hình chủ nghĩa xã hội cho các quốc gia khác nhau và một mô hình cũng có thể điều chỉnh nhiều lần trong quá trình hiện thực hóa. Năng lực tư duy lý luận của các đảng cộng sản là nhân tố quyết định trực tiếp đến xây dựng và điều chỉnh mô hình chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, ý chí chính trị, sự kiên định, đồng thuận xã hội với mô hình đã xác định cũng là những nhân tố được thực tiễn khẳng định có vai trò rất quan trọng trong việc hiện thực hóa mô hình chủ nghĩa xã hội.

Mô hình chủ nghĩa xã hội trên thế giới cũng đã trải qua nhiều chặng phát triển. Từ mô hình mang tính đơn nhất là chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô - được áp dụng khá phổ biến và ít biến thể vào nhiều quốc gia, thông qua cải cách, đổi mới, đã xuất hiện nhiều mô hình sáng tạo, song vẫn mang tính chất chủ nghĩa xã hội như mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Cu ba, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Lào... Lý luận về chủ nghĩa xã hội ngày một đầy đủ và phù hợp thực tế hơn. Sự xuất hiện các mô hình chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi mới vừa khẳng định sức sống của chủ nghĩa xã hội, vừa là thành tựu lý luận quan trọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực hiện nay.

Chủ nghĩa xã hội là một phong trào thực tiễn

 


Ở các mức độ khác nhau, chủ nghĩa xã hội còn được biểu hiện ra với tính cách là một phong trào thực tiễn. Đó là phong trào của giai cấp công nhân, cùng với quần chúng lao động tiến hành đấu tranh cách mạng, thực hiện lợi ích trước mắt, cũng như lợi ích cơ bản lâu dài để hiện thực hóa mục tiêu sứ mệnh lịch sử của mình.

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi đã chứng minh tính thực tiễn của phong trào xã hội chủ nghĩa là phải huy động sức mạnh của quần chúng nhân dân. Trong thế kỷ XX, phong trào xã hội chủ nghĩa đã lôi cuốn hàng chục nước, với sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động nên đã hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Từ sau sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã gây ra tổn thất lớn cho phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tuy nhiên nhiều phong trào xã hội chủ nghĩa vẫn được tổ chức, tập hợp với những hình thức phong phú, linh hoạt để thực hiện các mục tiêu của thời đại.

Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội hiện thực

 


Đó là một mô hình, kiểu tổ chức xã hội dựa trên những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là quá trình lịch sử tự nhiên, tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ, giai đoạn thấp và giai đoạn cao. Trong đó, giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội, phản ánh những đặc trưng bản chất ưu việt so với các chế độ xã hội khác trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Mô hình chủ nghĩa xã hội vừa mang tính phổ biến, vừa phản ánh tính đặc thù và trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, hướng tới mục tiêu cuối cùng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh phúc và tạo điều kiện, cơ hội cho con người phát triển toàn diện.

Thực tiễn sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi đã khai sinh ra chủ nghĩa xã hội hiện thực - mở đầu một chế độ xã hội mới khác hẳn về chất so với các chế độ xã hội trước đó, dựa trên các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã khẳng định sức sống và vị thế của nó trong hơn bảy thập kỷ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã lâm vào khủng hoảng, sụp đổ vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Một số nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới, cải cách, mở cửa và giành được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa đang tiếp tục hoàn thiện mô hình, tìm kiếm con đường, biện pháp để khẳng định triển vọng phát triển.

Chủ nghĩa xã hội là một trào lưu tư tưởng, lý luận, một học thuyết khoa học.

 


Đó là những trào lưu tư tưởng, hệ thống lý luận khoa học và cách mạng về con đường, cách thức và phương pháp đấu tranh cách mạng nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại, giải phóng con người thóat khỏi chế độ áp bức, bóc lột, xây dựng chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trở thành học thuyết khoa học dựa trên những tiền đề của những trào lưu tư tưởng, lý luận trước Mác, gọi là tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng. Nó ra đời gắn với cuộc đấu tranh chống ách áp bức, bất công của các xã hội có mâu thuẫn giai cấp đối kháng (bắt đầu từ chế độ chiếm hữu nô lệ).

Khi xã hội loài người bước sang chế độ phong kiến, trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa tiếp tục được thể hiện trong mô hình xã hội tương lai của loài người. Đó là chủ nghĩa xã hội phong kiến hoặc chủ nghĩa xã hội Thiên Chúa giáo - những tư tưởng đồng nhất xã hội cộng sản với “thiên đường ngàn năm của Chúa”. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, một số tác phẩm văn học của các nhà tư tưởng đã phản ánh tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, song nó còn nhiều yếu tố “không tưởng”. Đến giữa thế kỷ XIX, tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đã có bước phát triển mới, với những phác họa một xã hội tương lai có tính chất cộng sản chủ nghĩa. Với tính chất phê phán sâu sắc và toàn diện, tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng thời kỳ này được gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán với ba đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông, S.Phuriê và R.Ôoen. Năm 1848, với sự ra đời tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo, chủ nghĩa xã hội từ trào lưu tư tưởng đã trở thành một học thuyết khoa học và là một trong ba bộ phận lý luận cấu thành của học thuyết Mác. Từ năm 1848 đến nay, qua giai đoạn lịch sử, lý luận về chủ nghĩa xã hội ngày càng được bổ sung, phát triển, từng bước hoàn thiện và vận dụng vào thực tiễn phù hợp với đặc điểm, điều kiện của quốc gia dân tộc, xu thế phát triển của thời đại.

Vai trò, trách nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

 

Sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động sâu sắc, toàn diện đến Quân đội nhân dân Việt Nam; đồng thời, Quân đội cũng là chủ thể quan trọng trong phát huy, phát triển mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế của sự tác động đó để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc.

Quân đội là lực lượng quan trọng trong nắm bắt, tiếp thu những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại - Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để củng cố, tăng cường quốc phòng, quân sự, hiện đại hóa quân đội cả về vũ khí, trang bị, tổ chức biên chế, xây dựng đời sống tinh thần, tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

Quân đội là lực lượng nòng cốt trong phát triển khoa học - công nghệ quốc phòng, khoa học quân sự, phát huy những giá trị của khoa học quân sự truyền thống trong bối cảnh công nghệ số, đổi mới sáng tạo; phát triển công nghiệp quốc phòng mang tính lưỡng dụng. Quân đội là chủ thể chính trong xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ của nền quốc phòng toàn dân gắn với sự phát triển của khoa học - công nghệ đất nước; tích cực tham gia xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước vững mạnh. Hơn nữa, Quân đội còn là chủ thể tích cực tham gia hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ quốc phòng, quân sự, phát triển thành tựu về vũ khí công nghệ cao, góp phần khẳng định vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Trong điều kiện hiện nay, để phát huy vai trò của Quân đội trước tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại - Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần thực hiện tốt một số nội dung biện pháp sau:

 Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức cho quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng về cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại; về hệ quả chính trị - xã hội của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại hiện nay. Chỉ đạo, tổ chức cho các đơn vị trong toàn quân tích cực thực hiện quan điểm, chính sách phát triển khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Tham gia tích cực vào việc khắc phục những tác động tiêu cực do hệ quả chính trị - xã hội của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mang tới. Tham gia phát triển khoa học và công nghệ trong điều kiện mới ở Việt Nam.

Đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhà khoa học và nguồn nhân lực chất lượng cao; có chính sách động viên, khuyến khích các nhà khoa học và các chuyên gia công nghệ hàng đầu tham gia nhiệm vụ quốc phòng, quân sự; đồng thời, coi trọng phát triển công nghiệp quốc phòng.

Đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chính trị cấp trung, lữ đoàn phải không ngừng học tập, nắm vững kiến thức về cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại hiện nay; nâng cao vai trò trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong cơ quan, đơn vị; xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; đơn vị vững mạnh toàn diện, mẫu mực, tiêu biểu.

Tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại làm cơ sở tiền đề cho đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời, khắc phục triệt để những ảnh hưởng tiêu cực của hệ quả chính trị - xã hội của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động đến bản chất, truyền thống và sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta trong tình hình mới. Kiên quyết đấu tranh với những nhận thức lệch lạc và hành vi sai trái trong thực hiện quan điểm, chính sách khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

 

 


Phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy chuyển đổi số

 


Chính sách phát triển nguồn nhân lực. Rà soát tổng thể, thực hiện đổi mới nội dung và chương trình giáo dục, đào tạo theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển; đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu. Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số. Có cơ chế khuyến khích và ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục và đào tạo, tạo ra sản phẩm phục vụ cho nền kinh tế số.

Chính sách phát triển các ngành và công nghệ ưu tiên. Tập trung phát triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo thông minh; tài chính - ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch số; công nghiệp văn hóa số; y tế; giáo dục và đào tạo.

Chính sách hội nhập quốc tế. Mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác về khoa học, công nghệ với các đối tác, đặc biệt là các nước đối tác chiến lược có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, đang đi đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chủ động tham gia mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu. Đẩy mạnh thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ nước ngoài và các đối tác quốc tế cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo, chuyển giao công nghệ.

Chính sách thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Tiên phong thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ trong các cơ quan đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm thống nhất, kết nối liên thông và đồng bộ. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thu thập, quản lý dữ liệu và giao dịch trên nền tảng Internet ở các cơ quan nhà nước. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Xây dựng, củng cố khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vững mạnh

 


Liên minh giữa công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nguồn sức mạnh và động lực để phát triển đất nước. Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ mới, cần củng cố hơn nữa khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, làm cơ sở để xây dựng giai cấp công nhân, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của toàn xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng, phát triển giai cấp công nhân.

 


Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác có vai trò trực tiếp trong giáo dục, vận động, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp và nâng cao ý thức chính trị của công nhân. Cần xây dựng và ứng dụng trong thực tiễn những mô hình về hoạt động công đoàn, những mô hình về hoạt động văn hóa tinh thần của công nhân... Công đoàn cơ sở ngoài việc bảo vệ quyền lợi, lợi ích của công nhân, cần phối hợp với doanh nghiệp tuyên truyền pháp luật lao động, giáo dục cho công nhân biết về quyền lợi và trách nhiệm của mình; động viên công nhân thực hiện tốt các quy định của pháp luật. Đảng ta yêu cầu, phải “Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay”[1].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.166. 

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân.


Khi nội dung lãnh đạo đã được xác định thì tất nhiên phải có sự đổi mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp với đặc điểm hoạt động của công đoàn và đội ngũ công nhân lao động. Phương thức lãnh đạo của Đảng là phương pháp và cách thức tiến hành lãnh đạo để đạt hiệu quả cao. Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân thông qua Nghị quyết đại hội, Nghị quyết của các uỷ đảng. Các nội dung trong nghị quyết của các cấp uỷ đảng phải bám sát thực tiễn tình hình chính trị - xã hội đất nước, thực tiễn hoạt động doanh nghiệp, đặc điểm hoạt động của công nhân và các tổ chức đại diện như công đoàn, nghiệp đoàn.

Vai trò lãnh đạo của Đảng còn được thể hiện ở việc tuyên truyền, vận động, thu hút tập hợp công nhân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng, những vấn đề đặt ra đối với công nhân và giai cấp công nhân. Nội dung lãnh đạo cần quan tâm những lợi ích thiết thân, trước mắt cũng như lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân, nhằm bảo đảm tính khoa học - thực tiễn Nghị quyết của Đảng. Hơn nữa, phải thể hiện rõ được tính triệt để trong đấu tranh loại trừ chủ nghĩa cơ hội, xét lại và các khuynh hướng sai trái dưới mọi hình thức trong giai cấp công nhân và phong trào công nhân, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng đi tới mục tiêu cuối cùng.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân không thể thiếu hoạt động kiểm tra, giám sát. Thông qua đó, các cấp uỷ đảng mới đánh giá được việc quán triệt nghị quyết của đảng đối với giai cấp công nhân và trách nhiệm, năng lực của các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân, mặt khác các cấp uỷ đảng kịp thời phát hiện những vấn đề phức tạp nảy sinh, từ đó chỉ đạo, điều chỉnh phát huy vai trò của công đoàn giải quyết hài hoà những vấn đề phức tạp đó. 

Tác động đối với y tế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thức tư

 


Với những tri thức và phương tiện hết sức hiện đại, con người ngày càng đi sâu khám phá cơ chế sinh học - xã hội của bản thân con người. Người ta đã có thể ngăn ngừa, loại trừ được nhiều bệnh tật hiểm nghèo, có thể thay thế từng bộ phận hay nhiều bộ phận trong cơ thể con người, có thể điều chỉnh được quá trình tái tạo ra các thế hệ người tương lai với những phẩm chất thể lực, trí tuệ tối ưu nhất. Công nghệ sinh học hiện đại có thể góp phần làm cho con người trở nên khỏe hơn, đẹp hơn và thông minh hơn. Tuy nhiên, xét từ khía cạnh đạo đức nhân văn, trong lĩnh vực y tế dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay đang còn nhiều vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết một cách thấu đáo khi áp dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ vào trong lĩnh vực y tế để không vi phạm đạo đức nghề nghiệp, lời thề chăm sóc sức khỏe người bệnh.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay giúp loài người tìm ra những phương pháp chữa bệnh mới, nâng cao sức khỏe và tuổi thọ con người. Mặt khác, nó cũng tác động tiêu cực khi các thành tựu y học được sử dụng để chống lại loài người, hủy hoại môi trường sống của con người.

Trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc hiện nay, các thế lực thù địch, phản động ra sức lợi dụng những thành tựu của y học, công nghệ sinh học nhằm hủy hoại con người, gây nguy hại đến sức khỏe con người. Điều rõ nhất là việc sản xuất và tàng trữ các loại vũ khí vi trùng gây bệnh cho con người, vũ khí hóa học giết người hàng loạt, phá hoại môi trường sống của con người.

Với những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại, con người ngày càng có khả năng tác động mạnh mẽ đến quá trình sinh học của bản thân con người thì càng phải chú ý đến mặt đạo đức xã hội của nó, tính phi đạo đức, phi nhân tính của khoa học.

Tác động đến giáo dục - đào tạo của cộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư


Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời cung cấp những điều kiện vật chất - kỹ thuật ngày càng tốt hơn để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo.

Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay đòi hỏi người lao động phải được đào tạo và tự đào tạo, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, kỹ năng nghề nghiệp và trình độ khoa học công nghệ. Nguồn lao động có trình độ khoa học công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp cao là nhân tố quan trọng, quyết định nhất để phát triển nền kinh tế tri thức của các quốc gia. Do vậy, thách thức cũng đặt ra đối với nội dung, chương trình, mô hình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đối với các quốc gia.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra những yêu cầu mới cao hơn đối với cải cách giáo dục, nhằm tạo lên ở con người khả năng thích ứng cao trước sự phát triển của khoa học và công nghệ. Điều này đặt ra yêu cầu cho giáo dục là cần phải đào tạo nguồn nhân lực có đủ chuyên môn để thích nghi được với môi trường kỹ thuật mới. Chính yêu cầu đó đã biến môi trường giáo dục vốn chỉ tập trung truyền tải những kiến thức hàn lâm thì nay đã đổi mới bằng việc cung cấp cho người học cả những kiến thức về kỹ năng bao gồm kỹ năng thực hành, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng phản biện... Tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong lĩnh vực giáo dục cũng buộc người học phải chủ động thay đổi và chủ động hơn trong việc học tập của mình.

Cũng do tính chất hoàn toàn mới mẻ của tiến bộ khoa học và công nghệ, nhiệm vụ giáo dục ngày nay không thể theo hướng biến con người thành đối tượng thụ động tiếp nhận kiến thức, mà phải làm cho họ trở thành chủ thể tích cực của giáo dục, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục của mỗi con người. Tự học trở thành nhu cầu bắt buộc đối với mỗi người. Tự học không chỉ ở trường lớp mà tự học còn ở xã hội.

Tuy nhiên, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tạo ra những tác động tiêu cực nhất định đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Đối với các quốc gia đang phát triển, việc chuyển đổi sang một nền giáo dục hiện đại đòi hỏi phải đồng bộ cả về nhận thức, định hướng chiến lược, phương châm, phương thức và cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm, trong khi tiềm lực của nền kinh tế chưa đủ khả năng đáp ứng. Điều đó có thể gây ra nguy cơ về sự tụt hậu trong giáo dục so với mặt bằng chung của thế giới. Trong từng nền giáo dục, cơ hội tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học và công nghệ hiện đại để phục vụ cho quá trình học tập của các đối tượng xã hội có sự khác nhau, dẫn đến nguy cơ về tình trạng bất công, bất bình đẳng về giáo dục, kéo theo nhiều hệ lụy xã hội tiêu cực khác.

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cho công nhân đáp ứng yêu cầu điều kiện mới.

 


Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta xác định: Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[1]. Nâng cao chất lượng đào tạo, dạy nghề cho công nhân là giải pháp vừa cơ bản, lâu dài, vừa là khâu đột phá nhằm phát triển trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, kỹ năng, tay nghề, tác phong làm việc công nghiệp, tính năng động và sức sáng tạo của công nhân. Muốn vậy, phải đổi mới giáo dục, đào tạo và dạy nghề, coi đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu và phải đi trước một bước. Trong đó, cần ưu tiên dạy nghề cho thanh niên nông thôn, trước khi bổ sung vào giai cấp công nhân. Vấn đề việc làm của người lao động trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động và gia đình họ, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội và an ninh chính trị.

Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục bằng các hình thức và nội dung thích hợp, nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, tinh thần dân tộc, ý thức công dân cho công nhân. Nâng cao tinh thần phấn đấu, rèn luyện, xây dựng tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động và ý chí quyết tâm vươn lên cho tập thể và bản thân từng công nhân.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.166. 

Đổi mới tổ chức, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân

 


Đổi mới tổ chức, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân, hướng vào những vấn đề thực tiễn đang đặt ra như: xu hướng phát triển của giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vấn đề trí thức hóa công nhân; công nhân tham gia sở hữu doanh nghiệp; mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; sự phân hóa và mối quan hệ trong nội bộ giai cấp công nhân; vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới; việc tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp; vai trò làm chủ của giai cấp công nhân, quan hệ giữa người sử dụng lao động và nguời lao động; mối quan hệ đoàn kết, hợp tác giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân các nước trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế; những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với giai cấp công nhân... Qua đó, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.

Bên cạnh đó, chú trọng giáo dục, tuyên truyền trong Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về vai trò, sứ mệnh lịch sử, truyền thống vẻ vang của giai cấp công nhân Việt Nam; nâng cao nhận thức chung về yêu cầu, trách nhiệm toàn Đảng và cả hệ thống chính trị, toàn xã hội chung tay xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh.

Quan điểm xây dựng, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

 


Trong điều kiện hiện nay, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết trung ương 6, khóa X, đó là: Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam phải gắn liền với xây dựng và phát huy sức mạnh của khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; chiến lược xây dựng giai cấp công nhân phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; tích cực đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, trí thức hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược; xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội, sự nỗ lực của mỗi công nhân.

Xây dựng, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam về số lượng, chất lượng, cơ cấu phù hợp

 


Đây là điều kiện rất quan trọng, đảm bảo cho họ là “lực lượng sản xuất hàng đầu” của nền sản xuất công nghiệp và đứng vững trên vũ đài chính trị thực hiện hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà dân tộc giao phó. Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là sản phẩm của tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nên số lượng và chất lượng ngày càng tăng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: Các giai cấp khác trong xã hội đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, trái lại giai cấp công nhân ngày càng phát triển. Đảng ta chủ trương đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI, càng đòi hỏi giai cấp công nhân phải không ngừng phát triển về số lượng, nâng cao trình độ về mọi mặt cả về phương diện học vấn, văn hóa, tay nghề, trình độ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ; họ phải nắm lấy và làm chủ “những vũ khí” (nền đại công nghiệp và tri thức khoa học của thời đại mới). Mặt khác, giai cấp công nhân Việt Nam phải đạt tới trình độ giác ngộ cao về chính trị, “mình là gì và cần phải làm gì với lịch sử”, phấn đấu “trở thành giai cấp của dân tộc” vươn lên lãnh đạo và cùng với dân tộc giải quyết các nhiệm vụ của lịch sử.