Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

Phấn đấu đưa giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của châu Á vào năm 2030

Bộ Chính trị vừa ban hành Kết luận số 91-KL/TW, ngày 12/8/2024, về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (Nghị quyết số 29) với mục tiêu đưa giáo dục và đào tạo Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của khu vực châu Á vào năm 2030 và đạt trình độ tiên tiến của thế giới vào năm 2045, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Nghị quyết số 29 được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ban hành đánh dấu bước phát triển mới về tư duy chiến lược của Đảng đối với sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn, quyết tâm và định hướng chiến lược đối với giáo dục, cũng như tầm nhìn để phát triển bền vững đất nước cả trước mắt và lâu dài. 

Nhận thức được tầm quan trọng đó, cả hệ thống chính trị, trong đó giữ vai trò nòng cốt là ngành Giáo dục đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 29, phấn đấu hoàn thành cơ bản các mục tiêu đề ra. Đến nay, sau 10 năm triển khai Nghị quyết, sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần to lớn phát triển đất nước và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ nhất, nhận thức và hành động của các cấp uỷ đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực. Hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện Nghị quyết số 29 được ban hành tương đối toàn diện, bao quát; thể chế, chính sách tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho đổi mới giáo dục và đào tạo. 

Thứ hai, giáo dục mầm non đã có những bước phát triển về quy mô, chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi. Mạng lưới trường, lớp mầm non không ngừng được củng cố, mở rộng và phát triển đa dạng các loại hình, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu giáo dục mầm non của người dân. Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non dần được quy chuẩn và đầu tư phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đến nay, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 56,9%. Phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở được duy trì vững chắc, từng bước nâng cao chất lượng. Giáo dục phổ thông chuyển hướng tích cực từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực người học, đo lường được sự tiến bộ của học sinh trong quá trình học tập. Chất lượng giáo dục phổ thông đại trà và mũi nhọn ngày càng nâng cao, phần lớn học sinh thích thú với phương pháp dạy học mới, có cơ hội trải nghiệm sáng tạo, phát huy sở trường, tự học, tự nghiên cứu tiếp cận bài học, tạo ra sản phẩm phù hợp với mục tiêu và nội dung bài học; học sinh được tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, thăm quan các địa danh lịch sử trong và ngoài địa phương.

Thứ ba, giáo dục thường xuyên phát triển đa dạng về nội dung và hình thức; phương pháp dạy học được đổi mới phù hợp với từng nhóm đối tượng người học, thiết thực với cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất. Hoạt động tại các trung tâm học tập cộng đồng đã mang đến cơ hội học tập thường xuyên cho đông đảo người dân ở nhiều lứa tuổi, đặc biệt đối với những người không có điều kiện học chính quy. Đặc biệt, sự tham gia của gia đình, dòng họ, cộng đồng và bản thân người học thông qua việc thực hiện các mô hình “Gia đình học tập, Dòng họ học tập, Cộng đồng học tập, đơn vị học tập và Công dân học tập” phát triển sâu rộng trên các địa bàn dân cư, góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua học tập, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. 

Thứ tư, giáo dục nghề nghiệp phát triển mạnh về số lượng và chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo, quan tâm đến các đối tượng yếu thế, người dân tộc thiểu số, người nghèo,… với các hình thức và mô hình đào tạo phù hợp để từng bước đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động. Giáo dục đại học tiếp tục đổi mới, gắn với tăng cường tự chủ đã tạo ra động lực mới, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng, hiệu quả trong đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học. Trong những năm gần đây, số lượng chương trình đào tạo được kiểm định và công bố khoa học quốc tế tăng mạnh, một số cơ sở giáo dục đại học và nhóm ngành đào tạo được xếp hạng cao trong khu vực và thế giới. Phương pháp dạy – học và công tác thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục được đổi mới theo hướng hiện đại, ngày càng thực chất, hiệu quả hơn. Thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng sư phạm, giáo dục nghề nghiệp ngày càng thực chất và hiệu quả, cơ bản khắc phục tình trạng học lệch, học tủ và giảm áp lực, tốn kém cho xã hội.

Thứ năm, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cơ bản được chuẩn hoá, từng bước bảo đảm số lượng; có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước; có ý thức học tập, rèn luyện, cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Các nhà trường sư phạm đã quan tâm hơn đến đổi mới phương pháp dạy và học, nghiên cứu khoa học giáo dục, coi trọng hơn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm;  bồi dưỡng năng lực sư phạm, ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện thiết bị hiện đại… Việc thực hiện các chính sách tôn vinh, khen thưởng đội ngũ nhà giáo đã được các địa phương, các cơ sở giáo dục, đào tạo thực hiện kịp thời, đảm bảo công khai, dân chủ, đúng người, đúng thành tích, chú trọng khen thưởng giáo viên, giảng viên trực tiếp đứng lớp, người lao động trực tiếp có nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, giải pháp công tác đem lại hiệu quả cao, qua đó, tạo động lực quan trọng thúc đẩy đội ngũ nhà giáo không ngừng đổi mới, sáng tạo, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được cải thiện, bước đầu đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo.

Đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ trên các mặt cho thấy, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29 vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chưa thấm nhuần đến từng giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục các cấp cũng như một bộ phận cán bộ, đảng viên và xã hội. Việc thể chế hoá một số nội dung của Nghị quyết số 29 thành chính sách, pháp luật phục vụ đổi mới giáo dục và đào tạo, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học chậm được ban hành. Việc thực hiện tự chủ trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, triển khai chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới còn gặp nhiều khó khăn; liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo, phân luồng học sinh sau trung học cơ sở còn chưa đạt mục tiêu đề ra. Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa thực sự gắn với thị trường lao động, chưa đáp ứng yêu cầu nhân lực cho các ngành kinh tế mới, công nghệ cao; trình độ ngoại ngữ, trong đó có tiếng Anh của lao động qua đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tỷ lệ học sau đại học, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ còn thấp. Cơ cấu, số lượng đội ngũ nhà giáo ở nhiều địa phương chưa hợp lý, chất lượng chưa đồng đều. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục còn bất cập; tỉ lệ phòng học chưa kiên cố hoá còn cao, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu, nhất là ở khu vực miền núi, khu công nghiệp, khu vực đông dân cư; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo còn có mặt hạn chế, chưa thu hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư cho giáo dục… Nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo còn hạn chế. Khoảng cách giàu nghèo sẽ tăng lên cùng với quá trình phát triển kinh tế đặt ra thách thức về công bằng trong giáo dục đối với vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn. Gia tăng dân số và đô thị hóa nhanh sẽ tạo áp lực lớn lên hệ thống hệ thống giáo dục trong việc đáp ứng nhu cầu học tập tăng nhanh ở những khu vực này. Xu hướng già hoá dân số trong tương lai không xa sẽ đặt ra các thách thức mới trong việc hệ thống giáo dục cần đáp ứng nhu cầu cho học tập suốt đời, cho giáo dục người lớn. Những mặt trái của kinh tế thị trường và sự bùng nổ của truyền thông mạng xã hội ngày càng tác động mạnh đến sự phát triển của giáo dục và đào tạo, nhất là việc giữ gìn và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Đây là những vấn đề đặt ra đối với công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn mới, tạo chuyển biến căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện thành công các đột phá chiến lược theo mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Trong giai đoạn mới, tiếp tục kế thừa các quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp và phát huy những thành tựu đạt được sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29; đồng thời, khắc phục hiệu quả những hạn chế, bất cập của giáo dục và đào tạo nhằm tiếp tục đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, cần lưu ý một số nhiệm vụ giải pháp đột phá tiếp tục triển khai thời gian tới.

Thứ nhất, các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu địa phương, đơn vị tiếp tục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và thực hiện đầy đủ, sâu sắc quan điểm coi giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. 

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Chú trọng công tác xây dựng Đảng trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo; phát huy vai trò của các cấp uỷ cơ sở giáo dục, đào tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu rộng và hiệu quả hơn về mục tiêu, yêu cầu, nội dung đổi mới giáo dục và đào tạo trong giai đoạn mới, trước hết là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và đội ngũ nhà giáo trong cả nước nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và triển khai thực hiện, tạo sự tin tưởng, đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong triển khai nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo. 

Thứ hai, khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo. Đổi mới công tác quản lý giáo dục, quản trị nhà trường theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ, liên thông, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và thực tiễn ở nước ta. 

Xây dựng Luật Nhà giáo, Luật Học tập suốt đời, Chiến lược phát triển giáo dục; sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Bảo đảm đủ điều kiện cơ sở vật chất và bảo đảm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước, ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. 

Đẩy mạnh phân cấp tự chủ, nâng cao trách nhiệm giải trình, phát huy dân chủ trong các cơ sở giáo dục và đào tạo; hoàn thiện chính sách, cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới. Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng và việc thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; kịp thời hướng dẫn xử lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; kiên quyết xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, trình độ đào tạo; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, thúc đẩy xã hội học tập và học tập suốt đời. 

Ban hành và tổ chức triển khai hiệu quả chương trình giáo dục mầm non mới với nội dung và phương pháp tiên tiến, phù hợp với điều kiện thực tiễn. Từng bước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 3, 4 tuổi. Quản lý chặt chẽ các cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập, nhất là các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo, lớp mầm non độc lập. Tiếp tục nghiên cứu, phát triển, hoàn thiện và triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông mới phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn mới; thực hiện một chương trình giáo dục phổ thông thống nhất cả nước, mỗi môn học có một hoặc một số sách giáo khoa và xã hội hoá việc biên soạn sách giáo khoa. Thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm (cấp tiểu học, trung học cơ sở). Rà soát, sắp xếp, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông bảo đảm đủ trường, lớp học, nhất là ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu vực đông dân cư và miền núi, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục; phát triển hệ thống giáo dục ngoài công lập phù hợp với xu thế của thế giới và điều kiện ở Việt Nam, quan tâm đầu tư cho giáo dục chất lượng cao. 

Phát triển giáo dục thường xuyên đa dạng về nội dung và hình thức, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt, năm 2025, cần chuẩn bị thật kỹ lưỡng để tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông đầu tiên theo Chương trình giáo dục phổ thông mới, bảo đảm chất lượng, an toàn, nghiêm túc, hiệu quả, thiết thực, gọn nhẹ, giảm áp lực, tạo thuận lợi nhất cho học sinh. Phát triển giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập, gắn với thị trường lao động, chú trọng cả số lượng, cơ cấu, chất lượng đào tạo, quan tâm công tác đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động để thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường và công nghệ sản xuất. Làm tốt việc định hướng nghề nghiệp cho thanh thiếu niên ngay từ cấp học phổ thông; đẩy mạnh phân luồng học sinh sau trung học vào học giáo dục nghề nghiệp.  Đánh giá toàn diện việc thực hiện chủ trương sắp xếp, sáp nhập trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên trên cả nước để có giải pháp quản lý và phát triển loại hình hoạt động của trung tâm này trong thời gian tới. 

Đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng cơ chế, chính sách đột phá, tương xứng trên tinh thần Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động sự tham gia hiệu quả của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo,  để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế nhằm tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo theo hướng thực chất, đi vào chiều sâu; chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ và các ngành mới như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn,… Khai thác hiệu quả các nguồn lực từ các cơ sở giáo dục thuộc khối Quân đội, Công an đào tạo hệ dân sự đối với các ngành lưỡng dụng một cách phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy, khuyến khích phát triển giáo dục ngoài công lập, nhất là các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng nhằm huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo và tháo gỡ những vướng mắc trong cơ chế tự chủ tài chính đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập. 

Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục quốc phòng, an ninh gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam. Đẩy mạnh triển khai xây dựng văn hoá học đường, quan tâm giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng cống hiến phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Tăng cường công tác tư vấn học đường, tư vấn hướng nghiệp; tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục học sinh, sinh viên.

Thứ tư, phát triển, nâng cao chất lượng, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp đáp ứng yêu cầu của thực tiễn ngày càng tốt hơn. 

Nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo các cấp học và trình độ đào tạo, bảo đảm đủ số lượng, cơ cấu theo định mức quy định. Coi trọng phát triển năng lực dạy học, tổ chức hoạt động giáo dục và đào tạo cho nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục thích ứng với chuyển đổi số và áp dụng, vận dụng các giải pháp, kinh nghiệm, mô hình giáo dục, đào tạo của các quốc gia, các tổ chức khu vực và quốc tế đổi mới sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Nghiên cứu cơ chế, chính sách điều động, luân chuyển giáo viên giữa các địa phương để giải quyết căn bản tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và nâng cao chất lượng giáo dục cho các vùng khó khăn. 

Đổi mới quản lý nhà nước đối với nhà giáo một cách đồng bộ, gắn với quản lý chuyên môn và chất lượng. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ và trọng dụng nhân tài làm việc trong ngành Giáo dục; thực hiện chủ trương lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tuỳ theo tính chất công việc, theo vùng. Phát huy dân chủ, tôn trọng tự do sáng tạo, chuyên môn học thuật, đề cao đạo đức, trách nhiệm của nhà giáo.

Thứ năm, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục và đào tạo tiên tiến trên thế giới. Có cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy, nghiên cứu và làm việc tại các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước; khuyến khích, thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam. Tăng cường đưa tiếng Việt và văn hoá Việt Nam ra nước ngoài. Nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. 

 Khẳng định những giá trị của Nghị quyết số 29 trong sự mở đường cho đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, thể hiện tầm nhìn cho sự phát triển bền vững và lâu dài của đất nước, việc Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29 cho thấy sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai phát triển bền vững của đất nước. Dù còn rất nhiều khó khăn trước mắt, nhưng việc kiên định con đường đổi mới, nhất quán trong nhận thức và hành động, mục tiêu đưa giáo dục và đào tạo Việt Nam đạt trình độ tiên tiến của châu Á vào năm 2030 và của thế giới vào năm 2045 nhất định sẽ hoàn thành thắng lợi./.

TS. VŨ THANH MAI

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét