Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

 

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ VÀ ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG HIỆN NAY


Trong lãnh đạo, điều hành Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua công tác cán bộ của Đảng. Theo Người, đây là một trong những cách thức hiệu quả để kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước, nhất là đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước. Bài viết phân tích quan điểm này của Người và chỉ ra những giá trị, định hướng cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam trong tình hình mới.

Kiểm soát quyền lực nhà nước (KSQLNN) theo nghĩa chung nhất, là một hệ thống những hoạt động được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau trong việc sử dụng các công cụ, phương tiện và biện pháp phù hợp để xem xét, giám sát, phát hiện, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực của cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực nhà nước. Trong khoa học chính trị, KSQLNN được đề cập đến với nhiều phương thức khác nhau, song tựu trung lại có hai phương thức cơ bản là kiểm soát quyền lực bên trong nhà nước và kiểm soát quyền lực bên ngoài nhà nước.

Trong phương thức kiểm soát quyền lực bên ngoài nhà nước, Hồ Chí Minh đã quan tâm và đưa ra nhiều quan điểm, chỉ đạo thực tiễn để kiểm soát có hiệu quả quyền lực nhà nước thông qua công tác cán bộ. Từ nghiên cứu lý luận và từ thực tiễn, Hồ Chí Minh thấu hiểu quyền lực luôn có xu hướng bị người được ủy quyền lạm dụng. Do đó, để ngăn ngừa tình trạng cán bộ lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, lãng phí, quan liêu, Hồ Chí Minh coi trọng KSQLNN bằng cách làm tốt các khâu, các bước trong quy trình công tác cán bộ.

Đó là toàn bộ hoạt động của các chủ thể, lực lượng sử dụng các cách thức, phương tiện khác nhau để kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn ngừa việc lạm dụng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn tác động vào quy trình công tác cán bộ, bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ

Thứ nhất, hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn đúng cán bộ

Hồ Chí Minh cho rằng, đây là nội dung đầu tiên để KSQLNN trong công tác cán bộ. Người lý giải, hiểu cán bộ, xem xét, đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn đúng cán bộ một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác, những người yếu kém sẽ bị lòi ra. Qua bước này, sẽ giúp cán bộ khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân, lạm quyền, lộng quyền kéo dài. Theo Người, hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có những yêu cầu riêng, bảo đảm tính khách quan, chính xác và giúp ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực. Người viết: “Từ trước đến nay, Đảng ta chưa thực hành cách thường xem xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hóa cũng lòi ra”.

Trong đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh luôn dựa trên phân tích, nhận định đúng tình hình và đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của cán bộ, biết được chỗ mạnh, chỗ yếu, sở trường của cán bộ. Do đó, Người đã sử dụng cán bộ rất đắc dụng, qua đó không chỉ đem lại thành công cho cách mạng Việt Nam mà còn giúp ngăn ngừa cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cho cá nhân.

Đối với người được giao phụ trách công tác cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết mình”, tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm của mình, để “Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”. Người quan niệm, làm được như vậy thì mới không phạm những căn bệnh: “1) Tự cao tự đại, 2) Ưa người ta nịnh mình, 3) Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người, 4) Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau”. Đây là cách thức rất hiệu quả, giúp cho việc lựa chọn khách quan, không bị rơi vào tình trạng tùy tiện, cá nhân chủ nghĩa mà kết quả sẽ làm cho lạm dụng quyền lực gia tăng.

Do vậy, để hạn chế và ngăn ngừa sự tùy tiện trong đánh giá cán bộ, Người lưu ý khi xem xét cán bộ phải toàn diện cả ưu, khuyết điểm, cả lịch sử cán bộ để đánh giá đúng cán bộ, giúp cán bộ khắc phục hạn chế để không rơi vào lạm dụng quyền lực. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”.

Hồ Chí Minh chú ý đến lựa chọn đúng cán bộ. Theo Người, việc lựa chọn đúng cán bộ có tác dụng nâng cao hiệu quả KSQLNN nhờ phát huy tốt phẩm chất và năng lực của cán bộ. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu thực hiện tốt việc lựa chọn cán bộ theo bốn nội dung: “a) Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh. b) Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, thì dân chúng mới tin cậy cán bộ đó là người lãnh đạo của họ. c) Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn... d) Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”.

Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ

Để KSQLNN trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ. Đây là một công việc quan trọng, tiến hành thường xuyên, là biện pháp ngăn ngừa tình trạng cán bộ lạm quyền, lộng quyền, tham ô, lãng phí, quan liêu. Bởi theo Hồ Chí Minh những căn bệnh này đều do cán bộ thiếu lý luận, thiếu chuyên môn hoặc thiếu trách nhiệm gây ra.

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Hồ Chí Minh xem là “công việc gốc của Đảng”. Do đó, để hoạt động này có hiệu quả trong ngăn ngừa tha hóa quyền lực, Người yêu cầu nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải tập trung vào nâng cao trình độ lý luận, văn hóa, chuyên môn cho cán bộ. Trong đào tạo, bồi dưỡng về lý luận, Người thường nhắc cán bộ học thì phải hiểu bản chất khoa học, cách mạng của học thuyết Mác - Lênin, đó là một học thuyết mở chứ không phải nhất thành bất biến, và học phải quán triệt tinh thần vận dụng vào giải quyết công việc thực tế của nước ta chứ không phải học một cách giáo điều, kinh viện, áp dụng một cách máy móc.

Đề cập đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về trình độ chuyên môn, Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi cán bộ phải biết một nghề để sinh hoạt, ai lãnh đạo trong lĩnh vực nào phải biết chuyên môn về lĩnh vực ấy. Để đáp ứng điều đó, trong công tác huấn luyện “Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc ấy”. Theo Người, nội dung huấn luyện chuyên môn gồm: “1. Điều tra: tình hình có quan hệ với công tác của mình. Thí dụ: môn quân sự, thì điều tra, phân tách, nghiên cứu rõ ràng tình hình của địch, của bạn, của ta, chọn những điểm chính làm tài liệu huấn luyện cho cán bộ. 2. Nghiên cứu: những chính sách, chỉ thị, nghị quyết. Thí dụ: Cán bộ về môn tài chính, phải hiểu rõ chính sách tài chính và những nghị quyết về tài chính của Chính phủ”.

Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cao đối với đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa. Người quan niệm đào tạo văn hóa là yêu cầu rất quan trọng đối với cán bộ, đặc biệt với những cán bộ còn kém văn hóa. Người xem đó là nền tảng để phát triển tri thức, là cơ sở để nâng cao trình độ mọi mặt của người cán bộ; đồng thời, giúp cán bộ khắc phục tình trạng kém hiểu biết nên lạm dụng quyền lực, mà không biết bản chất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh, nếu cán bộ không nắm được những kiến thức thông thường, sẽ rất khó khăn trong nghiên cứu lý luận hoặc học tập chuyên môn, nghiệp vụ và không đủ năng lực để tự kiểm soát quyền lực được giao.

Để nâng cao hiệu quả KSQLNN, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nâng cao tinh thần trách nhiệm cho mỗi cán bộ. Đây là vấn đề rất quan trọng giúp Đảng ta kiểm soát tốt hoạt động của các cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước, và thông qua đó ngăn ngừa tận gốc tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu. Vì vậy, Người yêu cầu nâng cao tinh thần trách nhiệm, không chỉ khẩu hiệu chung chung, mà phải xây dựng thành phong trào sâu rộng ở các cấp, các ngành, nhất là đối với công việc liên quan đến nắm giữ về kinh tế, tài chính. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, ngày 24-7-1962, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “từ nay, chúng ta bắt đầu mở một cuộc vận động “Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu””.

Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả KSQLNN thông qua công tác cán bộ, Người yêu cầu các cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo đứng đầu các cấp, các ngành nói riêng phải luôn nêu gương sáng về đạo đức, về tác phong, về ý chí phấn đấu vươn lên: “các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng”.

Thứ ba, về bố trí, sử dụng cán bộ

Để hạn chế tình trạng cán bộ bị quyền lực tha hóa, trong bố trí, sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh nêu quan điểm “khéo dùng cán bộ” và “dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Đây là cách dùng cán bộ hiệu quả, vì khi dùng đúng người sẽ phát huy được năng lực, nhiệt huyết của cán bộ, qua đó ngăn ngừa tình trạng lạm dụng chức quyền của cán bộ để đạt lợi ích cá nhân. Nội dung này được Hồ Chí Minh bàn tập trung trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (tháng 10-1947). Người viết: “Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tùy chỗ mà dùng được”.

Hồ Chí Minh phê bình những biểu hiện không biết tùy tài mà dùng người. Đồng thời, Người phê bình nghiêm khắc tệ “kéo bè, kéo cánh” trong công tác cán bộ. Theo Người, tệ này phát sinh từ bệnh bè phái, ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Hậu quả của tình trạng này sẽ làm cho quyền lực nhà nước không được kiểm soát, không phục vụ lợi ích nhân dân, dân tộc, mà rơi vào tay số ít người.

Để khắc phục nguy cơ trên, trong bố trí, sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu khi cất nhắc một cán bộ, phải xem xét toàn diện từ mối quan hệ với quần chúng, có năng lực, sở trường gì để đặt công việc cho thích hợp, tránh sử dụng cán bộ mà không dựa trên khả năng của cán bộ. Do đó, Người phê phán những bệnh: “1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực. 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình”.

Những chứng bệnh này không chỉ làm tổn hại uy tín, thanh danh của Đảng, mà còn tổn hại danh dự của người lãnh đạo; làm cho hiệu quả công việc ngày càng đi xuống, bởi khuyết điểm ngày càng nhiều do quyền lực không được kiểm soát hiệu quả. Theo đó, Hồ Chí Minh yêu cầu trong cách dùng cán bộ cần có lòng độ lượng, có tinh thần rộng rãi, có tính chịu khó dạy bảo, có sự sáng suốt, có thái độ vui vẻ, thân mật để phát huy hiệu quả công việc trên cơ sở tùy tài mà dùng người; đồng thời hướng vào thực hiện tốt mục đích: “khéo dùng cán bộ, cốt để thực hành đầy đủ chính sách của Đảng và Chính phủ”.

Thứ tư, “phải có gan cất nhắc cán bộ”, có chính sách đãi ngộ cán bộ

Theo Hồ Chí Minh, “cất nhắc cán bộ” và chính sách cán bộ có ý nghĩa quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu quả KSQLNN. Vì khi làm tốt khâu này, sẽ sử dụng và phát huy tài năng, động viên cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ; khắc phục cán bộ rơi vào tình trạng lạm dụng quyền lực, hoặc thiếu phẩm chất, năng lực dẫn đến bị quyền lực tha hóa. Do vậy, Người cho rằng, Đảng phải có chính sách đúng đắn để “chiêu hiền đãi sĩ”, “cầu người hiền tài” cho đất nước. Người chỉ rõ: “Phải có gan cất nhắc cán bộ” và “Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.

Hồ Chí Minh lưu ý, phải xem xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt phải theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra cán bộ đó; nếu không như thế thì hỏng việc. Người nhấn mạnh: “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy”(14). Theo đó, Người yêu cầu khi đã xem xét kỹ lưỡng thì phải sáng suốt cất nhắc cán bộ đó. Điều này, được Người lý giải: “trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”.

Hồ Chí Minh yêu cầu phải có chính sách quan tâm, chăm lo cán bộ, việc này có tác dụng và ý nghĩa to lớn, nhằm tạo ra động lực vật chất, tinh thần để nâng cao chất lượng công việc của đội ngũ cán bộ. Người khẳng định: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Theo Hồ Chí Minh, thực hiện chính sách đối với cán bộ cần chú ý đến các nội dung: hiểu biết cán bộ; khéo sử dụng cán bộ; cất nhắc cán bộ cho đúng; thương yêu cán bộ; bảo đảm tiền lương cho cán bộ; phê bình cán bộ. Người lưu ý các cấp ủy đảng cần khắc phục tình trạng “các cấp, các ngành phụ trách lại chưa quan tâm đúng mức đến vật chất và tinh thần của các cô, các chú, chưa làm đúng như Đảng và Chính phủ đã quy định”. Nếu để tình trạng đó kéo dài, có thể làm cho cán bộ nảy sinh tư tưởng lợi ích cá nhân dẫn đến lạm quyền, lộng quyền. Do vậy, dù trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Người đặc biệt lưu ý chế độ lương bổng cho cán bộ cùng với các lực lượng khác trong xã hội, để không chỉ cải thiện đời sống cán bộ mà còn giúp cán bộ tránh bị quyền lực tha hóa.

Thứ năm, kiểm tra, giám sát và kỷ luật cán bộ

Kiểm tra, giám sát và kỷ luật cán bộ được Hồ Chí Minh xác định là khâu quan trọng để KSQLNN trong toàn bộ các khâu của công tác cán bộ. Theo Người, công tác kiểm tra, giám sát cán bộ góp phần phát hiện và giúp đỡ cán bộ, cơ quan nhà nước sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, từ đó, thực thi hiệu quả quyền lực được nhân dân ủy quyền. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp ủy đảng phải tăng cường công tác kiểm tra, vì Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, nên “kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân”. Người nêu rõ: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”.

Hồ Chí Minh chỉ ra ba cách kiểm tra, gồm: Một là, kiểm tra phải có tính hệ thống, đồng bộ và quyết liệt. Hai là, kiểm tra không chỉ dựa vào báo cáo mà phải dựa vào thực tế. Ba là, kiểm tra phải biết phê bình đúng cách. Đồng thời, Hồ Chí Minh yêu cầu “Cấp trên phải thường kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên”. Người lưu ý, trong hoạt động kiểm tra cần phải biết “kiểm tra khéo” để có thể rút ra đánh giá, nhận xét xác đáng về tình hình thực thi quyền lực của đội ngũ cán bộ, công chức, vì “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”.

Đối với hoạt động giám sát cán bộ, Hồ Chí Minh quan niệm, công tác giám sát phải được chú trọng và tiến hành đồng thời cả hai mặt: mặt thứ nhất là từ lãnh đạo đối với cấp dưới và đối với nhân viên theo nguyên tắc “Cấp dưới cần phải báo cáo. Cấp trên cần phải kiểm soát”; mặt thứ hai là từ quần chúng nhân dân đối với cơ quan nhà nước, với cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó, Hồ Chí Minh chú ý, phải giám sát cán bộ theo tinh thần “luôn luôn kiểm soát cán bộ” và “dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”.

Một công tác nữa mà Hồ Chí Minh rất coi trọng, nhằm KSQLNN trong công tác cán bộ là Đảng phải bảo đảm kỷ luật nghiêm minh. Người nêu rõ: “Kỷ luật nghiêm để bảo đảm tư tưởng nhất trí và hành động thống nhất của toàn Đảng, toàn dân”(25). Theo Người, kỷ luật đảng là thứ kỷ luật thép, đây là căn cứ răn đe, cũng như giúp cán bộ, đảng viên có thể khắc phục sai lầm, khuyết điểm; làm cho Đảng thống nhất ý chí và hành động; ngăn ngừa đội ngũ cán bộ của Đảng trong các cơ quan nhà nước lạm dụng quyền lực. Đối với cán bộ thiếu trách nhiệm, không làm tròn nhiệm vụ với dân, với nước, không có uy tín trong quần chúng, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước, thì cũng phải xem xét, xử lý thật nghiêm theo tinh thần: “thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công” và “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.

2. Định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ được Đảng ta hiện thực hóa trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam. Quan điểm của Người vẫn giữ nguyên giá trị lý luận, có tính thời sự sâu sắc trong định hướng việc KSQLNN hiện nay.

Ở Việt Nam nhiều năm qua, KSQLNN trong công tác cán bộ đã được coi trọng và có nhiều chuyển biến tích cực. Đảng ta đã ban hành Quy định số 205/QĐ-TW, ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị “về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” và Quy định số 114/QĐ-TW, ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị “về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”.

Đánh giá về việc KSQLNN trong công tác cán bộ, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ; xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền;” và “... đẩy mạnh thí điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, chặt chẽ hơn. Việc chống chạy chức, chạy quyền được coi trọng, có chuyển biến. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới, nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ các cấp, gắn với tiêu chuẩn chức danh và quy hoạch cán bộ được quan tâm, chú trọng và đầu tư tương xứng”.

Tuy nhiên, việc KSQLNN trong công tác cán bộ vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm do chưa được thực hiện sát sao, thiếu đồng bộ và chưa toàn diện. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn không ít trường hợp chưa phản ánh đúng thực chất. Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi chưa bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, cá biệt có nơi bố trí người nhà, người thân chưa đủ uy tín. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; nhiều cán bộ còn thiếu tính chuyên nghiệp” và “nhiều nơi còn tình trạng nể nang, chưa chỉ rõ những cán bộ có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực”. Do đó, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ hiện nay, cần chú ý các định hướng giải pháp:

Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể về kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”. Nếu đơn giản về nhận thức, hoặc nhận thức về KSQLNN trong công tác cán bộ chưa đầy đủ, sâu sắc, sẽ dẫn đến thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo vận dụng tư tưởng của Người vào KSQLNN trong công tác cán bộ hiện nay. Theo đó, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục làm cho cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, Mặt trận Tổ quốc và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện về nội dung, giá trị các quan điểm, cũng như tấm gương mẫu mực, tận hiến của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả việc KSQLNN trong công tác cán bộ.

Quán triệt và thực hiện nghiêm Quy định số 114/QĐ-TW, ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị “về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”; quan điểm của Đại hội XIII của Đảng về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu”, làm cho các chủ thể tự giác học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ.

Hai là, phát huy vai trò của cấp ủy, cơ quan chức năng các cấp để kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ, cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan chức năng (ban tổ chức cấp ủy, cơ quan tổ chức - cán bộ, cơ quan nội vụ, các cơ quan được giao phối hợp trong công tác đề xuất, nhận xét, đánh giá, thẩm định cán bộ,...) phải thường xuyên nâng cao hiệu quả công tác theo đúng nguyên tắc, các khâu trong công tác cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch đối với các đối tượng có liên quan theo Quy định số 114/QĐ-TW. Đồng thời, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát, rà soát chặt chẽ các khâu, các bước của quy trình công tác cán bộ; tập trung đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, nhận xét, lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ; quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ và kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm cán bộ vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước.

Bên cạnh đó, để KSQLNN hiệu quả, công tác cán bộ cần sâu sát thực tế, tránh mọi biểu hiện chủ quan, qua loa, đại khái; coi trọng phát hiện và lựa chọn cán bộ trẻ có phẩm chất, năng lực, cán bộ nữ ở các cấp, bảo đảm cơ cấu, có sự kế thừa và liên tục trong xây dựng nguồn cán bộ. Qua đó, công tác cán bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc phòng ngừa các biểu hiện lạm quyền, lộng quyền của các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước.

Ba là, đổi mới thể chế Đảng lãnh đạo việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về KSQLNN trong công tác cán bộ, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với công tác cán bộ, các ban cán sự đảng trong từng nhánh của quyền lực nhà nước. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ”. Theo đó, việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về công tác cán bộ cần được luật hóa thành các chế định của văn bản quy phạm pháp luật, phù hợp với sự phát triển của thực tiễn.

Bổ sung, hoàn thiện quy phạm pháp luật về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong các cơ quan của bộ máy công quyền; nâng cao tính răn đe của các chế tài xử lý đối với cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền, vi phạm kỷ luật, pháp luật theo quan điểm “Xử lý nghiêm minh, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật của Nhà nước và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu” và tinh thần “không bao che, không dung túng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”.

Ngoài ra, cần triển khai và thực hiện hiệu quả các biện pháp tăng cường kiểm tra, giám sát của Đảng, cơ quan, đơn vị, tổ chức đoàn thể, báo chí, truyền thông và nhân dân để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.

Bốn là, chăm lo đến chính sách cán bộ và nâng cao trách nhiệm từng cán bộ trong tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự kiểm soát quyền lực

Để nâng cao hiệu quả KSQLNN trong công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục cụ thể hóa các chủ trương về chính sách đối với cán bộ, và phát huy vai trò từng cán bộ trong tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự kiểm soát quyền lực. Theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành và triển khai thực hiện chính sách đối với cán bộ, nhất là chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; chính sách đãi ngộ cán bộ bằng tiền lương, phụ cấp tương xứng với cống hiến của cán bộ trên từng vị trí đảm nhiệm. Quan tâm chính sách cán bộ, tạo động lực cho cán bộ phấn đấu và cống hiến trong công việc; giúp cán bộ tự phòng ngừa các biểu hiện tiêu cực nảy sinh do chính sách đãi ngộ chưa tương xứng.

Cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải nêu gương, làm gương và thường xuyên có biện pháp khích lệ, động viên từng cán bộ nâng cao trách nhiệm trong tự bồi dưỡng, rèn luyện, tự kiểm soát quyền lực; chú ý nâng cao trách nhiệm của cán bộ theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là “vì nhân dân phục vụ”.

 

TỰ DO TÔN GIÁO KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ BẤT CHẤP PHÁP LUẬT

Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một nội dung căn bản và quan trọng trong bảo đảm quyền con người và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam quan tâm, vì vậy, “tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc”. Bất chấp thực tế đó, các lực lượng thù địch, phản động vẫn ra sức rêu rao, xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam, kêu gọi các quốc gia, tổ chức nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Trong bài viết “Các khuyến nghị của BPSOS với chính phủ Hoa Kỳ để phát huy và bảo vệ tự do tôn giáo ở Việt Nam” đăng trên mạng xã hội, với cái nhìn định kiến, nhóm Mạch sống Media đã cố tình xuyên tạc tình hình tôn giáo ở nước ta và vu khống Việt Nam “đàn áp tôn giáo đang ở giai đoạn tệ nhất trong 10 năm trở lại đây”, kêu gọi nước ngoài can thiệp và hỗ trợ “các nhóm và cộng đồng tôn giáo độc lập”… Đây là những luận điệu sai trái, vu khống Việt Nam, nhằm hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước và chế độ ta, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được tôn trọng và bảo đảm trên thực tế bằng pháp luật.

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, với gần 27 triệu tín đồ, chiếm gần 27% dân số cả nước, đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách tôn giáo và nhất quán “tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật”. Trên cơ sở, chủ trương,  quan điểm của Đảng, Nhà nước đã thể chế hóa thành nhiều văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, như: Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Nghị định số 95/2023/NĐ-CP quy định một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo… Trong các văn bản pháp luật này, đều khẳng định, Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

Nhờ có chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được bảo đảm ngày càng tốt hơn, số lượng các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng. Năm 2003, thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo thuộc 6 tôn giáo với khoảng 19 triệu tín đồ (chiếm 23,5% dân số). Đến tháng 12/2023, Nhà nước đã công nhận 38 tổ chức tôn giáo, cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cho 2 tổ chức và 1 pháp môn tu hành thuộc 16 tôn giáo, với gần 27 triệu tín đồ tôn giáo.... Nhìn chung các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,  và pháp luật của Nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”, đồng hành cùng dân tộc, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh việc tôn trọng, bảo đảm tự do tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật, Đảng, Nhà nước ta cũng xác định: “Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại doàn kết toàn dân tộc”. Nên, việc không cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, không cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cho các cái gọi là “đạo Dương Văn Mình”, “Hội thánh của Đức Chúa trời Mẹ”, “hội thánh Tin Lành tư gia người Thượng”…, vì đây là các tổ chức đội lốt tôn giáo, không có giáo lý, giáo luật, cơ cấu tổ chức, hoạt động trái pháp luật và Nhà nước xử lý các trường hợp mang danh chức sắc, tín đồ tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ, gây rối trật tự an toàn xã hội, là việc làm cần thiết, không thể gọi là “đàn áp tôn giáo” như sự xuyên tạc, vu khống của nhóm Mạch sống Media. 

Thứ hai, tôn giáo ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

Không chỉ ở Việt Nam, mà ở nhiều quốc gia trên thế giới, tự do tôn giáo đều phải trong khuôn khổ pháp luật. Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16/12/1966 ghi rõ “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Ở Mỹ, hoạt động của các tổ chức tôn giáo được quản lý theo pháp luật của các bang. Việc đăng ký thủ tục bắt buộc đối với các tổ chức tôn giáo trong toàn liên bang, nộp lệ phí đăng ký cho chính quyền; các cơ quan chính quyền của bang trực tiếp thi hành việc giám sát các hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn hành chính của bang. Chỉ sau khi được chính quyền xem xét, đồng ý cho phép thành lập thì các tổ chức tôn giáo mới được phép hoạt động và có tư cách pháp nhân. Điều 26 của Luật về tách Giáo hội khỏi Nhà nước của Cộng hòa Pháp quy định “việc tụ tập để thực hiện các nghi lễ tôn giáo phải báo cáo và chịu sự kiểm soát của các cơ quan chính quyền có chức năng gìn giữ trật tự công cộng. Ở những nơi chuyên vào việc thờ tự và thực hành nghi lễ tôn giáo cấm việc hội họp có tính chất chính trị”. Cộng hòa Liên bang Đức quy định, giáo sĩ cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự như công dân khác trong trường hợp vi phạm hiến pháp, pháp luật. Ở Nhật Bản, các cấp chính quyền quản lý các tổ chức tôn giáo là Bộ Văn hóa, tỉnh, huyện. Các tổ chức tôn giáo đều phải đăng ký ở Bộ Văn hóa và chỉ sau khi đã được đăng ký mới được hoạt động tại nơi đặt văn phòng của tổ chức đó…

Thực tế trên cho thấy, các tôn giáo chỉ tự do hoạt động khi tuân thủ nghiêm pháp luật, nếu vi phạm thì đều bị xử lý và cấm hoạt động. Nên, việc cổ súy, kêu gọi nước ngoài can thiệp và hỗ trợ “các nhóm và cộng đồng tôn giáo độc lập”, mà các nhóm này chưa được cấp phép hoạt động, thậm chí có nhóm còn đội lốt tôn giáo để chống phá Nhà nước, chế độ, gây mất an ninh, trật tự an toàn xã hội là việc làm sai trái của nhóm Mạch sống Media hòng chống phá Việt Nam.

Từ thực tiễn sinh động của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam được bảo đảm ngày càng tốt. Các tổ chức, tín đồ tôn giáo được tự do hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Nhóm Mạch sống Media cho rằng, Việt Nam “đàn áp tôn giáo” và kêu gọi nước ngoài can thiệp, hỗ trợ “các nhóm và cộng đồng tôn giáo độc lập” chỉ là những luận điệu sai trái, thù địch cần đấu tranh, bác bỏ.

Định hình chiến lược phát triển toàn diện, bền vững cho đất nước

 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một nhà lãnh đạo có tầm ảnh hưởng sâu rộng, người đã định hình chiến lược phát triển toàn diện, bền vững cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, đồng thời tạo động lực mạnh mẽ cho sự tiến bộ của dân tộc. Một trong những đóng góp quan trọng và nổi bật mà Tổng Bí thư để lại là sự nghiệp đổi mới, phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ, cùng với các chính sách phát triển kinh tế – xã hội cho đất nước.

Định hướng giáo dục là “quốc sách hàng đầu”

Giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ đóng vai trò quan trọng đối với một quốc gia, là nền tảng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, góp phần quyết định vào sự phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu. Giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ giúp người Việt Nam nâng cao tri thức, kỹ năng và tư duy sáng tạo, cải thiện chất lượng cuộc sống trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tầm nhìn chiến lược đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã định hướng giáo dục là “quốc sách hàng đầu” và xác định đây là nhiệm vụ then chốt của cả hệ thống chính trị.

Ngày 4-11-2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế (Nghị quyết số 29-NQ/TW). Nghị quyết đã đánh dấu bước phát triển mới về tư duy chiến lược của Đảng đối với sự nghiệp phát triển giáo dục -đào tạo; thể hiện tầm nhìn, quyết tâm và định hướng chiến lược đối với giáo dục, tầm nhìn để phát triển bền vững đất nước cả trước mắt cũng như lâu dài. Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết này, giáo dục – đào tạo nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.

Cũng với nhận thức “đầu tư cho khoa học – công nghệ cũng như giáo dục – đào tạo là đầu tư cho phát triển”, ngày 31-10-2012, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế (Nghị quyết số 20-NQ/TW). Nghị quyết không chỉ tạo ra khuôn khổ pháp lý và chiến lược để phát triển khoa học – công nghệ mà còn thúc đẩy việc ứng dụng những tiến bộ này vào thực tiễn, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Những chiến lược đột phá phát triển kinh tế – xã hội

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, với tầm nhìn của thời đại, đã đưa ra những chiến lược và chính sách mang tính đột phá, định hướng dài hạn cho sự phát triển bền vững của đất nước. Theo Tổng Bí thư, phát triển đất nước không chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế mà còn phải gắn với bảo vệ môi trường, đảm bảo công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi tầng lớp nhân dân. Tổng Bí thư cũng thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích sự sáng tạo, tự chủ và hội nhập quốc tế mạnh mẽ.

Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết này được xem như là bước đột phá trong tư duy, tạo căn cứ cho kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, hiệu quả, thực sự trở thành một thực thể quan trọng của nền kinh tế. Nhận thấy cần thúc đẩy các chính sách để phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước, Tổng Bí thư cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII xây dựng và ban hành Nghị quyết số 11-NQ/ TW, ngày 3-6-2017 về “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, tập trung vào cải cách thể chế kinh tế và thu hút đầu tư. Những đóng góp này không chỉ là kim chỉ nam cho các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ mà còn thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội.

GS NGUYỄN ĐÔNG PHONG
Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Đại học Kinh tế TPHCM

 

ĐỂ VIỆC HỌC VÀ LÀM THEO BÁC HIỆU QUẢ HƠN Ở MỖI CHI BỘ

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” và “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Bởi vậy, học tập và làm theo gương Bác qua những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến đang được thực hiện ở nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng. Vậy làm sao để phương pháp này phát huy hiệu quả thiết thực?

Thời gian gần đây, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở nhiều chi bộ thường diễn ra dưới hình thức phân công đảng viên sưu tầm những câu chuyện về gương điển hình tiên tiến để đọc, nghe trong các kỳ sinh hoạt chi bộ. Hình thức này phù hợp với nội dung chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", đó là: “Đẩy mạnh việc phát hiện, bồi dưỡng, biểu dương, tuyên truyền, nhân rộng các tấm gương, điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo Bác”.

Ưu điểm của cách làm này đó là giới thiệu được những tấm gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến trong học và làm theo gương Bác, xuất phát từ thực tiễn cuộc sống và công tác. Tuy nhiên, ở góc độ khác có thể thấy, đây mới chỉ là việc thuần túy kể lại thành tích, chưa có tác dụng khích lệ, động viên mỗi cán bộ, đảng viên học tập, làm theo. Trong mỗi câu chuyện đều có phần bài học kinh nghiệm để đề nghị đảng viên trong chi bộ học tập, làm theo, nhưng hiệu quả như thế nào thì hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức và ý chí của từng đảng viên. Chi ủy cũng không có kế hoạch theo dõi, giám sát cán bộ, đảng viên học tập, làm theo như thế nào. Có người nghĩ đơn thuần, sưu tầm câu chuyện, kể và nghe trong sinh hoạt chi bộ như vậy là đã hoàn thành nhiệm vụ trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mặt khác, những câu chuyện về người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến trong học và làm theo Bác nêu trên đều đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị khen thưởng, biểu dương, tuyên truyền phổ biến qua nhiều kênh thông tin để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết đến. Vì thế hình thức học tập và làm theo Bác như các chi bộ đang thực hiện còn hơi máy móc, kém hiệu quả và không gây hứng thú, không có tác dụng khích lệ, động viên cán bộ, đảng viên.

Trong Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị đã nêu rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức thực hiện Chỉ thị 05 còn bộc lộ một số hạn chế: “Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có nơi, có lúc chưa quyết liệt, chưa kịp thời, chưa sát thực tế; một số người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm, còn thụ động, trông chờ, ỷ lại, thiếu sáng tạo trong triển khai thực hiện Chỉ thị. Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Bác, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật. Việc thực hiện Chỉ thị 05 gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các khâu đột phá, các vấn đề cấp bách, bức xúc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc còn bị động, kết quả chưa cao. Việc phát hiện, biểu dương các tập thể, cá nhân điển hình trong học tập và làm theo Bác chưa kịp thời, thiếu sức thuyết phục. Công tác đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ; tự phê bình và phê bình có nơi, có lúc còn hình thức; tình trạng thiếu tự giác nhận khuyết điểm, đổ lỗi, nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi. Công tác kiểm tra, giám sát của nhiều cấp uỷ đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, thiếu quyết liệt, phạm vi, đối tượng còn hẹp, hiệu quả cảnh báo, phòng ngừa vi phạm chưa đạt yêu cầu”.

Để việc thực hiện Chỉ thị 05 thời gian tới đạt hiệu quả thiết thực, Kết luận 01-KL/TW cũng nêu rõ, cần phải quán triệt, tập trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên. Trong Kết luận đã nêu rõ 7 nhóm nhiệm vụ yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên tập trung thực hiện.

Trên cơ sở đó, để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh trong mỗi chi bộ đạt hiệu quả thiết thực hơn, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Về học tập

Thứ nhất, cần tiếp tục quán triệt, giáo dục đảng viên trong chi bộ nâng cao nhận thức về giá trị của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đồng thời xác định rõ việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là công việc và trách nhiệm thiết thân của mỗi cán bộ, đảng viên. Vì đảng viên có nhận thức sâu sắc một vấn đề thì giải quyết vấn đề đó mới đạt hiệu quả cao; xác định rõ một công việc thì hoàn thành công việc đó mới đạt kết quả tốt nhất.

Thứ hai, duy trì hình thức kể những mẩu chuyện về tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh theo chuyên đề hằng năm của Ban Tuyên giáo Trung ương, hoặc kể gương điển hình tiên tiến của tập thể, cá nhân ở các cơ quan, đơn vị đã được tổ chức có thẩm quyền công nhận. Qua đó liên hệ đưa ra những nội dung làm theo thiết thực nhất để thảo luận, trao đổi trong chi bộ. Quan trọng là phải thống nhất được quan điểm về nội dung làm theo - điểm mới mà trong hình thức sinh hoạt chi bộ vừa nêu trên chưa có, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm và sự hứng thú của đảng viên trong học tập và làm theo gương Bác. Đồng thời, đây cũng là một giải pháp để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.

Thứ ba, việc phân công đảng viên trong chi bộ sưu tầm, kể chuyện về tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, hoặc kể gương điển hình tiên tiến cần có phương pháp khoa học, đảm bảo hài hoà, cân đối với từng đảng viên. Tránh tình trạng có đảng viên tham gia nhiều lần, có đảng viên ít tham gia, thậm chí không chủ động tìm hiểu, nghiên cứu, sưu tầm, chỉ thụ động nghe lại. Việc đó sẽ dẫn đến nguy cơ phát sinh tình trạng trì trệ, lười học tập, suy nghĩ trong đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí minh cũng đã căn dặn: Một dân tộc, một đảng viên và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Bởi vậy, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng hằng ngày, là việc nên làm của mỗi cán bộ, đảng viên.

Về làm theo

Thứ nhất, cấp ủy chi bộ căn cứ tinh thần Chỉ thị số 05, Kết luận số 01 của Bộ Chính trị và nhiệm vụ chính trị của chi bộ hằng năm để xây dựng kế hoạch làm theo. Theo đó mỗi cán bộ, đảng viên tự xây dựng kế hoạch làm theo cụ thể, thực hiện nghiêm túc, thực chất, định kỳ báo cáo kết quả với chi bộ. Cán bộ, đảng viên có trách nhiệm càng cao thì càng phải tích cực và gương mẫu nêu gương làm theo. Cấp ủy có kế hoạch theo dõi, giám sát, biểu dương kịp thời để khích lệ kết quả làm theo của từng cán bộ, đảng viên và tập thể chi bộ, nhằm tạo cho cán bộ, đảng viên thường xuyên duy trì ý thức học tập và làm theo đạo đức, tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh trong công tác và đời sống.

Thứ hai, lấy kết quả học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh làm một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại cá nhân và tập thể hằng năm; thông qua đó phát hiện những điển hình tiên tiến để tuyên truyền, nhân rộng.

Tin rằng, với tinh thần “tự soi, tự sửa”, mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên sẽ nỗ lực, cố gắng hơn mỗi ngày trong học tập và làm theo gương Bác Hồ, để nhân rộng, lan toả những cái hay, cái đẹp trong xã hội như Bác hằng mong muốn.

‘Việt Nam đáp ứng tất cả các tiêu chí công nhận nền kinh tế thị trường’

 Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Xuân Thắng đề nghị hai bên cần tiếp tục tăng cường trao đổi, Hoa Kỳ cần đánh giá một cách khách quan, tiến tới công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.

Trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc tại Hoa Kỳ, từ ngày 31/7 đến ngày 4/8, tại thủ đô Washington DC, ông Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương và đoàn công tác đã có các cuộc gặp gỡ, trao đổi với Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Kurt Campbell, Đặc phái viên của Tổng thống về biến đổi khí hậu John Podesta; Phó Cố vấn an ninh quốc gia phụ trách an ninh mạng Anne Neuberger; Phó Trợ lý Bộ trưởng Tài chính phụ trách châu Á và Thái Bình Dương Robert Kaproth; thảo luận với các nhà nghiên cứu, học giả tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), Quỹ Heritage, Viện Hòa bình, Trung tâm Wilson; hội đàm với đại diện lãnh đạo Đảng Cộng sản Hoa Kỳ; gặp gỡ và nói chuyện với đội ngũ cán bộ của Đại sứ quán Việt Nam và các cơ quan bên cạnh Đại sứ quán.

Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Thắng trân trọng cảm ơn Chính phủ, các cơ quan, đối tác, doanh nghiệp Hoa Kỳ đã gửi lời chia buồn sâu sắc đến Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam về sự ra đi của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.

Trao đổi với các đối tác Hoa Kỳ, ông Nguyễn Xuân Thắng đánh giá cao việc quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã có những bước phát triển toàn diện và nhanh chóng.

Về việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ thông báo chưa công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường, ông Nguyễn Xuân Thắng nêu rõ Việt Nam rất lấy làm tiếc và thất vọng về điều này bởi trong thời gian qua, quan hệ thương mại, đầu tư giữa hai nước đã phát triển mạnh mẽ chưa từng có; hai nước cũng đã có những nỗ lực to lớn trong việc nâng tầm quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện; Việt Nam đã đáp ứng được tất cả 6 tiêu chí mà Bộ Thương mại Mỹ đưa ra khi xem xét công nhận một quốc gia có nền kinh tế thị trường.

Ông Nguyễn Xuân Thắng đề nghị hai bên cần tiếp tục tăng cường trao đổi, Hoa Kỳ cần đánh giá một cách khách quan, tiến tới công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.

Ông cũng bày tỏ mong muốn các công ty Hoa Kỳ tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực có nhiều tiềm năng; xuất khẩu sang Việt Nam những sản phẩm Hoa Kỳ có lợi thế; và đây có thể là nhân tố quan trọng góp phần giảm bớt thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ đối với Việt Nam.

Về phần mình, lãnh đạo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chia sẻ quan ngại của Việt Nam đối với vấn đề công nhận kinh tế thị trường và khẳng định điều này sẽ không ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế giữa hai nước đang phát triển hết sức tốt đẹp, hướng đến kỷ niệm 30 năm ngày bình thường hoá quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ vào năm 2025./.

NDO

Nhà báo Argentina: Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị thời đại

 Theo nhà báo Fiorda, tư tưởng tiến bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tới ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục cổ vũ nhân dân Việt Nam và các dân tộc trên thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử với vai trò một chính trị gia lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế, một lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị thời đại.

Đây là lời khẳng định của nhà báo Argentina, Gaston Fiorda, người có nhiều năm nghiên cứu về lịch sử Việt Nam.

Trả lời phỏng vấn phóng viên TTXVN tại Buenos Aires, chuyên gia Fiorda, tác giả cuốn sách “Việt Nam, biên sử kháng chiến,” nhấn mạnh trong thế kỷ XX, trong suốt sự nghiệp hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhà lãnh đạo tài ba, một nhà trí thức vĩ đại mang tầm vóc quốc tế, đã để lại những di sản vô cùng quý báu cho dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ.

Theo nhà báo Fiorda, tư tưởng tiến bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tới ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục cổ vũ nhân dân Việt Nam và các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của con người.

Ông khẳng định nghiên cứu về di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một công trình khoa học khổng lồ, những gì mà Người để lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng và sâu sắc, tạo nền móng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ đất nước, hồi phục sau chiến tranh, tiến hành công cuộc cải cách, mở cửa, phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế sâu rộng như ngày nay của dân tộc Việt Nam.

Chia sẻ về những cảm nhận trong quá trình công tác tại Việt Nam năm 2023, nhà báo Fiorda cho biết Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã nuôi dưỡng và truyền cảm hứng về khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc và mở rộng hội nhập quốc tế.

Đề cập tới những thành tựu của Việt Nam sau gần 40 năm Đổi mới, nhà báo Fiorda nhấn mạnh Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế nằm trong tốp 4 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và trong tốp 40 của thế giới, quy mô thương mại quốc tế nằm trong tốp 20 của thế giới, là một trong những nền kinh tế được đánh giá là năng động và có độ mở cao nhất thế giới.

Đặc biệt, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển con người, nổi bật là công cuộc giảm nghèo, theo đó hàng triệu người đã thoát nghèo, người dân được quyền tiếp cận nhà ở xã hội, y tế, giáo dục và an ninh lương thực được đảm bảo.

Theo nhà báo Fiodar, vượt qua những khó khăn sau các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập và tự do, những thành quả và những đổi thay đáng khâm phục của dân tộc Việt Nam có được chính là nhờ những di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cũng như sự chỉ đạo sáng suốt tài tình của các thế hệ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam./.

TTXVN

Quy định 144-QĐ/TW: Cụ thể hóa vào tiêu chí xếp loại cán bộ, đảng viên

 Quy định 144-QĐ/TW ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị là một bước tiến quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.

Với 19 chuẩn mực đạo đức cách mạng chi tiết, Quy định 144 sẽ là kim chỉ nam cho cán bộ, đảng viên trong việc tu dưỡng, rèn luyện, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh.

Tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc, Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị Trần Phú (Hà Tĩnh) nhận định: Quy định 144-QĐ/TW là sự tiếp nối và cụ thể hóa nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về chuẩn mực đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên và xây dựng văn hóa trong Đảng; là văn kiện thể hiện một cách toàn diện, vừa mang tính kế thừa, vừa có sự cập nhật, bổ sung những chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp bối cảnh tình hình và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới.

Ngoài quy định về tổ chức thực hiện, chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới được cụ thể hóa ở nội dung của 5 điều và 19 chuẩn mực đạo đức cách mạng, Quy định 144 đã cụ thể hóa và nhấn mạnh các chuẩn mực như bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập; đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời…

Như vậy, trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong tình hình mới, Quy định 144 có cách tiếp cận và nội dung ngắn gọn, sâu sắc, toàn diện, bao quát, nhưng cũng rất cụ thể, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ tổ chức thực hiện. Điều này thể hiện rõ bản lĩnh và quyết tâm của Đảng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Để thực hiện có hiệu quả Quy định 144, theo Tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc, bên cạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước mắt cần tổ chức thực hiện Quy định gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, về những điều đảng viên không được làm… Đồng thời, cần sớm đưa các nội dung của Quy định vào các tiêu chí, tiêu chuẩn trong nhận xét, đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, nhất là trong lựa chọn cán bộ, đảng viên đưa vào quy hoạch, giới thiệu nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp sắp tới.

Ông Nguyễn Văn Minh, nguyên Bí thư Thị ủy Hà Tĩnh cho rằng: Quy định 144 có nội dung rất ngắn gọn, súc tích, nhưng chứa đựng nhiều nội hàm sâu xa về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Quy định 144 như một ngọn đèn soi sáng, giúp chúng ta luôn nhớ về những giá trị cốt lõi mà Đảng ta đã dày công xây dựng.

Đánh giá cao tính cụ thể, chi tiết của Quy định 144, đảng viên lão thành Nguyễn Văn Minh cho rằng: Quy định 144 sẽ là thước đo rõ ràng để đánh giá hành vi của mỗi cán bộ đảng viên; từ đó không ngừng hoàn thiện bản thân. Cán bộ, đảng viên phải là người gương mẫu từ trong gia đình, thực hiện đúng các giá trị đạo đức, tôn trọng, yêu thương và quan tâm đến thành viên trong gia đình, xây dựng một môi trường gia đình lành mạnh và hạnh phúc. Cán bộ, đảng viên cần phối hợp công việc và trách nhiệm gia đình một cách hài hòa, không để công việc ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình và ngược lại. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên phải hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm được giao từ tổ chức Đảng một cách trách nhiệm và tận tụy; không lợi dụng quyền lợi và vị trí của mình để mưu cầu lợi ích cá nhân.

(Theo TTXVN)

Việt Nam: Tầm nhìn 2045

 Quốc khánh năm nay kỷ niệm 79 năm ngày thành lập nước Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2024) là một sự kiện quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc đối với dân tộc Việt Nam. Đây là dịp để chúng ta ôn lại và tưởng nhớ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới của độc lập, tự do và tự chủ cho dân tộc.

Ngày 2/9/1945 đánh dấu sự chấm dứt chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước Việt Nam, mở ra con đường xây dựng một quốc gia độc lập, tự do và có chủ quyền. Sự kiện này cũng là dịp để tôn vinh tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam qua hàng chục năm chống giặc ngoại xâm, từ đó củng cố thêm niềm tin và quyết tâm bảo vệ, xây dựng đất nước.

Kỷ niệm 79 năm ngày thành lập nước là cơ hội để nhìn lại những thành tựu và thách thức mà đất nước đã trải qua. Đây cũng là dịp để đánh giá các bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển, từ đó định hướng cho tương lai. Sự kiện này không chỉ nhắc nhở các thế hệ về giá trị của độc lập, tự do mà còn khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết trong toàn dân, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước đang nỗ lực để phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế.

Quốc khánh 2/9 này cũng là dịp để chúng ta nhìn về tương lai, xây dựng mục tiêu và chiến lược phát triển đất nước trong bối cảnh mới, với những cơ hội và thách thức mới.

Tầm nhìn trở thành một đất nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 được Đại hội Đảng đề ra là một mục tiêu đầy khát vọng và mang tính chiến lược của Việt Nam.

Mục tiêu này thể hiện khát vọng mạnh mẽ của Việt Nam trong việc vươn lên thành một quốc gia có vị thế và tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế. Trở thành một nước phát triển với thu nhập cao không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, mà còn khẳng định vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên toàn cầu.

Tầm nhìn này mang trong mình sức mạnh hiệu triệu và động viên to lớn bởi vì nó kết nối được quá khứ hào hùng, hiện tại đầy thử thách và tương lai rực rỡ của dân tộc. Khi nhìn lại chặng đường đã qua và những khó khăn mà đất nước đã vượt qua để đạt được độc lập, tự do và phát triển, tầm nhìn 2045 càng làm cho người dân thêm tự hào và quyết tâm đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Mặc dù thời gian từ nay đến năm 2045 không còn dài, nhưng Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều thách thức cơ bản nếu muốn đạt được mục tiêu trở thành một quốc gia phát triển với thu nhập cao.

Trước hết là thách thức về cải cách kinh tế sâu rộng. Việt Nam cần chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và xuất khẩu hàng hóa cơ bản sang mô hình dựa trên năng suất lao động, đổi mới sáng tạo, và công nghệ cao. Điều này đòi hỏi sự đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển (R&D), cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Phụ thuộc vào một số ngành công nghiệp cụ thể, chẳng hạn như dệt may, da giày và nông sản, có thể khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước các biến động quốc tế. Việt Nam cần đa dạng hóa các ngành công nghiệp và phát triển các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao hơn.

Thứ hai là thách thức về nâng cao chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực. Để đạt được mục tiêu trở thành nước phát triển, Việt Nam cần cải thiện chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp, đặc biệt là giáo dục đại học và đào tạo nghề. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt để nâng cao năng suất lao động và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều công việc sẽ biến mất hoặc thay đổi, đòi hỏi người lao động phải có những kỹ năng mới, đặc biệt là các kỹ năng liên quan đến công nghệ thông tin và truyền thông, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo.

Thứ ba là thách thức về cải thiện cơ sở hạ tầng. Mặc dù đã có nhiều cải thiện, nhưng cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế nhanh chóng, đặc biệt là tại các đô thị lớn và các khu vực kinh tế trọng điểm. Trong bối cảnh của nền kinh tế số, Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin, đảm bảo rằng mọi người dân và doanh nghiệp đều có thể tiếp cận và khai thác các cơ hội từ internet và công nghệ số.

Thứ tư là thách thức về quản lý và điều hành nhà nước. Bộ máy hành chính cần được tinh gọn và hiện đại hóa để trở nên hiệu lực, hiệu quả hơn. Việc cải cách hành chính cũng cần đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cấp, ngành và địa phương. Việt Nam cần củng cố hệ thống pháp quyền, tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình, đồng thời đẩy mạnh các biện pháp phòng, chống tham nhũng, tạo môi trường kinh doanh công bằng và đáng tin cậy.

Thứ năm là thách thức về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Việc thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu tác động của nó sẽ là một thách thức lớn trong quá trình phát triển. Để đảm bảo phát triển bền vững, Việt Nam cần đẩy mạnh chuyển đổi sang các nguồn năng lượng sạch và tái tạo, giảm phụ thuộc vào các nguồn năng lượng hóa thạch và giảm phát thải khí nhà kính.

Thứ sáu là thách thức về nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Môi trường kinh doanh của Việt Nam cần được cải thiện liên tục để thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việt Nam cần tiếp tục tăng cường hội nhập quốc tế thông qua việc thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã ký kết, đồng thời đẩy mạnh quan hệ đối ngoại và tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế.

Thứ bảy là thách thức về phát triển xã hội. Để đảm bảo sự phát triển toàn diện và bền vững, Việt Nam cần giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Điều này đòi hỏi phải có các chính sách hỗ trợ nhóm người yếu thế và thúc đẩy phát triển đồng đều giữa các vùng miền. Hệ thống an sinh xã hội cần được mở rộng và cải thiện để đáp ứng nhu cầu của một xã hội đang già hóa, đảm bảo rằng mọi người dân đều được tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và bảo hiểm xã hội một cách công bằng.

Để đạt được mục tiêu trở thành một quốc gia phát triển với thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức phức tạp và đòi hỏi sự nỗ lực toàn diện từ phía Chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, với những cải cách mạnh mẽ, chính sách phù hợp và sự quyết tâm, Việt Nam hoàn toàn có thể vượt qua những thách thức này và đạt được mục tiêu đầy tham vọng đó.

Sau đây là một số giải pháp để chúng ta cùng bàn luận: Tiếp tục cải cách thể chế và quản lý nhà nước; đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện; đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng viễn thông, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo (AI) và internet vạn vật (IoT) để tạo nền tảng cho chuyển đổi số trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, từ sản xuất đến dịch vụ và hành chính công; cải cách mạnh mẽ giáo dục và đào tạo nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh đào tạo nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu thị trường lao động, đặc biệt là các kỹ năng liên quan đến công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và công nghệ xanh…

Như trên đã nêu, việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển các công nghệ mới, đặc biệt là trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao như công nghệ sinh học, vật liệu mới và năng lượng tái tạo.

Việt Nam cũng cần tăng cường hợp tác với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm, nhận hỗ trợ kỹ thuật và tài chính, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa; tận dụng các hiệp định thương mại tự do để thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Một việc quan trọng hiện nay là tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp khởi nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ, thông qua các chính sách hỗ trợ về vốn, thuế, và đào tạo; khuyến khích tinh thần sáng tạo trong xã hội, từ đó tạo ra những ý tưởng mới, sản phẩm và dịch vụ đột phá, góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho nền kinh tế.

Thiết nghĩ các giải pháp trên không chỉ giúp Việt Nam vượt qua những thách thức hiện tại, mà còn tạo ra nền tảng vững chắc để đất nước đạt được mục tiêu trở thành quốc gia phát triển với thu nhập cao vào năm 2045. Thành công của các giải pháp này phụ thuộc vào sự đồng lòng, quyết tâm và nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân Việt Nam.

TS. Nguyễn Sĩ Dũng (Theo dantri)

PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, "TỰ CHUYỂN HÓA”: CHỦ ĐỘNG, KIÊN QUYẾT HƠN NỮA

 

Trong giai đoạn hiện nay, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang thực sự trở thành một trong những nguy cơ, thách thức hàng đầu đối với sự tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hiện tượng này diễn ra trên nhiều phương diện, nảy sinh ở những cán bộ, đảng viên, quần chúng và cũng có thể nảy sinh từ những cán bộ, đảng viên giữ chức vụ ở các cấp. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong một quá trình và biểu hiện qua nhiều dấu hiệu cụ thể trong tâm lý, tư tưởng, đạo đức và lối sống hàng ngày. Nó dẫn đến sự thay đổi hành vi, thay đổi về quan điểm chính trị và là mầm mống của các hoạt động chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa dưới nhiều hình thức. Vì vậy, nhận diện nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là yêu cầu mang tính cấp bách đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong công cuộc đấu tranh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

 “Tự diễn biến là tự biến đổi theo một chiều hướng nào đó”, còn “tự chuyển hóa là tự biến đổi từ dạng này sang dạng khác”. Đối với Việt Nam khi nói tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là nói tới sự suy thoái, thay đổi quan điểm, lập trường chính trị - tư tưởng ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hay trong một số tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, đoàn thể xã hội... “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” thường do sự tác động từ bên ngoài thông qua các hoạt động tuyên truyền thù địch, sự tác động từ những biến động tiêu cực của tình hình thế giới như: sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu hay gần đây là “Cách mạng màu”, “Cách mạng hoa”; kết hợp với sự tác động từ bên trong bởi tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, sự phân hóa giàu nghèo... dẫn tới sự bất mãn, bất bình nghiêm trọng trong xã hội. Nhưng trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên có lập trường chính trị - tư tưởng không vững vàng, sự bất mãn hay do buông lỏng trong quản lý, giáo dục của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, Đoàn thể xã hội trong hệ thống chính trị của Nhà nước ta.

 “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” - một hiện tượng chính trị - xã hội phức tạp bao gồm nhiều biểu hiện; trong đó, tập trung chủ yếu vào các biểu hiện sau:

Trước hết là những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng, chính trị của cán bộ, đảng viên.

Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ tuy xảy ra ở một bộ phận cán bộ nhưng hiện nay nó đang có những diễn biến, biểu hiện vô cùng phức tạp. Nghiêm trọng nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, phủ nhận thành quả của cách mạng, hoài nghi về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về khả năng lãnh đạo của Đảng. Từ đó, tỏ ra bất mãn với chế độ, luôn có tư tưởng đi ngược lại với quan điểm Đảng, ủng hộ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, sẵn sàng từ bỏ con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn, làm phương hại đến lợi ích của Đảng, của dân tộc, thậm chí bôi nhọ, phủ nhận thành quả cách mạng của cha ông ta xây dựng, bôi nhọ những gì thuộc về đất nước mình và luôn ca tụng, tung hô một cách cực đoan lối sống, xã hội phương Tây. Có thể nói đây là một biểu hiện quan trọng của sự xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị và trong giai đoạn hiện nay, biểu hiện này đang có xu hướng gia tăng, không dễ ngăn chặn, đẩy lùi. Tất cả những nhận thức và hành động trên của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm ảnh hưởng lớn tới uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Đây là mức độ nguy hiểm cao của sự xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị.

Thứ hai, đó là những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

Song song với sự xuống cấp của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tư tưởng, chính trị thì sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của đội ngũ này cũng đã và đang có xu hướng gia tăng cả về số lượng và phạm vi và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Trong đó, “tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn diễn ra với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân với Đảng và Nhà nước”. Trong thời gian gần đây có những vụ tham nhũng, lãng phí gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, gây bức xúc dư luận, làm giảm niềm tin của quần chúng vào vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Không chỉ có tình trạng tham nhũng, hối lộ, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý lợi dụng chức, quyền để mưu lợi cá nhân, dẫn đến coi nhẹ lợi ích tập thể, cộng đồng. Bệnh cơ hội, tư duy nhiệm kỳ, chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng, “một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước; đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý lợi dụng chi tiêu công, dùng tài sản công phục vụ mục đích cá nhân; có lối sống hưởng lạc, xa hoa, lãng phí không quan tâm đến đời sống còn khó khăn của Nhân dân dẫn đến thói quan liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc và yêu cầu, đòi hỏi chính đáng của Nhân dân, thậm chí đi ngược tâm tư, quyền lợi của Nhân dân, gây bức xúc trong Nhân dân, làm tổn hại thanh danh và uy tín của Đảng, làm giảm niềm tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, cũng như sự lựa chọn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội.

Như vậy tình trạng xuống cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ ở nước ta hiện nay đã và đang trở nên rất nghiêm trọng với nhiều những biểu hiện khác nhau, phạm vi biểu hiện ở nhiều nơi, nhiều cấp, nhiều ngành, đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của quần chúng Nhân dân và Đảng và Nhà nước. 

Hiện nay, để phát hiện ngay được những đối tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” sẽ là rất khó bởi vốn nó tự diễn ra trong đầu óc con người. Tuy nhiên, chúng ta có thể phòng ngừa từ xa và phát hiện được, bởi những người mang tư tưởng sai lệch trước sau gì cũng sẽ thể hiện ra những hành vi sai trái và đó chính là cơ sở để nhận diện, kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý. Hơn nữa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là bước tiếp theo của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bởi vậy, nếu mỗi cán bộ, đảng viên tự giác rèn luyện, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi được tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tức là sẽ ngăn chặn được “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Đồng thời, nếu không kịp thời nhận diện và kiên quyết đấu tranh với tất cả những biểu hiện, hành động “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”  thì nguy cơ dẫn đến vấn đề “diễn biến hoà bình” là rất lớn./.

 

Phấn đấu đưa giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của châu Á vào năm 2030

Bộ Chính trị vừa ban hành Kết luận số 91-KL/TW, ngày 12/8/2024, về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (Nghị quyết số 29) với mục tiêu đưa giáo dục và đào tạo Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á vào năm 2030 và đạt trình độ tiên tiến của thế giới vào năm 2045, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Nghị quyết số 29 được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ban hành đánh dấu bước phát triển mới về tư duy chiến lược của Đảng đối với sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn, quyết tâm và định hướng chiến lược đối với giáo dục, cũng như tầm nhìn để phát triển bền vững đất nước cả trước mắt và lâu dài. 

Nhận thức được tầm quan trọng đó, cả hệ thống chính trị, trong đó giữ vai trò nòng cốt là ngành Giáo dục đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 29, phấn đấu hoàn thành cơ bản các mục tiêu đề ra. Đến nay, sau 10 năm triển khai Nghị quyết, sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần to lớn phát triển đất nước và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ nhất, nhận thức và hành động của các cấp uỷ đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực. Hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện Nghị quyết số 29 được ban hành tương đối toàn diện, bao quát; thể chế, chính sách tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho đổi mới giáo dục và đào tạo. 

Thứ hai, giáo dục mầm non đã có những bước phát triển về quy mô, chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Mạng lưới trường, lớp mầm non không ngừng được củng cố, mở rộng và phát triển đa dạng các loại hình, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giáo dục mầm non của người dân. Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non dần được quy chuẩn và đầu tư phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đến nay, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 56,9%. Phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở được duy trì vững chắc, từng bước nâng cao chất lượng. Giáo dục phổ thông chuyển hướng tích cực từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực người học, đo lường được sự tiến bộ của học sinh trong quá trình học tập. Chất lượng giáo dục phổ thông đại trà và mũi nhọn ngày càng nâng cao, phần lớn học sinh thích thú với phương pháp dạy học mới, có cơ hội trải nghiệm sáng tạo, phát huy sở trường, tự học, tự nghiên cứu tiếp cận bài học, tạo ra sản phẩm phù hợp với mục tiêu và nội dung bài học; học sinh được tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, thăm quan các địa danh lịch sử trong và ngoài địa phương.

Thứ ba, giáo dục thường xuyên phát triển đa dạng về nội dung và hình thức; phương pháp dạy học được đổi mới phù hợp với từng nhóm đối tượng người học, thiết thực với cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất. Hoạt động tại các trung tâm học tập cộng đồng đã mang đến cơ hội học tập thường xuyên cho đông đảo người dân ở nhiều lứa tuổi, đặc biệt đối với những người không có điều kiện học chính quy. Đặc biệt, sự tham gia của gia đình, dòng họ, cộng đồng và bản thân người học thông qua việc thực hiện các mô hình “Gia đình học tập, Dòng họ học tập, Cộng đồng học tập, đơn vị học tập và Công dân học tập” phát triển sâu rộng trên các địa bàn dân cư, góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua học tập, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. 

Thứ tư, giáo dục nghề nghiệp phát triển mạnh về số lượng và chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo, quan tâm đến các đối tượng yếu thế, người dân tộc thiểu số, người nghèo,… với các hình thức và mô hình đào tạo phù hợp để từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động. Giáo dục đại học tiếp tục đổi mới, gắn với tăng cường tự chủ đã tạo ra động lực mới, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng, hiệu quả trong đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học. Trong những năm gần đây, số lượng chương trình đào tạo được kiểm định và công bố khoa học quốc tế tăng mạnh, một số cơ sở giáo dục đại học và nhóm ngành đào tạo được xếp hạng cao trong khu vực và thế giới. Phương pháp dạy – học và công tác thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục được đổi mới theo hướng hiện đại, ngày càng thực chất, hiệu quả hơn. Thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng sư phạm, giáo dục nghề nghiệp ngày càng thực chất và hiệu quả, cơ bản khắc phục tình trạng học lệch, học tủ và giảm áp lực, tốn kém cho xã hội.

Thứ năm, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cơ bản được chuẩn hoá, từng bước bảo đảm số lượng; có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước; có ý thức học tập, rèn luyện, cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Các nhà trường sư phạm đã quan tâm hơn đến đổi mới phương pháp dạy và học, nghiên cứu khoa học giáo dục, coi trọng hơn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm;  bồi dưỡng năng lực sư phạm, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện thiết bị hiện đại… Việc thực hiện các chính sách tôn vinh, khen thưởng đội ngũ nhà giáo đã được các địa phương, các cơ sở giáo dục, đào tạo thực hiện kịp thời, đảm bảo công khai, dân chủ, đúng người, đúng thành tích, chú trọng khen thưởng giáo viên, giảng viên trực tiếp đứng lớp, người lao động trực tiếp có nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, giải pháp công tác đem lại hiệu quả cao, qua đó, tạo động lực quan trọng thúc đẩy đội ngũ nhà giáo không ngừng đổi mới, sáng tạo, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được cải thiện, bước đầu đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo.

Đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ trên các mặt cho thấy, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29 vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chưa thấm nhuần đến từng giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục các cấp cũng như một bộ phận cán bộ, đảng viên và xã hội. Việc thể chế hoá một số nội dung của Nghị quyết số 29 thành chính sách, pháp luật phục vụ đổi mới giáo dục và đào tạo, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học chậm được ban hành. Việc thực hiện tự chủ trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, triển khai chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới còn gặp nhiều khó khăn; liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo, phân luồng học sinh sau trung học cơ sở còn chưa đạt mục tiêu đề ra. Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa thực sự gắn với thị trường lao động, chưa đáp ứng yêu cầu nhân lực cho các ngành kinh tế mới, công nghệ cao; trình độ ngoại ngữ, trong đó có tiếng Anh của lao động qua đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tỷ lệ học sau đại học, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ còn thấp. Cơ cấu, số lượng đội ngũ nhà giáo ở nhiều địa phương chưa hợp lý, chất lượng chưa đồng đều. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục còn bất cập; tỉ lệ phòng học chưa kiên cố hoá còn cao, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu, nhất là ở khu vực miền núi, khu công nghiệp, khu vực đông dân cư; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo còn có mặt hạn chế, chưa thu hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư cho giáo dục… Nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo còn hạn chế. Khoảng cách giàu nghèo sẽ tăng lên cùng với quá trình phát triển kinh tế đặt ra thách thức về công bằng trong giáo dục đối với vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn. Gia tăng dân số và đô thị hóa nhanh sẽ tạo áp lực lớn lên hệ thống hệ thống giáo dục trong việc đáp ứng nhu cầu học tập tăng nhanh ở những khu vực này. Xu hướng già hoá dân số trong tương lai không xa sẽ đặt ra các thách thức mới trong việc hệ thống giáo dục cần đáp ứng nhu cầu cho học tập suốt đời, cho giáo dục người lớn. Những mặt trái của kinh tế thị trường và sự bùng nổ của truyền thông mạng xã hội ngày càng tác động mạnh đến sự phát triển của giáo dục và đào tạo, nhất là việc giữ gìn và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Đây là những vấn đề đặt ra đối với công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới, tạo chuyển biến căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện thành công các đột phá chiến lược theo mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Trong giai đoạn mới, tiếp tục kế thừa các quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp và phát huy những thành tựu đạt được sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29; đồng thời, khắc phục hiệu quả những hạn chế, bất cập của giáo dục và đào tạo nhằm tiếp tục đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, cần lưu ý một số nhiệm vụ giải pháp đột phá tiếp tục triển khai thời gian tới.

Thứ nhất, các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu địa phương, đơn vị tiếp tục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và thực hiện đầy đủ, sâu sắc quan điểm coi giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. 

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Chú trọng công tác xây dựng Đảng trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo; phát huy vai trò của các cấp uỷ cơ sở giáo dục, đào tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu rộng và hiệu quả hơn về mục tiêu, yêu cầu, nội dung đổi mới giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới, trước hết là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và đội ngũ nhà giáo trong cả nước nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và triển khai thực hiện, tạo sự tin tưởng, đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong triển khai nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo. 

Thứ hai, khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo. Đổi mới công tác quản lý giáo dục, quản trị nhà trường theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ, liên thông, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và thực tiễn ở nước ta. 

Xây dựng Luật Nhà giáo, Luật Học tập suốt đời, Chiến lược phát triển giáo dục; sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Bảo đảm đủ điều kiện cơ sở vật chất và bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước, ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. 

Đẩy mạnh phân cấp tự chủ, nâng cao trách nhiệm giải trình, phát huy dân chủ trong các cơ sở giáo dục và đào tạo; hoàn thiện chính sách, cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới. Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng và việc thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; kịp thời hướng dẫn xử lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; kiên quyết xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, trình độ đào tạo; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, thúc đẩy xã hội học tập và học tập suốt đời. 

Ban hành và tổ chức triển khai hiệu quả chương trình giáo dục mầm non mới với nội dung và phương pháp tiên tiến, phù hợp với điều kiện thực tiễn. Từng bước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 3, 4 tuổi. Quản lý chặt chẽ các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập, nhất là các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo, lớp mầm non độc lập. Tiếp tục nghiên cứu, phát triển, hoàn thiện và triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông mới phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn mới; thực hiện một chương trình giáo dục phổ thông thống nhất cả nước, mỗi môn học có một hoặc một số sách giáo khoa và xã hội hoá việc biên soạn sách giáo khoa. Thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm (cấp tiểu học, trung học cơ sở). Rà soát, sắp xếp, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông bảo đảm đủ trường, lớp học, nhất là ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu vực đông dân cư và miền núi, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục; phát triển hệ thống giáo dục ngoài công lập phù hợp với xu thế của thế giới và điều kiện ở Việt Nam, quan tâm đầu tư cho giáo dục chất lượng cao. 

Phát triển giáo dục thường xuyên đa dạng về nội dung và hình thức, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt, năm 2025, cần chuẩn bị thật kỹ lưỡng để tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông đầu tiên theo Chương trình giáo dục phổ thông mới, bảo đảm chất lượng, an toàn, nghiêm túc, hiệu quả, thiết thực, gọn nhẹ, giảm áp lực, tạo thuận lợi nhất cho học sinh. Phát triển giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập, gắn với thị trường lao động, chú trọng cả số lượng, cơ cấu, chất lượng đào tạo, quan tâm công tác đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động để thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường và công nghệ sản xuất. Làm tốt việc định hướng nghề nghiệp cho thanh thiếu niên ngay từ cấp học phổ thông; đẩy mạnh phân luồng học sinh sau trung học vào học giáo dục nghề nghiệp.  Đánh giá toàn diện việc thực hiện chủ trương sắp xếp, sáp nhập trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên trên cả nước để có giải pháp quản lý và phát triển loại hình hoạt động của trung tâm này trong thời gian tới. 

Đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng cơ chế, chính sách đột phá, tương xứng trên tinh thần Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động sự tham gia hiệu quả của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo,  để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế nhằm tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo theo hướng thực chất, đi vào chiều sâu; chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ và các ngành mới như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn,… Khai thác hiệu quả các nguồn lực từ các cơ sở giáo dục thuộc khối Quân đội, Công an đào tạo hệ dân sự đối với các ngành lưỡng dụng một cách phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy, khuyến khích phát triển giáo dục ngoài công lập, nhất là các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng nhằm huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo và tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế tự chủ tài chính đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập. 

Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục quốc phòng, an ninh gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam. Đẩy mạnh triển khai xây dựng văn hoá học đường, quan tâm giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng cống hiến phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Tăng cường công tác tư vấn học đường, tư vấn hướng nghiệp; tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục học sinh, sinh viên.

Thứ tư, phát triển, nâng cao chất lượng, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp đáp ứng yêu cầu của thực tiễn ngày càng tốt hơn. 

Nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo các cấp học và trình độ đào tạo, bảo đảm đủ số lượng, cơ cấu theo định mức quy định. Coi trọng phát triển năng lực dạy học, tổ chức hoạt động giáo dục và đào tạo cho nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục thích ứng với chuyển đổi số và áp dụng, vận dụng các giải pháp, kinh nghiệm, mô hình giáo dục, đào tạo của các quốc gia, các tổ chức khu vực và quốc tế đổi mới sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Nghiên cứu cơ chế, chính sách điều động, luân chuyển giáo viên giữa các địa phương để giải quyết căn bản tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và nâng cao chất lượng giáo dục cho các vùng khó khăn. 

Đổi mới quản lý nhà nước đối với nhà giáo một cách đồng bộ, gắn với quản lý chuyên môn và chất lượng. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ và trọng dụng nhân tài làm việc trong ngành Giáo dục; thực hiện chủ trương lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tuỳ theo tính chất công việc, theo vùng. Phát huy dân chủ, tôn trọng tự do sáng tạo, chuyên môn học thuật, đề cao đạo đức, trách nhiệm của nhà giáo.

Thứ năm, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục và đào tạo tiên tiến trên thế giới. Có cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy, nghiên cứu và làm việc tại các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước; khuyến khích, thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam. Tăng cường đưa tiếng Việt và văn hoá Việt Nam ra nước ngoài. Nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. 

 Khẳng định những giá trị của Nghị quyết số 29 trong sự mở đường cho đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, thể hiện tầm nhìn cho sự phát triển bền vững và lâu dài của đất nước, việc Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29 cho thấy sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai phát triển bền vững của đất nước. Dù còn rất nhiều khó khăn trước mắt, nhưng việc kiên định con đường đổi mới, nhất quán trong nhận thức và hành động, mục tiêu đưa giáo dục và đào tạo Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của châu Á vào năm 2030 và của thế giới vào năm 2045 nhất định sẽ hoàn thành thắng lợi./.

TS. VŨ THANH MAI

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương