Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

Đặc trưng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

 


Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội cùng với sự tổng kết thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và các nước khác trên thế giới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 (Cương lĩnh năm 1991) đã nêu lên mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm 6 đặc trưng cơ bản sau:

Một là, do nhân dân lao động làm chủ;

Hai là, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;

Ba là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

Bốn là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;

Năm là, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;

Sáu là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Văn kiện Đại hội lần thứ X (4/2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển lý luận mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với 8 đặc trưng cơ bản, đó là: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”[1].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 68.

 

Quan niệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 


Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tổng thể hoạt động của cả hệ thống chính trị và nhân dân tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm từng bước thực hiện các mục tiêu, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với đặc điểm điều kiện đất nước trong từng thời kỳ nhất định.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình xác lập và triển khai thực hiện những chiến lược, sách lược của Đảng Cộng sản Việt Nam chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam và chương trình, kế hoạch hành động của các tổ chức chính trị - xã hội và sự tham gia tích cực của nhân dân để thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đề ra. Mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, các cách thức, biện pháp, các mục tiêu, phương hướng lại được bổ sung, phát triển để phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động, chuyển hóa liên tục, không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Đây là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Luôn kết hợp giữa nhiệm vụ xây và chống, lấy xây là chính, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu, nâng cao chất lượng đổi mới sáng tạo quốc gia

 


Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu. Triển khai băng thông rộng chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc. Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia. Hình thành hệ thống trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất. Hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định của Nhà nước và doanh nghiệp. Đầu tư trang bị các hệ thống thiết bị thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ dữ liệu công. Đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia.

Chính sách phát triển và nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia. Cơ cấu lại toàn diện hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ công lập. Xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia làm nền tảng cho việc ứng dụng và phát triển các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong sản xuất và đời sống. Tạo lập đồng bộ và kịp thời khung pháp lý và hệ thống chính sách để tạo sự phát triển đột phá đối với các khu công nghệ cao.

Đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, hoàn thiện thể chế tạo điều kiện thuận lợi trong hội nhập quốc tế

 


Đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực và có hiệu quả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành.

Hoàn thiện pháp luật, trước hết là pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh; xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo. Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo hộ và khai thác hiệu quả, hợp lý các tài sản trí tuệ do Việt Nam tạo ra; khuyến khích thương mại hóa và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối với các sáng chế tại Việt Nam trên cơ sở tuân thủ pháp luật trong nước và bảo đảm lợi ích an ninh quốc gia. Hoàn thiện pháp luật, chính sách về tài chính - tiền tệ, thanh toán điện tử, quản lý thuế và các dịch vụ xuyên biên giới phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số. Hoàn thiện chính sách đặt hàng sản xuất và mua sắm công đối với các sản phẩm công nghệ số do Việt Nam sản xuất. Ban hành các chính sách hạn chế các tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng và triển khai Chiến lược quốc gia về phát triển các doanh nghiệp công nghệ, ưu tiên phát triển các doanh nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ cao thực hiện thiết kế, sáng tạo và sản xuất tại Việt Nam.

 

Tăng cường liên kết, hợp tác trong nước và hội nhập quốc tế để phát triển khoa học - công nghệ.

 


 Trong đó cần học tập kinh nghiệm quản lý khoa học và công nghệ của các nước đi trước như Hàn Quốc, Singapore… Thay đổi về tư duy cũng như chiến lược đầu tư về khoa học và công nghệ, tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào tiền vốn, khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ làm gia công sang nền kinh tế phát triển dựa trên sáng tạo, công nghệ cao và nguồn nhân lực có chất lượng mà tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mang lại.

Hình thành một số trung tâm nghiên cứu khoa học kết nối với các doanh nghiệp thực hiện chuyển giao kết quả nghiên cứu, xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc phát triển liên tục thành truyền thống ở các trường đại học, tập trung nguồn nhân lực tạo ra một “Điện Biên Phủ” trong sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại.

Xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ khoa học - công nghệ có tác động và đóng góp quyết định cho phát triển kinh tế - xã hội. Trọng tâm là quan tâm đầu tư những lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ mới, khâu then chốt của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.

Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính.

 


Trong đó Nhà nước phải có chính sách lựa chọn những công nghệ thích hợp với điều kiện của ta. Có cơ chế khuyến khích các nhà khoa học làm việc, sáng tạo, cuộc sống ổn định để họ toàn tâm, toàn ý làm khoa học. Tạo điều kiện xây dựng môi trường nghiên cứu thuận lợi, có tính liên tục và kế thừa nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học và viện nghiên cứu. Phát triển năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ, hình thành những tập thể nghiên cứu mạnh có năng lực nghiên cứu ở trình độ quốc tế; nuôi dưỡng tài năng nghiên cứu, góp phần đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ…

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”[1]. Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “Có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ”[2].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.78.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.140.

Tác động đến sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp của cách mạng công nghiệp lần thứ tư

 


Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi dẫn đến sự thay đổi cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội - giai cấp. Xu hướng giảm bớt lao động nông nghiệp, tăng thêm lực lượng lao động công nghiệp (đã diễn ra trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa) do tác động của khoa học và công nghệ diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn. Trong nông nghiệp, tính chất lao động và trình độ kỹ thuật cũng đạt tới trình độ hiện đại. Đặc biệt cuộc cách mạng trong lĩnh vực sinh học, kỹ thuật gen và việc ứng dụng ngày càng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ vào nông nghiệp đã cho phép từng bước xóa bỏ sự khác biệt giữa lao động công nghiệp và lao động nông nghiệp.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tốc độ phát triển của các ngành mà đồng thời còn làm cho hoạt động phân công lao động trong xã hội ngày một sâu sắc hơn, từ đó dẫn đến hệ quả của việc phân chia ngành kinh tế thành nhiều ngành nhỏ, có nhiều ngành nghề mới xuất hiện cùng với nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Kết quả cuối cùng là làm cho cơ cấu kinh tế được thay đổi theo chiều hướng tích cực. Cơ cấu ngành nghề, từ những ngành nghề cổ truyền chuyển thành các ngành nghề có ưu thế, có sự độc quyền cao, bảo đảm lợi nhuận cao, nhất là kinh tế số.

Việc áp dụng những công nghệ hoàn toàn mới đã tạo điều kiện cho sản xuất phát triển theo chiều sâu, giảm hẳn tiêu hao năng lượng và nguyên nhiên vật liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất. Các ngành dịch vụ phát triển như: dịch vụ sản xuất, dịch vụ công nghiệp, dịch vụ du lịch (ngành công nghiệp không khói).

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay làm thay đổi cơ cấu giai cấp công nhân cả về số lượng, chất lượng, tính chất lao động và mức thu nhập. Công nhân lao động trực tiếp giảm, lao động gián tiếp tăng; trình độ ngày càng được nâng cao, như ở Nhật Bản 90% công nhân có trình độ đại học; từ lao động cơ bắp chuyển thành lao động kỹ thuật, lao động trí tuệ; xuất hiện nhiều loại hình công nhân như: công nhân áo trắng, công nhân áo xanh, công nhân áo vàng Về số lượng: thế kỷ XIX trên thế giới có 19 triệu công nhân, nay gần 2 tỷ công nhân.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay làm cho lao động trí óc, lao động chân tay, nông thôn và thành thị xích lại gần nhau. Do đó tỉ lệ thất nghiệp và nguy cơ thất nghiệp của công nhân cũng tăng lên. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua của các nước Mỹ, Nhật Bản, Anh, Châu Âu và Trung Quốc, số người thất nghiệp lên tới hàng chục triệu người; phân hóa giàu nghèo giữa các giai cấp, tầng lớp diễn ra nhanh chóng hơn, làm cho số dân ở đô thị và các khu công nghiệp gia tăng nhanh chóng kéo theo hàng loạt các vấn đề cần phải giải quyết về công ăn việc làm, thu nhập.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo: Sự phát triển của đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa ngày càng làm phá sản hàng loạt những người sản xuất nhỏ, ngày càng tập trung tư liệu sản xuất vào tay các nhà tư bản, làm cho đội ngũ những người lao động làm thuê ngày càng đông.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không giúp cho xã hội tư bản khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản, vốn có của nó, trái lại càng làm cho những mâu thuẫn đó tích tụ và ngày càng gay gắt hơn. Ngược lại, vấn đề thất nghiệp cũng đang là một vấn đề xã hội phức tạp ở các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng mục đích và bản chất của chủ nghĩa xã hội là hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người lao động. Sự tồn tại những người thất nghiệp là do trình độ thấp kém về kinh tế, tài chính chưa đủ điều kiện tạo ra nhiều chỗ làm việc để thu hút hết người có sức lao động, mặt khác cũng phải tính đến cả sự yếu kém trong việc quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước và các ngành kinh tế mà chủ nghĩa xã hội đang từng bước khắc phục, giải quyết. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, việc ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại cho phép rút ngắn thời gian lao động, tăng thêm chỗ làm việc, giải quyết triệt để vấn đề thất nghiệp và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân lao động.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn tác động sâu sắc đến cơ cấu dân cư nông thôn và đô thị theo xu hướng tăng nhanh dân số đô thị. Điều đó cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội phải giải quyết thỏa đáng hiện nay.

Bản chất của công nghiệp lần thứ tư

 


Bản chất của công nghiệp lần thứ tư là sự hình thành của thế giới số, vốn dĩ là sự phản ảnh sinh động, tồn tại song song với thế giới vật lý. Sự kết nối giữa hai thế giới vật lý và thế giới số tạo ra những tác động “mang tính cách mạng” trên mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của loài người. Số hóa và dữ liệu hóa ngày nay không chỉ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp mà làm thay đổi một cách căn bản mô hình kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thời đại của công nghiệp lần thứ tư, toàn cầu hóa trở nên sâu sắc hơn, sự thay đổi diễn ra với phạm vi, cường độ và tốc độ lớn hơn và khó dự báo hơn, các ngành công nghiệp được định hình lại xoay quanh các nhu cầu của con người, vì lợi ích và vì mục tiêu tối thượng là hạnh phúc của con người.

Công nghệ số, công nghệ sinh học và vật lý là ba nền tảng chủ đạo tạo nên cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Những yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong cuộc cách mạng này sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tập trung vào nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Lĩnh vực Vật lý với thành tựu chủ yếu là robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của các nhà máy thông minh. Trong các nhà máy này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý. Với Internet của vạn vật, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực, và thông qua Internet của các dịch vụ thì người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này.

 Có thể nói, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ tạo ra “môi trường cộng sinh” giữa người và robot mà còn tạo ra “môi trường cộng sinh” giữa thế giới ảo và thế giới thực. So sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển với tốc độ ở cấp số nhân chứ không phải cấp số cộng. Hơn nữa, nó đang làm biến đổi mọi nền công nghiệp ở mọi quốc gia. Bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này tạo nên sự biến đổi của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị.

 

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất

 


 Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất được đánh dấu bằng sự ra đời của động cơ hơi nước do James Watt phát minh ra lần đầu tiên vào năm 1784. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại - kỷ nguyên sản xuất cơ khí, cơ giới hóa. Nó khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, tạo nên bước phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền kinh tế. Nhờ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự phát triển nhanh chóng và có quy mô ngày càng lớn. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen từng nói: “Trong chưa đầy một thế kỷ, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng sản xuất nhiều hơn toàn bộ lực lượng sản xuất của loài người đã tạo ra trước đó”[1].



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Tập 4,“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.603.

Quan niệm về cách mạng công nghiệp

 


       

Cách mạng công nghiệp là sự biến đổi mang tính đột phá của lĩnh vực sản xuất công nghiệp dựa trên thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, tạo nên những biến đổi căn bản trong cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội, trong tính chất và phân công lao động xã hội.

Xem xét từ góc độ chính trị xã hội, cách mạng công nghiệp là sự cải biến căn bản của lực lượng sản xuất, là quá trình biến tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong tác phẩm “Phê phán khoa kinh tế chính trị” được viết từ những năm 1857-1858, C.Mác đã dự đoán: “Đến một trình độ phát triển nào đó thì “tri thức xã hội phổ biến” (khoa học) biến thành “lực lượng sản xuất trực tiếp””[1]. Đó là khi tri thức khoa học được “vật hóa” thành công cụ sản xuất, như máy móc, trang thiết bị kỹ thuật… “Sức mạnh vật hóa của tri thức” mà C.Mác đã nói đến sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra những đột phá mang tính cách mạng của hoạt động sản xuất, đồng thời thúc đẩy sự vận động không ngừng của đời sống chính trị, xã hội.



[1] C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Tập 46, “Phê phán khoa kinh tế chính trị” (1859), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.372-373.

Chế độ ta “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo”.

 


Thể chế chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là bộ máy quyền lực của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, do nhân dân tạo ra để quản lý toàn bộ xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhân dân, toàn dân tộc. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải thật sự là nhà nước dân chủ, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, chống mọi biểu hiện chuyên quyền độc đoán, quan liêu, lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đề cao tính tối thượng, nghiêm minh của pháp luật, thực hiện tất cả mọi tổ chức và công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện tập trung ý chí, lợi ích, quyền lực của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và lợi ích toàn dân tộc.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đảm bảo cho nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, nhà nước dân chủ thực sự, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; ngăn ngừa và loại trừ mọi quan điểm và hành vi sai trái làm tổn hại đến bản chất, tính chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Chế độ ta là chế độ “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”.

 


Một mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ sự áp bức dân tộc, phấn đấu cho quyền được sống trong hòa bình, tự do, hạnh phúc và bình đẳng của mỗi dân tộc trong cộng đồng dân tộc và trong quan hệ quốc tế. Sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cũng phụ thuộc một phần rất quan trọng vào việc giải quyết vấn đề dân tộc.

Vấn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Dân tộc là vấn đề lâu dài, ở một nước có nhiều dân tộc thì các dân tộc đều được bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đoàn kết giúp đỡ nhau để cùng phát triển cả về chính trị, kinh tế, xã hội và tiến bộ về mọi mặt. Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa đề ra đường lối đúng đắn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dân tộc đều phát triển và tiến bộ, luôn tỉnh táo, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xuyên tạc, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chế độ ta là chế độ “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”

 


Chủ nghĩa xã hội là xã hội vì con người và từ con người, là chế độ xã hội tôn trọng và không ngừng phát huy vai trò của nhân tố con người. Nội dung nêu ra trong đặc trưng này thể hiện bản chất đó của chủ nghĩa xã hội. Xét về quyền con người, mọi cá nhân trong xã hội xã hội chủ nghĩa có những quyền cơ bản nhất: quyền bình đẳng, tự do, không bị áp bức bóc lột và bất công. Đó là sự phân biệt về chất với các xã hội bóc lột, là nguyện vọng đầu tiên của con người trên con đường tiến tới giải phóng con người. Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”[1].

Xã hội xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện những nguyện vọng và năng lực cá nhân. Đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra: xã hội xã hội chủ nghĩa là một liên hợp xã hội kiểu mới “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[2].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 214-215.

[2] C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.628.

Chủ nghĩa xã hội là chế độ “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”


Khái niệm nền văn hóa tiên tiến cần được hiểu theo nghĩa rộng, đó là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Các lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần như văn học nghệ thuật, giáo dục - khoa học, trí thức và phẩm chất đạo đức, ý thức làm chủ và năng lực làm chủ của con người Việt Nam... phát triển ở trình độ tiên tiến. Nền văn hóa tiên tiến nhưng không tách rời bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc không chỉ là hình thức mà còn là nội dung. Phải làm sao chăm lo giữ gìn và phát triển bản sắc tốt đẹp đó.

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chính là làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ địa vị chủ đạo trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc trong nước, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, hành vi phản tiến bộ, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Khẳng định quan điểm của Đảng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng”[1]. Đó là một nền văn hóa “phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[2].



[1] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.163.

[2] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.164-165. 

Chủ nghĩa xã hội là chế độ “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.

 


Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa. Với tính cách là chế độ xã hội tiên tiến, là nấc thang sau chủ nghĩa tư bản trong tiến trình phát triển tất yếu khách quan của lịch sử loài người, chủ nghĩa xã hội ở giai đoạn chín muồi nhất định phải có nền kinh tế phát triển cao. Tất nhiên, đó phải là cơ sở kinh tế để chủ nghĩa xã hội phát triển trên cơ sở của chính nó. Điều này được xác định trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần tập trung phát triển lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ hiện đại, lấy phát triển kinh tế là trung tâm; do đó, chủ nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, làm ra nhiều của cải, không ngừng nâng cao mức sống của các tầng lớp nhân dân.

Nền kinh tế phát triển cao đòi hỏi phải dựa trên lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại; đồng thời, phải có quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu chỉ nói một chiều rằng chủ nghĩa xã hội là xã hội có lực lượng sản xuất phát triển cao mà không nói đến quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì như vậy sẽ phiến diện, không phân biệt được chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản.

Sự phát triển của quan hệ sản xuất là một tất yếu của toàn cầu hóa, một mặt, mở rộng hoạt động của nó thông qua ngoại giao phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng,… đồng thời, khẳng định được uy tín, vị thế, tiềm lực, cơ đồ của quốc gia – dân tộc trên trường quốc tế. Phát triển quan hệ sản xuất phù hợp không chung chung mà phải có bước đi, hoàn thiện thích hợp được cụ thể hóa vào các chiến lược quốc gia, vừa bảo đảm vừa tạo điều kiện phát triển đất nước, vừa bảo đảm tính dẫn dắt làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

Chủ nghiã xã hội là chế độ “Do nhân dân làm chủ”

 


Dân chủ là khát vọng của con người, của mỗi dân tộc. Làm chủ, được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội và sự phát triển xã hội là do con người, do nhân dân. Cho nên “nhân dân làm chủ” là đặc trưng có ý nghĩa hết sức quan trọng hàng đầu trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Dân chủ” trong đặc trưng nêu trên chính là nền dân chủ của xã hội vận hành theo chế độ và nguyên tắc dân chủ. Đồng thời, chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện xã hội “do nhân dân làm chủ”.

Để có một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; cán bộ, công chức phải là “công bộc” của nhân dân, “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[1]. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”[2], hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi cán bộ phải “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”. Cán bộ phải noi gương trước quần chúng nhân dân, thực sự là con người mới xã hội chủ nghĩa.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.95.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.95-96.

 

 

Ý nghĩa nghiên cứu những biến đổi của thời đại trong giai đoạn hiện nay đối với Quân đội nhân dân Việt Nam

 


Nghiên cứu những biến đổi của thời đại trong giai đoạn hiện nay là cơ sở để nâng cao nhận thức lý luận cho cán bộ, chiến sĩ về thời đại hiện nay, những yếu tố đã và đang tác động đến công cuộc đổi mới, sự nghiệp xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nâng cao kỹ năng tư duy chính trị, khả năng nhận định, đánh giá về tình hình thời đại, thời cuộc…, từ đó củng cố lập trường giai cấp công nhân, tin tưởng vào sự tất thắng của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc nắm vững những vấn đề lý luận về thời đại là cơ sở để mọi cán bộ, chiến sĩ hiểu được cơ sở khoa học tất yếu của sự lựa chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta.

Vì vậy, quân đội phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phòng chống có hiệu quả “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình, ổn định của đất nước. Đồng thời, Quân đội ta phải làm tốt chức năng của đội quân chiến đấu, lao động sản xuất và công tác. Quân đội ta cần phải chăm lo nâng cao sức mạnh chiến đấu, nâng cao năng lực công tác vận động quần chúng và hoạt động thực tiễn.

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, quân đội phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại; tăng cường an ninh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa tư tưởng; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; chủ động làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch; xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở. Tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh, dựa vào xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó các lực lượng vũ trang làm nòng cốt; kết hợp với thực hiện đồng bộ đường lối đối ngoại đúng đắn, tạo mối quan hệ quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

 Cán bộ, chiến sĩ quân đội càng cần phải là những người có nhận thức sâu sắc nhất, niềm tin vững vàng, đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đồng thời, phải ra sức học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, bản chất giai cấp công nhân; hiểu biết sâu sắc về thời đại hiện nay.

Nhận thức rõ nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng và mâu thuẫn của thời đại trong giai đoạn hiện nay. Nắm vững quan điểm đường lối, nghị quyết của Đảng về vấn đề thời đại ngày nay. Xác định và làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong tình hình mới. Ra sức xây dựng quân đội, đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy tinh nhuệ về chính trị làm cơ sở. Sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường

 


Các dân tộc ngày càng hiểu rõ giá trị của độc lập, tự chủ, tự cường. Bài học thực tiễn sâu sắc là mất độc lập, tự chủ, đất nước thường rơi vào cảnh đói nghèo, bất công, vị thế trên trường quốc tế giảm sút... Đồng thời, những tấm gương về một dân tộc như Việt Nam, Cu Ba... đã chủ động, sáng tạo đấu tranh thắng lợi các nước đế quốc giàu mạnh để giành độc lập, tự chủ và phát triển đang cổ vũ cho các dân tộc khác noi theo.

Hiện nay, các dân tộc đang tích cực đấu tranh đòi độc lập, tự chủ chống lại mưu đồ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Ngay cả các nước tư bản là đồng minh của Mỹ cũng muốn khẳng định mình, kiên quyết chống lại sự can thiệp, áp đặt hoặc khống chế của Mỹ. Tuy gặp nhiều khó khăn, song các nước khác vẫn quyết tâm chống lại các hình thức can thiệp, áp đặt của các nước tư bản, đòi thiết lập trật tự thế giới mới công bằng, bình đẳng, giữ gìn độc lập tự chủ. Vì vậy, “Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”[1].



[1] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.21.

Dân chủ hóa trong thời đại ngày nay

 


Dân chủ hóa là quá trình biến đổi chính trị và xã hội nhằm thiết lập chế độ dân chủ. Đó là quá trình biến đổi, quá độ từ chế độ phi dân chủ sang chế độ dân chủ, quá trình thực hiện dân chủ trên thực tế trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quan hệ quốc tế. Đó là sự quá độ từ trạng thái chưa dân chủ sang dân chủ, từ dân chủ trình độ thấp lên dân chủ trình độ cao hơn, từ dân chủ chưa hoàn thiện sang dân chủ hoàn thiện.

 Dân chủ hóa là một xu thế lớn hiện nay của thời đại, diễn ra ở các cấp độ, các quốc gia trên thế giới. Dân chủ hóa ở các nước phương Tây hiện nay gồm: Cải cách nhà nước, xây dựng nhà nước dân chủ mới; thực hiện đường lối trung dung cấp tiến - dân chủ; củng cố gia đình dân chủ; dân chủ hóa chính trị toàn cầu. Hiện nay dân chủ hóa các vấn đề quốc tế cũng là một xu thế lớn. Tất cả các vấn đề quốc tế đều phải được các nước đưa ra bàn bạc và quyết định theo đa số, theo quy định của luật pháp và những thông lệ quốc tế.

Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh

 


Thế giới hiện nay là thế giới toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; là cả một không gian mở, đan xen lợi ích, tùy thuộc lẫn nhau. Một khi khủng hoảng kinh tế ở một khu vực hoặc một nước lớn kéo theo khủng hoảng toàn cầu. Những vấn đề toàn cầu, nhất là một số vấn đề an ninh phi truyền thống buộc cả cộng đồng quốc tế phải chung tay giải quyết. Sự biến đổi khí hậu khác thường, thiên tai nghiệt ngã đang diễn ra rất đáng lo ngại. Sự phát triển không thể ngăn cản của các loại vũ khí giết người khủng khiếp cũng là yếu tố làm cho bất kỳ giới cầm quyền nào, cho dù là nước xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa cũng phải tính toán kỹ vấn đề chiến tranh hay hòa bình. Như vậy, cùng với việc đổi mới nhận thức của toàn nhân loại, đặc biệt là của giới lãnh đạo các nước về trách nhiệm chung đối với sự phát triển thế giới, những nhân tố khách quan nêu trên vừa thúc đẩy, đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho việc cùng tồn tại và hợp tác cùng phát triển đối với tất cả các nước.

Trong khi nhận rõ sự hợp tác giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hiện nay là khá toàn diện, thì không thể quên rằng những mâu thuẫn giữa hai chiều hướng phát triển này vẫn chứa đựng mâu thuẫn vốn có. Các thế lực hiếu chiến và thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu, thủ đoạn muốn xóa sổ chủ nghĩa xã hội. “Diễn biến hòa bình” là một trong những chiến lược tổng thể của chủ nghĩa đế quốc nhằm thực hiện mục tiêu đó. Tất cả những thủ đoạn mà các thế lực đế quốc đã và đang sử dụng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, cũng như đối với giai cấp những người lao động trên toàn thế giới cho thấy, cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay không kém phần gay gắt, quyết liệt và phức tạp. Bởi vậy, trong điều kiện mở cửa, hội nhập với thế giới, thu hút vốn đầu tư, công nghệ và hợp tác giao lưu với các nước tư bản, các nước xã hội chủ nghĩa phải luôn kiên định bảo vệ nền tảng tư tưởng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, hợp tác cùng phát triển nhưng luôn cảnh giác và sẵn sàng đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và mục tiêu lý tưởng của mình.