Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

Phản bác những đánh giá sai lệch về Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”

 


Kể từ khi được công bố, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” cung cấp những thông tin chân thực về tôn giáo, chính sách tôn giáo, thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và những ưu tiên nhằm thúc đẩy việc thụ hưởng ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Với vai trò quan trọng đó, Sách trắng cũng trở thành tâm điểm công kích, phê phán thiếu thiện chí của các lực lượng cực đoan nhằm phủ nhận chính sách tôn giáo và những thành tựu quan trọng về bảo đảm quyền tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong suốt thời kỳ đổi mới. Do đó, việc nhận diện và phản bác những đánh giá sai lệch về Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là rất cần thiết, nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

NHẬN DIỆN “CHỦ NGHĨA DÂN TỘC” VÀ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 


Theo Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, “Chủ nghĩa dân tộc là tâm lý, hệ tư tưởng, thế giới quan và chính sách thích những dân tộc này hơn những dân tộc khác, tán dương dân tộc mình, gây căm thù dân tộc và thù hằn chủng tộc”. Theo đó, chủ nghĩa dân tộc được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như chủ nghĩa sô-vanh nước lớn có tâm lý coi thường các dân tộc khác, tự cho mình quyền “khai hóa văn minh” cho các dân tộc nhỏ hơn hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, có khuynh hướng khép kín, không muốn mở rộng quan hệ với các dân tộc khác. Cả hai khung hướng này của chủ nghĩa dân tộc đều xa lạ với bản chất của giai cấp vô sản - giai cấp đại diện cho chủ nghĩa quốc tế vô sản. Do đó, về bản chất, chủ nghĩa dân tộc là thù địch với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, với thế giới quan mácxít và mâu thuẫn với quá trình khách quan của sự phát triển. Đó là sự xích lại gần nhau của các dân tộc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Luận điệu xuyên tạc về thi đua ái quốc

 

 


Thực hiện lời dạy của Bác: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Những năm qua, Cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương luôn xác định đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước gắn với thực hiện hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; xem đây là giải pháp cốt lõi, lâu dài để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

CÔNG TÁC CÁN BỘ NHÌN TỪ BÀI HỌC CỦA BÁC HỒ

 


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Những quan điểm của Bác về công tác cán bộ có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, hết sức quý báu đối với công tác cán bộ hiện nay. Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng về công tác cán bộ của Người. Đặc biệt, thời gian qua, trước việc Đảng ta kiên quyết xử lý kỷ luật một số cán bộ cấp cao vì những sai phạm, các thế lực phản động đã lợi dụng để đưa ra những luận điệu xuyên tạc. Do đó, kịp thời nhận diện và đấu tranh phản bác có hiệu quả những luận điệu sai trái, xuyên tạc về công tác cán bộ của Đảng là góp phần không nhỏ trong cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ.

“PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI - NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI THỦ ĐOẠN MỚI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

 


         

Đấu tranh với kẻ thù luôn dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để phá hoại sự nghiệp cách mạng, kể cả dám làm những việc đê hèn, bẩn thỉu là một quá trình đấu tranh thường xuyên, lâu dài và vô cùng khó khăn, phức tạp, cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Tuy nhiên, với Quân đội ta- một lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hơn lúc nào hết phải luôn nêu cao cảnh giác, bất luận trong hoàn cảnh nào cũng phải làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời phát huy vai trò nòng cốt, đi đầu trên mặt trận đấu tranh làm thất bại mưu đồ “Phi chính trị hóa” Quân đội của kẻ thù.

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG ĐỘNG THÁI MỚI CỦA CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN, TRI THỨC TRẺ HIỆN NAY

 

Chưa bao giờ, công tác đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa bình lại trở nên cam go, phức tạp, quyết liệt như hiện nay. Các thế lực thù địch triệt để sử dụng những thủ đoạn tinh vi, thâm độc nhằm mưu toan xóa bỏ hệ tư tưởng của Đảng, làm tan rã niềm tin, gây hoang mang về lý luận, tư tưởng, tạo ra những khoảng trống để đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, đặc biệt là giới trẻ.“Diễn biến hòa bình”, “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” không chỉ là những khẩu hiệu chống phá trực diện của các thế lực thù địch, mà còn là thái độ “vô ơn”, ích kỹ, lối sống “thực dụng”, đua đòi theo lối sống “Tây phương” của một bộ phận người dân. 

Cảnh giác với luận điệu kêu gọi tuổi trẻ tẩy chay tổ chức đoàn

 


 

Các thế lực thù địch phản động, cơ hội chính trị ra sức tạo cớ, ngụy tạo chứng cứ gây nhiễu thông tin, hòng tuyên truyền, kích động, mua chuộc, tha hóa nhằm băng hoại lực lượng dự bị hùng hậu này của cách mạng. Họ ra sức tuyên truyền trên các trang mạng xã hội (như facebook, youtube, zalo, blog,…) rằng: “Đoàn chỉ là cái vỏ bọc hình thức, không còn phù hợp với tuổi trẻ thời hội nhập quốc tế”; thậm chí, một số phần tử bất mãn, phản động kêu gọi đòi xóa bỏ Huy hiệu Đoàn, kêu gọi tuổi trẻ tẩy chay tổ chức đoàn và các phong trào thanh niên,…

NHẬN THỨC MỚI VÀ TƯ DUY MỚI VỀ QUỐC PHÒNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 


 

Trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta, “dựng nước phải đi đôi với giữ nước” đã trở thành bài học, quy luật tất yếu. Với tư tưởng đó, đất nước ta đã thường xuyên chủ động chuẩn bị về mọi mặt cho việc “giữ nước” ngay trong thời bình; coi trọng xây dựng, củng cố quốc phòng; tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Thực hiện quan điểm “quốc phú, binh cường”; “ngụ binh ư nông”, “trăm họ là binh, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, là thượng sách để giữ nước”. Ông cha ta đã tổng kết “thái bình nên gắng sức, non nước vững ngàn thu”. Trong xây dựng quân đội, thực hiện chủ trương “quân cốt tinh, không cốt đông”...

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn “xâm lăng văn hóa” của các thế lực thù địch hiện nay

 


Thời gian qua, các thế lực thù địch mở rộng, đẩy mạnh “xâm lăng văn hóa”, tập trung vào công kích, xuyên tạc, bôi nhọ, tạo ra sự mâu thuẫn về nhận thức tư tưởng của nhân dân đối với quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam; phủ nhận đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng, thâm độc hơn là nhằm phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, ra sức truyền bá các sản phẩm văn hóa ngoại lai, phản nhân văn, phi văn hóa nhằm kích thích tâm lý, lối sống thực dụng, sa đọa...; làm lệch chuẩn các giá trị văn hóa, đạo đức nhân ái, nhân văn trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ… Mục tiêu "xâm lăng văn hóa" của các thế lực thù địch là tiêm nhiễm làm xói mòn văn hóa truyền thống của dân tộc, từ đó chuyển dần sang lĩnh vực chính trị, hình thành ý thức chống đối về chính trị. Có thể khái quát một số phương thức, thủ đoạn “xâm lăng văn hóa” của các thế lực thù địch trong tình hình hiện nay:

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 


 

Trong giai đoạn hiện nay, âm mưu, thủ đoạn và sự chống phá của các thế lực thù địch không hề thay đổi, trái lại ngày càng tinh vi hơn. Chúng đã triệt để lợi dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, khai thác không gian mạng xã hội để gia tăng sức ảnh hưởng và tiếp tục không ngừng chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Một số giải pháp đấu tranh chống chiêu trò "nhân danh nhân dân" để chống phá Đảng và Nhà nước

 


Những chiêu trò trên cho thấy, nhiều đối tượng đã lấy “nhân dân” làm tấm bình phong, lợi dụng “nhân dân” để tiến hành các hành vi xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm thực hiện các âm mưu, thủ đoạn thâm độc phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng cố ý không tôn trọng thực tế khách quan là chính nhân dân, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn con đường đi đúng đắn cho mình; Đảng và Nhà nước Việt Nam là người con do nhân dân Việt Nam sinh ra, nhờ nhân dân mà trưởng thành, vì nhân dân mà phục vụ. Nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ kẻ nào nhân danh mình, thay mình thực hiện sứ mệnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không thể tồn tại một thế lực nào tự cho mình cái quyền “đại diện nhân dân” để đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta có trách nhiệm bảo vệ danh dự, uy tín và lợi ích chính đáng của nhân dân và kiên quyết xử lý nghiêm minh tất cả những kẻ có mưu đồ “nhân danh nhân dân” để chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang dày công gây dựng.

Bảo Đại bán nước

 

Trong ngày 02/9, nhân dân cả nước treo cờ kỷ niệm 79 năm Quốc khánh thì trên mạng xã hội vẫn còn một số kẻ ngớ ngẩn ca tụng Bảo Đại là ông vua "yêu nước thương dân", trách móc Việt Minh cướp chính quyền Đế Quốc Việt Nam của Bảo Đại (?) gây ra cuộc chiến mấy mươi năm (!) Những ai nói ra điều này đúng là kẻ thiếu kiến thức lịch sử, không có não tư duy, bởi lẽ:

Đêm ngày 10/3/1945 toàn bộ triều đình của Bảo Đại bị cố vấn tối cao của Nhật Bản là Yokoyama Masayuki tập hợp lại dưới họng súng của quân phát xít, chúng ép phải ký vào bản thông cáo huỷ bỏ hoà ước Patenotre (1884) với Pháp. Đồng thời buộc phải chấp nhận bản hiệp ước bảo hộ Yokoyama Masayuki với Nhật sẽ được công bố vào sáng hôm sau ngày 11/3/1945, trong nội dung của nó có câu: “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung. Vậy Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên. Khâm thử!” Đây đích thực là một bản tuyên bố đầy nhục nhã. Như vậy cái gọi là Đế Quốc Việt Nam do Bảo Đại là quốc trưởng, Trần Trọng Kin làm thủ tướng chỉ là bù nhìn, Nhật Bản không cho phép chính phủ này lập quân đội, không cho quyền độc lập tự quyết.

Sau khi quả bom nguyên tử thứ 2 ném xuống Nagasaki ngày 9/8/1945, Nhật hoàng đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Đồng Minh. Quân Nhật tại Việt Nam được lệnh rút quân ngay lập tức 3 ngày sau đó theo yêu cầu của Mỹ, tức là ngày 11/8/1945, gây ra một khoảng trống quyền lực tại Việt Nam. Bảo Đại tại Huế còn lo giữ cái đầu của mình thì lấy đâu ra cai quản đất nước khi trong tay chẳng có một người lính. Bảo Đại đã phải quýnh quáng điện tín khắp nơi xin được đưa nội các tị nạn chính trị nhưng chẳng ai ngó ngàng chấp chứa đồng bọn phát xít khi chủ của chúng đã đầu hàng. Còn tổng thống De Gaulle của Pháp thì nói thẳng: “Cái loại ăn cháo đá bát bỏ Pháp theo Nhật thì chẳng ai cần, tôi thà đưa Vĩnh San (Duy Tân) lên thay còn hay hơn”. Bí quá Bảo Đại phải cầu cứu Việt Minh xin được che chở.

Trước tình thế Việt Nam lúc đó như nhà vắng chủ, có vua cũng như không, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch nghe tin Nhật rút lập tức chuẩn bị kéo vào thế chỗ. Anh Quốc cũng không chịu thua hối hả kéo 2 vạn quân vào miền Nam xí phần. Vận mệnh của Việt Nam vô cùng nguy kịch như "ngàn cân treo sợi tóc", trong nước thì 2 triệu dân chết đói, bên ngoài giặc lăm le nhảy vào chực ăn tươi nuốt sống. Trước tình trạng nguy kịch đó ngày 17/8/1945 nhân dân Hà Nội phải tự nổi dậy nắm chính quyền vãn hồi trật tự theo lời kêu gọi của Cụ Hồ Chí Minh toàn quốc đồng loạt làm một cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền tạm thời về tay Việt Minh. Suy ra Bảo Đại “làm vua mà chẳng được cao, khiến cho kẻ dưới lộn nhào lên trên”. Một đất nước vô chủ tất nhiên nhân dân phải làm chủ nếu không kịp thì ngoại bang cướp mất. Cho đến tận ngày nay đất nước này cũng do nhân dân Việt Nam làm chủ chứ chẳng có kẻ nào dám đụng đến.

Sau khi thoái vị và sau ngày Quốc khánh 02/9/1945, Bảo Đại trở thành ông nghị dân biểu Vĩnh Thụy, núp bóng Hồ Chí Minh mong được che chở để không bị Đồng Minh xử lý đối với tay sai, đồng bọn phát xít Nhật. Khi đại diện của Pháp tới Phủ Chủ tịch chúc mừng nhà nước non trẻ ra đời, Vĩnh Thụy đứng sau lưng Bác Hồ để Bác giới thiệu “đây là Vĩnh Thụy cố vấn pháp luật của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, ý mong Pháp nể mặt không truy tố Bảo Đại một thời đồng bọn phát xít. Vĩnh Thụy có ngờ đâu phát xít Nhật đã đi đêm với Mỹ từ trước đó rằng: “Bọn tao sẽ đầu hàng vô điều kiện nếu bọn mày đồng ý không thực hiện tuyên bố Cairo treo cổ tụi tao, bằng không tụi tao sẽ đánh nhau tới thằng cuối cùng”… và Mỹ đã gật đầu. Nên sau chiến tranh chẳng có tên phát xít Nhật nào bị xử lý như bọn phát xít Đức – Ý ở Châu Âu.

Sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2, Vĩnh Thụy mới biết mình được tha sống thì bắt đầu giở quẻ, bỏ trốn khỏi Việt Nam sang Ma Cao. Tại đây mật vụ Pháp cố ý gài bẫy cho Vĩnh Thụy đánh bạc thua cháy túi rồi Pháp trả nợ giùm sau đó dẫn con nợ Vĩnh Thụy về mẫu quốc chờ ngày dùng lại.

Đầu năm 1947 Pháp đưa quân đội vào xâm lược miền nam Việt Nam. Ngày 07/12/1947 tại Hạ Long, Vĩnh Thụy ký hiệp ước sơ bộ vịnh Hạ Long với Pháp để thành lập ra cái gọi là Quốc Gia Việt Nam (tiền thân Ngụy quyền Việt Nam cộng hòa) do Bảo Đại làm quốc trưởng. Ngày 08/3/1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại đã ký Hiệp định Élysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Ngụy quyền Việt Nam cộng hòa). Đây là sự can thiệp thô bạo của Pháp vào nội bộ Việt Nam khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập trước đó 4 năm thông qua tổng tuyển cử 06/01/1946 một cách dân chủ, được quốc tế công nhận, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo hiến pháp được toàn quyền cai quản trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ bắc chí nam. Chính Bảo Đại đã “cõng rắn cắn gà nhà” và đó là tội bán đứng quốc gia. Còn đó hình ảnh Bảo Đại cùng quan thầy thực dân Pháp đi thăm một đơn vị của “Quốc gia Việt Nam”, ở đó lính Ngụy, lính Pháp đứng lẫn lộn, tất cả đều do sĩ quan Pháp chỉ huy và chiến đấu bảo vệ cho lợi ích của Pháp, cùng Pháp đánh lại lực lượng Việt Minh tại Điện Biên Phủ, sau này thua chạy vào miền Nam làm tay sai cho Mỹ lập ra Ngụy quyền Việt Nam cộng hòa.

Ngày 03/4/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án Bảo Đại như sau: "Vĩnh Thụy trở về với 10.000 quân viễn chinh Pháp, để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thụy cam tâm bán nước, đó là sự thực. Âm mưu của thực dân Pháp là đặt lại chế độ nô lệ ở Việt Nam. Vĩnh Thụy làm tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự"./.

Những nàng công chúa rạng danh sử Việt

 

Trong lịch sử dân tộc, từng có những người phụ nữ làm nên đại cuộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu ... góp phần giành giữ nền độc lập cho Tổ quốc, và cũng từng có những nàng công chúa lặng lẽ hy sinh để cha anh làm nên nghiệp lớn như Huyền Trân, An Tư, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa, ..., chính họ là những con người làm nên lịch sử.

Công chúa Huyền Trân (1287-1340) là con gái vua Trần Nhân Tông và hoàng hậu Thiên Cảm, em gái của Trần Anh Tông. Sách Việt sử giai thoại viết: "Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), thực hiện lời hứa trước đó của Thượng hoàng Trần Nhân Tông, vua Trần Anh Tông đem Công chúa Huyền Trân gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân. Đáp lại, Chế Mân đã đem đất hai châu Ô và Lý - vùng tương ứng với phần phía Nam tỉnh Quảng Trị và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên ngày nay - dâng cho Đại Việt làm sính lễ". Một năm sau, Chế Mân chết, Huyền Trân công chúa được vua Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung cướp về (vì theo tục lệ Chiêm Thành, hễ Vua mất thì Hoàng hậu phải lên giàn hỏa thiêu để chết theo). Sau đó bà xuất gia rồi mất vào năm 1340. Dân chúng quanh vùng thương tiếc, tôn bà là Thần Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn. Ngày bà mất sau này hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ Phong ở Huế. Câu chuyện về công chúa được truyền tụng trong dân gian, khiến Huyền Trân trở thành một trong những công chúa nổi tiếng nhất và ảnh hưởng nhất trong lịch sử Việt Nam. Các triều đại sau đều sắc phong Huyền Trân công chúa là thần hộ quốc. Hoàng đế triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần.

Trong lịch sử Việt Nam, có một nàng công chúa được mệnh danh là “Tịnh đế liên” - hoa sen quý hiếm, thuần khiết, một đài hoa nở ra 2 bông hoa. Trong cuộc chiến lẫy lừng chống quân xâm lược Nguyên Mông, nàng đã hy sinh hạnh phúc của mình để cưới tướng giặc Thoát Hoan, cầu hoà cho đất nước. Đó chính là An Tư công chúa, còn gọi là Thiên Tư công chúa, là con gái út của vua Trần Thái Tông (1218-1277). Bà cũng là em gái của Trần Thánh Tông và là cô ruột của Trần Nhân Tông. Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng: “Tháng 2 (năm Ất Dậu) ... Sai người đưa An Tư công chúa (em gái út của vua Trần Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy". Trong Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ ghi rằng: "Thoát Hoan lên sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông; quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại, không được; ngày đã về chiều, quân giặc qua được sông vào kinh thành, vua sai đưa Thiên Tư Công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước". Đầu năm 1285, quân đội nhà Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long. Thánh Tông Thái thượng hoàng và vua Trần Nhân Tông đi thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng đối phương nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9/3 cùng năm, thủy quân Nguyên đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được hai vua. Để có thời gian củng cố lực lượng, Thượng hoàng Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến kế mỹ nhân, dâng em gái út của mình cho tướng giặc là Thoát Hoan để tạm cầu hòa. Theo lưu truyền trong dân gian, khi vào trại giặc, An Tư công chúa đã làm nhiệm vụ mật báo nhiều tin tức quan trọng, giúp quân nhà Trần rút lui một cách an toàn, có thời gian chuẩn bị thêm lực lượng, và sau đó phản công thắng lợi trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai (năm 1285). Giáo sư Phạm Đức Dương, Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á cho rằng nhà Trần trở thành triều đại vinh quang nhất trong lịch sử Đại Việt vì đã 3 lần chiến thắng quân Nguyên, đội quân đã từng làm mưa làm gió khắp Á - Âu. Trong chiến công chung đó người ta ghi nhận sự đóng góp, hy sinh thầm lặng của những người phụ nữ, trong số ấy có công chúa An Tư. Người con gái "lá ngọc cành vàng" ấy vì nợ nước đã ra đi không trở lại.

Công chúa Ngọc Vạn, họ tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn, là con gái thứ hai của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (ở ngôi: 1613-1635). Bối cảnh lịch sử lúc này, tuy nhà Lê vẫn là vương triều chính thống, tuy nhiên quyền lực thực sự nằm trong tay Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Năm 1620, công chúa Ngọc Vạn được gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II và trở thành Hoàng hậu nước này với tước hiệu là Somdach Prea Peaccayo dey Preavoreac. Nhờ có cuộc hôn phối này mà tình giao hảo giữa hai nước được tốt đẹp, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội cho người Việt mở rộng lãnh thổ về phía Nam.

Công chúa Ngọc Khoa, họ tên đầy đủ Nguyễn Phúc Ngọc Khoa, là con gái thứ 3 của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên và là em gái công chúa Ngọc Vạn. Tương tự như số phận của chị gái, năm 1631 được gả cho vua Chiêm Thành là Pôrômê. Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình giao hảo giữa hai nước Việt - Chiêm được tốt đẹp. Xét đến cùng đây là một cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị có tầm quan trọng đặc biệt đối với lịch sử dân tộc Việt Nam./.

Sự tiếc nuối muộn màng

 

Cù Huy Hà Vũ là con trai của cụ Cù Huy Cận, một trong những vị cách mạng tiền bối của đất nước ta. Các cụ Cù Huy Cận, Nguyễn Lương Bằng và Trần Huy Liệu thay mặt cho chính quyền cách mạng đã tiếp nhận ấn kiếm từ tay vua Bảo Đại vào ngày 30/8/1945 tại lầu Ngũ Phụng cửa Ngọ Môn (Huế) sau khi Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Cù Huy Hà Vũ được sinh ra trong cái nôi cách mạng, được tạo điều kiện để học tập đến trình độ tiến sĩ, thế nhưng chỉ vì hám danh, hám lợi, bất mãn vì không được leo cao mà trở cờ, bội phản. Cù Huy Hà Vũ được các tổ chức phản động ở hải ngoại bơm thổi thành "kẻ sĩ”, "nhân sĩ trí thức", "nhà đấu tranh dân chủ". Cứ thế, anh ta trượt rất dài trên đường băng khốn nạn và tội lỗi.

Cái gì đến cũng phải đến, Vũ bị bắt ngày 05/11/2010 tại thành phố Hồ Chí Minh, bị khởi tố ngày 15/11/2010 về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vũ phải thi hành án tù 7 năm sau khi tòa sơ thẩm ngày 04/4/2011 tuyên án, và phiên tòa phúc thẩm diễn ra ngày 02/8/2011 giữ nguyên bản án sơ thẩm, nhưng sau đó Vũ đã được trả tự do trước hạn ngày 06/4/2014 và được đưa thẳng từ nhà tù đến sân bay Nội Bài để cùng vợ sang Mỹ - “Thiên đường của xứ tự do, dân chủ Hoa Kỳ” là niềm ước ao bấy lâu của Vũ. Khi vừa sang Mỹ, Tổ chức ân xá Quốc tế gọi y là "tù nhân lương tâm". Một số tổ chức chống cộng cực đoan săn đón những ngày đầu, tổ chức phỏng vấn, đăng tải nhiều bài viết của Vũ ….

Thế nhưng đời không như là mơ, Hoa Kỳ là nơi mà các hội, đoàn chống cộng thi nhau tranh giành tầm ảnh hưởng của mình theo kiểu "quần khuyển tranh cốt" (đàn chó tranh xương). Cù Huy Hà Vũ dần dần nếm trải cảm giác chạy ăn từng bữa khi đã hết giá trị lợi dụng. Ngày còn ở trong tù Việt Nam nhìn Hà Vũ béo tốt dù luôn mồm xuyên tạc, bịa đặt về cái gọi là "đối xử không tốt với tù nhân lương tâm" và y rêu rao "tuyệt thực". Ấy thế nhưng khi đạt mục đích là đến với "xứ tự do" thì trông y chẳng khác nào một người đói ăn trong nạn đói lịch sử năm 1945. Nhân quả luân hồi, báo ứng. Từ cổ chí kim những kẻ phản quốc chưa bao giờ có cái kết tốt đẹp. Ra đi không thẹn bằng khi trở về. Giờ đây khi đã sáng mắt ra thì mong muốn duy nhất của Vũ là trở về quê hương khi thổ lộ: "tôi còn hộ chiếu tôi sẽ trở về nước".

Được Đảng, Nhà nước cho ăn học tử tế nhưng lại trở cờ theo giặc, thường xuyên chống phá sự bình yên của đất nước ta, luôn ôm dạ phản trắc, thấy lợi nhỏ quên nghiệp lớn, bán rẻ Tổ quốc và luôn có tư tưởng tôn thờ ngoại bang. Kêu gọi phương Tây can thiệp chuyện nội bộ của Việt Nam ... Tình cảnh của Cù Huy Hà Vũ giờ đây là cái gương tày liếp, bài học nhãn tiền cho những kẻ cố tình đi ngược lại lợi ích của dân tộc, chống phá Tổ quốc. Mẹ hiền Việt Nam luôn sẵn sàng giang rộng vòng tay để đón những đứa con lầm lỗi trở về khi chúng thành tâm sám hối./.

Giáo sư Đào Duy Anh

 

Trong lịch sử văn hóa nước nhà, có một tên tuổi lừng danh được nhiều thế hệ nghiên cứu lịch sử, văn hóa nhắc đến, đó là Giáo sư Đào Duy Anh. Năm 2024 là kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Giáo sư.

Giáo sư Đào Duy Anh (1904-1988) quê gốc ở làng Khúc Thủy, tổng Tả Thanh Oai, nay thuộc xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, TP Hà Nội; nhưng từ đời ông nội thì chuyển cư vào xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Giáo sư Đào Duy Anh là tấm gương lao động khoa học không biết mệt mỏi, vượt qua mọi hoàn cảnh, với niềm đam mê và khát vọng cống hiến lớn lao. Di sản mà Giáo sư Đào Duy Anh để lại rất đồ sộ, trên nhiều lĩnh vực, mà ở lĩnh vực nào cũng mang dấu ấn sâu đậm, có tầm ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài.

Ở lĩnh vực từ điển, với hai cuốn từ điển Hán-Việt và Pháp-Việt xuất bản trong thập niên 1930, không chỉ là các sách công cụ tra cứu rất cần thiết thời điểm bấy giờ mà trong đó, ở những trường hợp cụ thể, Giáo sư đã đưa ra những giải thích khoa học và tiến bộ theo quan điểm Mác-xít. Với ảnh hưởng và tác dụng to lớn, các công trình này góp phần đặt cơ sở cho nền từ điển học Việt Nam và đưa Giáo sư Đào Duy Anh trở thành nhà từ điển học tiên phong.

Trong lĩnh vực văn hóa nói chung, văn học nói riêng, với hàng loạt công trình xuất bản trước và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Giáo sư Đào Duy Anh vừa có những đóng góp mang tính khai mở, vừa có cả những khảo cứu chuyên sâu. Tác phẩm “Việt Nam văn hóa sử cương” được coi là một trong hai công trình khoa học mang tính nền tảng của văn hóa học hiện đại Việt Nam (cùng với “Văn minh An Nam” của Nguyễn Văn Huyên).

Năm 1964, Giáo sư Đào Duy Anh hoàn thành công trình “Đất nước Việt Nam qua các đời”. Đây là một khảo cứu cực kỳ công phu, một cống hiến lớn của ông về địa lý học lịch sử. Bằng việc tham khảo nhiều nguồn tài liệu, nhất là tài liệu nước ngoài, học hỏi và kế thừa thành tựu, kinh nghiệm trong và ngoài nước, tác phẩm này được đánh giá vừa có tính tổng kết, vừa chuẩn bị và vạch hướng cho tương lai phát triển của địa lý học lịch sử Việt Nam, xứng đáng là công trình tiêu biểu đưa ông trở thành “nhà địa lý học lịch sử tiêu biểu nhất và nổi bật nhất ở thế kỷ 20”.        

Trong lĩnh vực sử học, Giáo sư Đào Duy Anh không chỉ là thế hệ xây nền đắp móng của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), mà rộng hơn, là của cả nền sử học Việt Nam hiện đại. Các bộ giáo trình của Giáo sư viết trong 3 năm công tác ở Khoa Lịch sử (1956-1958), thuộc thời kỳ lịch sử cổ trung đại Việt Nam, đã trực tiếp góp phần đào tạo thế hệ các nhà sử học đầu tiên của nền sử học Việt Nam mới, cũng là tài liệu tham khảo có giá trị mãi về sau này, ngay cả khi các bộ giáo trình “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” (3 tập) do các học trò - cộng sự xuất sắc của Giáo sư biên soạn được xuất bản.

Đảm nhiệm vị trí Chủ nhiệm bộ môn Cổ sử Việt Nam, Giáo sư Đào Duy Anh đã tập trung nỗ lực cao độ để chỉ trong một thời gian ngắn biên soạn, bổ sung các bộ giáo trình về lịch sử Việt Nam thời kỳ cổ trung đại. Các cộng sự trẻ tuổi bấy giờ như Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, … đã được sự hướng dẫn, dìu dắt của Giáo sư Đào Duy Anh. Các lớp sinh viên đầu tiên được Giáo sư Đào Duy Anh trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn, nhiều người trong số đó sau này trở thành những nhà nghiên cứu, nhà quản lý xuất sắc. Đặc biệt, Giáo sư Đào Duy Anh đã có đóng góp quan trọng trong việc xây dựng cơ sở tư liệu của Khoa bằng việc mua các thư tịch Trung Quốc, sao chép các bộ sử và tài liệu Hán Nôm của Việt Nam, các tài liệu bằng chữ phương Tây (Anh, Pháp), tiến hành dịch thuật các tài liệu quan trọng với sự cộng tác của các nhà Hán học cao tuổi, thông thạo cả chữ Hán và chữ Pháp. Phòng Tư liệu của Khoa Lịch sử với hàng vạn đầu tài liệu quý hiện nay được xây dựng có phần đóng góp quan trọng của Giáo sư Đào Duy Anh. 

Khi công tác ở Viện Sử học, Giáo sư Đào Duy Anh đã hiệu đính và chú giải nhiều bộ sử lớn. Các bản dịch và hiệu đính các bộ thư tịch quan trọng, tiêu biểu của Việt Nam như: “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Đại Nam thực lục”, “Lịch triều hiến chương loại chí”, “Đại Nam nhất thống chí”... Những bộ thư tịch đã cung cấp tư liệu cơ bản cho việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam thời kỳ cổ trung đại, được tái bản nhiều lần. Đóng góp vào công việc quan trọng và có ý nghĩa to lớn này là các nhà Hán học uyên thâm, trong đó có Giáo sư Đào Duy Anh.          

Giáo sư Đào Duy Anh đã có nhiều cống hiến xuất sắc cho nền văn hóa, giáo dục nước nhà. Di sản Giáo sư Đào Duy Anh để lại khẳng định công lao to lớn của Giáo sư trong việc xây dựng nền khoa học xã hội và nhân văn nước nhà, với những đóng góp lớn trong nhiều lĩnh vực của sử học và văn hóa học mà gần như ở lĩnh vực nào Giáo sư cũng là người đóng vai trò khai phá, đặt nền móng. Các tác phẩm tiêu biểu của Giáo sư Đào Duy Anh, gồm: “Hán-Việt từ điển” (1932), “Pháp-Việt từ điển” (1936), “Việt Nam văn hóa sử cương” (1938), “Khổng giáo phê bình tiểu luận” (1938), “Trung Hoa sử cương” (1942), “Khảo luận về Kim Vân Kiều” (1943), “Lịch sử Việt Nam” (2 tập, 1955-1956), “Cổ sử Việt Nam” (1956), “Lịch sử cổ đại Việt Nam” (4 tập, 1957), “Vấn đề hình thành dân tộc Việt Nam” (1957), “Đất nước Việt Nam qua các đời” (1964), “Từ điển Truyện Kiều” (1974), ... Giáo sư Đào Duy Anh đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ năm 2000./.

Noi gương Anh hùng Liệt sĩ Phan Đình Giót

 

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Phan Đình Giót là Tiểu đội trưởng đơn vị bộc phá của Đại đội 58 thuộc Tiểu đoàn 428 (Trung đoàn 141, Đại đoàn 312), có nhiệm vụ phá tung hàng rào kẽm gai và bãi mìn bao quanh cứ điểm 2 của trung tâm đề kháng Him Lam để mở cửa cho lực lượng xung kích tiến vào tiêu diệt địch. Sau khi đồng đội lần lượt bị thương, anh đã lấy ống bộc phá trong tay đồng đội rồi luồn qua làn đạn, phá nốt hàng rào thứ 8, hàng rào cuối cùng của cứ điểm.

Nhưng đơn vị xung kích vừa xông lên thì hỏa điểm địch bất ngờ xuất hiện bắn chặn dọc cửa mở, khiến nhiều chiến sĩ ta thương vong, số còn lại phải nằm ép mình xuống đất, không cách nào lên được. Trong tình huống đó, Phan Đình Giót đã trườn lên ném lựu đạn vào họng súng đang tuôn đạn đỏ rực. Lựu đạn nổ nhưng địch từ trong lô cốt vẫn bắn ra. Dù đã bị thương, Phan Đình Giót vẫn tiếp tục bò lên, lết mình đến cạnh lỗ châu mai, kề tiểu liên bắn vào trong lô cốt. Súng địch ngừng một lúc rồi lại tiếp tục khạc lửa. Hết cả đạn tiểu liên và lựu đạn, thương tích đầy mình, Phan Đình Giót cố sức rướn mình lên cao, lấy thân mình bịt lỗ châu mai, tạo điều kiện cho đồng đội xông lên diệt địch, giành thắng lợi trong trận mở màn chiến dịch.

Phan Đình Giót được truy tặng danh hiệu Anh hùng quân đội. Anh yên nghỉ trong nghĩa trang liệt sĩ dưới chân đồi A1 cùng với các Anh hùng Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn ..../.

Cách mạng Tháng Tám - chân lý sáng ngời xua tan các luận điệu đen tối

 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là bước ngoặt vĩ đại, đưa nước ta trở thành một nước độc lập, tự do, dân chủ, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là những giá trị bất diệt của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mãi là chân lý sáng ngời đã và đang tỏa sáng, thôi thúc chúng ta tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đập tan mọi luận điệu của các thế lực thù địch, phản động.

Thực hiện lệnh Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Hà Nội. Ảnh tư liệu

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang đẩy mạnh các hoạt động Kỷ niệm 79 năm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - trang vàng chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, sự kiện vĩ đại đã biến mơ ước ngàn đời của nhân dân ta về độc lập dân tộc và xây dựng đất nước phồn vinh, tự do, ấm no, hạnh phúc trở thành hiện thực. Nhưng cũng chính vào thời điểm này, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện những luận điệu đen tối nhằm xuyên tạc, công kích lý tưởng và ý nghĩa cao cả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Bất chấp sự thật, những luận điệu đó đã đổi trắng thay đen, coi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chỉ là tự phát của quần chúng nhân dân; do đó không có gì khốc liệt, phức tạp, không có bom rơi, đạn nổ và không có đổ máu, nên đây là sự kiện hết sức bình thường, cần phải lãng quên! Có thể thấy những luận điệu đó không hề hồ đồ, mơ hồ, mà là một ý đồ đen tối, thâm độc, đổi trắng thay đen của các thế lực thù địch. Và, tất nhiên những luận điệu xảo trá đó không thể lừa dối được ai. Bởi, sự thật quá rõ ràng, nhân dân ta rất đỗi tự hào về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và được bạn bè quốc tế thừa nhận, khâm phục ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam.

Thực tế đã chứng minh chân lý sáng ngời: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện chính trị đặc biệt thể hiện sự quật khởi của quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng diễn ra liên tục trong suốt 15 năm sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930), từ cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Cuộc vận động dân chủ năm 1936 - 1939, đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Gần 80 năm đã qua càng cho thấy những yếu tố vững chắc để khẳng định Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là mốc son trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta, mà còn là kỳ tích lịch sử ghi đậm dấu ấn vào phong trào cách mạng chung của thế kỷ XX; là sự kiện trời long đất lở chứ khống phải là “sự kiện bình thường” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời, là gương sáng khích lệ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc cho hàng loạt nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh.

Sự kỳ diệu hiếm có của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được làm sáng tỏ bởi một hệ thống các yếu tố sau:

Một làsự chuẩn xác đến kỳ lạ trong việc nhận định thời cuộc của Bộ Tư lệnh Cách mạng. Nhận định đánh giá đúng tình hình chí ít đã là một nửa của thắng lợi. Có thể nêu hai dẫn chứng cụ thể để thấy sự tuyệt vời trong nhận định và định hướng của Bác Hồ và Đảng ta. Thứ nhất, bước vào những năm 40 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có những diễn biến hết sức nhanh chóng tác động mạnh đến nước ta. Cùng vào thời điểm này, lãnh tụ Hồ Chí Minh sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài trở về Tổ quốc cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám ở Pắc Bó (tháng 5 năm 1941). Hội nghị quan trọng này đã phân tích những diễn biến mới của tình hình thế giới, nhất là từ khi Pháp đầu hàng Đức, Nhật xâm lược Đông Dương và chỉ ra rằng: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”1Thứ hai, đêm 09/3/1945, Nhật nổ súng đánh Pháp và gần như ngay sau đó, ngày 12/3/1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng, Bắc Ninh đã ra ngay Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị là văn kiện quan trọng của Đảng thể hiện tầm nhìn chiến lược, xuyên suốt giai đoạn tiền khởi nghĩa, có nhận định chính xác tuyệt đối rằng: Pháp sẽ thất bại vì không có tinh thần chiến đấu; thiếu vũ khí tinh xảo; không thống nhất hành động với lực lượng chống Nhật ở Đông Dương. Quả nhiên sau đó Pháp đã thua và đầu hàng Nhật. Từ đó, Chỉ thị định hướng khẩu hiệu hành động là “Đánh đuổi phát xít Nhật” thay cho các khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật, Pháp”, chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật. Chỉ thị nổi tiếng này thực sự là kim chỉ nam cho các chiến sĩ cộng sản, các thành viên Mặt trận Việt Minh vận dụng, định hướng đấu tranh sát với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, Đó là sự thể hiện trí tuệ khoa học tuyệt vời của Đàng trong đánh giá chính xác tình hình, chứ không phải là sự ăn may như các thế lực thù địch tự rao giảng.

Hai là, sự tài tình trong việc nắm bắt và tận dụng thời cơ. Phải khẳng định rằng, thời cơ cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là những điều kiện chín muồi để có thể phát động đấu tranh giành thắng lợi. Nó chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, được ví như mũi tên bay hoặc nhanh hơn như một tia chớp. Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã khẳng định những cơ hội cho cuộc khởi nghĩa nhanh chín muồi, đó là: (1). Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng); (2). Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước); (3). Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật). Nắm bắt những cơ hội đó, Đảng ta chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Đây là thời kỳ động viên quần chúng sôi nổi, mạnh mẽ, phát triển lực lượng chính trị sâu rộng ở cả nông thôn và thành thị, đồng bằng và rừng núi; kết hợp chặt chẽ các hình thức đấu tranh, đánh du kích, nổi dậy của quần chúng, phá kho thóc giải quyết nạn đói, diệt Nhật trừ gian, đẩy địch vào thế lúng túng, bị động và hoang mang tan rã. Do những nỗ lực chủ quan và yếu tố khách quan làm cho thời cơ đã chín muồi, Đảng ta phát Lệnh Tổng khởi nghĩa. Như vậy, chúng ta nổi dậy khi lực lượng đã được chuẩn bị và đang có khí thế, trong khi quân đội Nhật tuy vẫn còn nguyên vẹn nhưng ý chí bị tan rã; đồng thời, đội quân của phe Đồng minh chưa kịp vào nước ta để tước vũ khí của quân Nhật. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã tập trung sức mạnh của nhân dân đập tan bộ máy thống trị của chính quyền trung ương địch ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các thành phố, tỉnh lỵ, làng xã, thôn ấp; chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thực sự là nghệ thuật tuyệt vời về việc chọn đúng thời cơ, tận dụng cơ hội giành thắng lợi.

Ba là, sự hoàn hảo của thắng lợi. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thật ngoạn mục, không thể trọn vẹn hơn. Trong thời gian ngắn, với khí thế cách mạng dâng trào như nước vỡ bờ, cuộc Tổng khởi nghĩa giải quyết bốn mục đích hết sức cơ bản và phức tạp là: chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm; chấm dứt gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp, 05 năm chiếm đóng và khống chế của phát xít Nhật; thống nhất đất nước, đưa giang sơn thu về một mối; giành quyền tự do, dân chủ cho quần chúng lao động, dựng lên nhà nước Cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và của Đông Nam Á. Do được chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại phát động nổi dậy đúng lúc, phương thức hành động  hợp lý, mau lẹ và sát hợp với từng địa phương, với một sức mạnh áp đảo nên chúng ta đã giành được chính quyền mà hầu như không đổ máu. Cách mạng nổ ra như sấm sét, bão táp mà không bị tổn thất máu xương, thật là một sự kiện lịch sử hiếm có và là bài học quý. Không chỉ có thế, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn đóng góp cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới một cách thức chặt đứt xiềng xích của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, cổ vũ các dân tộc đứng lên tự giải phóng cho mình.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 càng trọn vẹn hơn khi nó chứng tỏ đó là cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc cách mạng đó đã tập hợp được sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại, đến khi thắng lợi lại hình thành nên sức mạnh mới để dân tộc Việt Nam tiếp tục đương đầu, chiến thắng bọn đế quốc xâm lược và các thế lực thù địch, tay sai. Ngày nay, công cuộc đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giúp đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Theo đó, từ một quốc gia kém phát triển, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, tiến bộ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; tiềm lực của đất nước, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng nâng cao,… điều đó đã được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”2.

Chính vì thế, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước khởi đầu huy hoàng cho những giai đoạn tiếp theo của cách mạng Việt Nam, mãi là chân lý sáng ngời, in sâu vào ký ức của các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Chân lý sáng ngời đó sẽ góp phần xua tan những luận điệu đen tối, xuyên tạc, phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của các thế lực thù địch, phản động.

VŨ DŨNG

Phản bác luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam

 Gần 80 năm qua, sự ra đời và phát triển của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với những thành tựu to lớn đạt được đã khẳng định tính cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Thế nhưng, các thế lực thù địch luôn tìm cách bóp méo, xuyên tạc tư tưởng, phủ nhận công lao của Người về vấn đề này. Đó là dã tâm đen tối, luận điệu trơ trẽn, phản động cần phải vạch trần, bác bỏ.



Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Thanh tra (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XV. Ảnh: TTXVN.

Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh - từ lý luận đến thực tiễn


Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới là hệ thống luận điểm về bản chất, tính chất và yêu cầu xây dựng một nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đối lập với mô hình nhà nước của thiểu số kẻ thống trị. Với khát vọng tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần quan điểm “chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội”, nhưng theo Người, vấn đề quan trọng là bản chất của chính quyền nhà nước đó. Trên cơ sở dày công nghiên cứu các mô hình nhà nước đương thời, nhất là nhà nước tư sản ở Mỹ, Pháp,... Người nhận thấy, mặc dù mô hình nhà nước tư sản có những bước tiến bộ hơn so với nhà nước phong kiến chuyên chế, nhưng về bản chất, các nhà nước đó vẫn chỉ là sự thay thế ách thống trị của giai cấp bóc lột này bằng giai cấp bóc lột khác. Chỉ sau khi nghiên cứu về nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Người khẳng định: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra sẽ thi hành những nhiệm vụ,...”1. Người cũng chỉ rõ “Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử ra”2. Điều này có nghĩa là mọi lợi ích, quyền hành, lực lượng đều thuộc về dân và trách nhiệm xây dựng nhà nước là của toàn dân. Trên thực tế, ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẩn trương chỉ đạo tổ chức tổng tuyển cử, chỉ đạo xây dựng hệ thống pháp luật, đặc biệt là xây dựng Hiến pháp để đảm bảo cho Nhà nước ta là nhà nước dân chủ, pháp quyền. Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thể hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là cơ sở lý luận trực tiếp, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng nhà nước ta từ khi ra đời đến nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với sự đồng lòng, tin tưởng và ủng hộ của nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng và ngày càng hoàn thiện, thực sự là nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, sau gần 40 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ngày càng hoàn thiện và có những bước phát triển mới, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đóng góp vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Điều đó càng khẳng định và minh chứng giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.


Nhận diện và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc


Với dã tâm, mưu đồ đen tối, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, mượn danh “nghiên cứu lịch sử”,… để xuyên tạc và phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh; trong đó, xuyên tạc tư tưởng về nhà nước kiểu mới là một trọng tâm của chúng.


Một là, chúng xuyên tạc, cho rằng: “Hồ Chí Minh không tuân thủ mô hình nhà nước công nông binh do Đảng Cộng sản Việt Nam chọn từ năm 1930, mà chọn mô hình nhà nước “cộng hòa” kiểu Pháp, không phải là nhà nước chuyên chính vô sản”. Đây là luận điệu thể hiện rõ mưu đồ đen tối nhằm xuyên tạc và phủ nhận công lao của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc kiến tạo nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng ta biết, trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã nghiên cứu kỹ lưỡng các mô hình nhà nước trên thế giới và phác họa mô hình “Chính phủ công nông binh” - nhà nước chuyên chính vô sản. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5/1941), Người đã đề xuất mô hình Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với mục tiêu “độc lập - tự do - hạnh phúc”, tạo nền tảng để tập hợp lực lượng và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng thành công, đảm bảo sự ra đời của nhà nước chuyên chính vô sản. Người đã soạn thảo và thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” công bố với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới, tên gọi “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” - một quốc gia tự do, độc lập. Trong nhà nước này, nhân dân là chủ nhân, với tất cả quyền hành, lực lượng, lợi ích đều thuộc về dân. Như vậy, việc lựa chọn và đặt tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ mô hình nhà nước công nông binh sang mô hình nhà nước đại diện cho khối đoàn kết toàn dân là bước đi sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, phù hợp với đặc thù và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Đó thực chất vẫn là một nhà nước chuyên chính vô sản, chứ không phải “mô hình kiểu Pháp” như các thế lực thù địch đang bịa đặt, rêu rao.


Hai là, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chúng viện dẫn việc Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời, bao gồm các đảng phái: Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và mời các nhân sĩ, trí thức tham gia Đoàn Cố vấn tối cao của Chính phủ mới để xuyên tạc rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh áp đặt ở Việt Nam không mang bản chất giai cấp công nhân, mà mang tính chất tư sản, tiểu tư sản”. Phải khẳng định rằng, ngay từ đầu, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam luôn mang bản chất giai cấp công nhân và được thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc. Khi chỉ đạo xây dựng Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”3. Nghĩa là, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, hướng đến mục tiêu đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, ngay sau khi Nhà nước ta ra đời, trước tình thế phải tổ chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai để bảo vệ thành quả cách mạng và chính quyền non trẻ nên việc tập hợp các đại biểu của các đảng phái yêu nước, thậm chí “rút bớt các thành viên cộng sản” để lập chính phủ mới là một sách lược mềm dẻo, sáng tạo và linh hoạt. Điều này thể hiện tầm nhìn và trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, nhằm quy tụ, tập hợp lực lượng và hoàn toàn không phải như các thế lực thù địch xuyên tạc, bịa đặt.


Ba là, phủ nhận tính pháp quyền của nhà nước kiểu mới ở nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng: “Nhà nước mà Hồ Chí Minh xây dựng là nhà nước của dân, do dân, vì dân chỉ là mị dân, không có tính pháp lý” và lập luận rằng: “không thể xây dựng một nhà nước dân chủ trong một đất nước nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam; thể chế nhà nước dân chủ chỉ có ở các nước phát triển phương Tây”, v.v. Những luận điệu này thực chất nhằm xóa nhòa những giá trị lý luận và thực tiễn về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, lãnh đạo thực hiện. Trên thực tế, ngay từ năm 1919, trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Chính phủ Pháp và chính quyền thuộc địa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu ban hành hiến pháp, bãi bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng các đạo luật và khẳng định: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền hợp hiến, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là điểm nổi bật trong xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam của Hồ Chí Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách là phải có một hiến pháp dân chủ và đề nghị “Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay” cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu trong cả nước để sớm có quốc hội và nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra vào ngày 06/01/1946. Sau đó, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ của toàn dân. Như vậy, cả trong tư tưởng và thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn coi trọng tính pháp lý và vai trò làm chủ của nhân dân trong nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Điều này đã phản bác hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, cho rằng đó là “nhà nước mị dân, không có tính pháp lý”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng chân chính, cả cuộc đời luôn phấn đấu vì dân, vì nước và thực tiễn trong suốt 24 năm đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch nước, Người đã cống hiến hết mình vì dân tộc, cùng toàn Đảng, toàn dân đạt được những thắng lợi to lớn. Mong muốn tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”4, và “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”5. Dù có nhìn ở khía cạnh nào đi chăng nữa, thì thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng ngời, tận trung với nước, tận hiếu với dân, không như những gì các thế lực thù địch bôi nhọ, xuyên tạc.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một sự nghiệp cách mạng vĩ đại, cùng di sản tư tưởng vô giá, trong đó có tư tưởng về nhà nước kiểu mới. Nắm vững tư tưởng của Người, vận dụng và phát triển sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ, mà còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đó là hành động thiết thực nhất phản bác, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch vững mạnh, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN SỸ HỌA - Đại tá, TS. ĐÀM QUANG ĐỨC

Lật tẩy chiêu trò đả kích, bôi nhọ của các thế lực thù địch sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần

 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần là một mất mát vô cùng to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Trong khi nhân dân cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới dành sự tôn kính, tiếc thương về sự ra đi của người đứng đầu Đảng ta thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc.

Giở trò “hội luận” và những thủ đoạn xuyên tạc

Thế nhưng với bản chất chống phá Việt Nam, trên các trang mạng xã hội của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị lại có những bài viết, hình ảnh, video phản cảm nhằm xuyên tạc, phủ nhận những cống hiến, đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một trong số các tổ chức thường xuyên tung tin sai trái, xuyên tạc là tổ chức phản động, khủng bố Việt Tân. Trên trang mạng xã hội, tổ chức này đưa ra lời lẽ lố bịch rằng “Đảng trưởng của một Đảng độc tài, dù có công cũng chỉ là có công với Đảng của họ, còn đối với đất nước chỉ có tội…”. Trang này còn vu cáo rằng “Triều đại của ông Trọng đã phơi bày tình trạng đấu đá nội bộ gay gắt, không quan tâm đến đời sống người dân”; đưa ra luận điệu lố bịch xuyên tạc Tổng Bí thư “là người cuồng tín chủ nghĩa Mác, Lênin”, “kìm kẹp sự phát triển của đất nước”…

Trên một số trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã đưa ra những bình luận hùa theo, phủ nhận thành quả công cuộc phòng, chống tham nhũng dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư, nói rằng “công cuộc đốt lò thất bại hoàn toàn”, “còn lại điều gì từ công cuộc củi, lửa”, “cụ Tổng đi, lò lửa tắt, nhiều kẻ theo đóm ăn tàn”…

Bên cạnh đó, ngày 21/7/2024, Việt Tân còn tổ chức ra cái gọi là “Diễn đàn ước mơ canh tân” dưới dạng hội luận với chủ đề “Ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, tình hình Việt Nam sẽ chuyển biến ra sao”? Hội luận dưới sự chủ trì của Lý Thái Hùng và khách mời là các đối tượng bất mãn, thù địch với Việt Nam như thành viên cái gọi là “Hội anh em dân chủ” Nguyễn Văn Đài. Họ còn xảo biện rằng “công cuộc đốt lò sẽ lụi tàn” khi “người đốt lò vĩ đại đã nằm xuống”, “tất cả chỉ còn công cốc”… Ngoài ra, đối tượng Lê Quốc Quân cũng đăng tải bài viết “Di sản Nguyễn Phú Trọng” với nội dung xuyên tạc, hạ bệ những thành tựu mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong nhiều năm qua, nhất là công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, những thành tựu trong lĩnh vực ngoại giao.

Thực tế cho thấy, trước sự mất mát của một nhà lãnh đạo được nhân dân quý trọng, một nhân cách lớn, sự tiếc thương về người bạn chí nghĩa, chí tình được lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế đánh giá cao thì các thế lực thù địch, phản động càng thể hiện bộ mặt đớn hèn, đáng xấu hổ, phản văn hóa. Mục đích của các đối tượng nhằm bôi xấu, kích động chia rẽ trong nội bộ, gây nên sự phân tâm trong các tầng lớp nhân dân về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Từ đó, tạo ra sự lo lắng về vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Minh chứng khách quan và những đánh giá của các quốc gia, tổ chức quốc tế

Với 80 năm tuổi đời, gần 57 năm tuổi Đảng, 14 năm trên cương vị Tổng Bí thư, hơn 2 năm trên cương vị Chủ tịch nước, hơn 5 năm trên cương vị Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn cống hiến, nỗ lực vì sự vững mạnh của Đảng, đất nước ngày càng phát triển, cường thịnh. Với nền tảng tri thức cùng sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn quá trình đổi mới đất nước, trải qua nhiều cương vị quan trọng do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đặc biệt, trong 3 nhiệm kỳ Đại hội Đảng XI, XII, XIII, Tổng Bí thư đã có những cống hiến to lớn, xuất sắc đối với công cuộc đổi mới đất nước, mang lại giá trị cả về phương diện lý luận và thực tiễn.

Trong những đóng góp to lớn của Tổng Bí thư, có thành quả công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực tế đã chứng minh trong công cuộc“đốt lò” do Tổng Bí thư khởi xướng và chỉ đạo với nguyên tắc “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “thà chặt một cành sâu để cho cây xanh tốt” đã góp phần quan trọng làm cho Đảng, hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh. Theo báo cáo do Tổ chức Minh bạch quốc tế công bố đầu năm 2023, Việt Nam là 1 trong 6 quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tiến bộ nổi trội về phòng, chống tham nhũng, tăng 10 bậc trên bảng xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát, từ xếp thứ 87 (năm 2021) lên xếp thứ 77 (năm 2022), tăng hơn 30 bậc trong 10 năm. Điều này cho thấy nỗ lực, quyết tâm của Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Không phải như luận điệu các đối tượng xấu tuyên truyền rằng, Tổng Bí thư ra đi thì lò cũng tắt, “công cuộc đốt lò trở thành công cốc” mà từ thành công của công cuộc phòng, chống tham nhũng sẽ tiếp tục được Đảng ta đẩy mạnh. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ, đẩy lùi vấn nạn này đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ và là công việc chung của mọi tổ chức, mọi tầng lớp nhân dân chứ không phải việc riêng của một, vài người.

Trong Điếu văn đọc tại Lễ truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định: “Chúng ta thành kính, tôn vinh và biết ơn sâu sắc công lao, cống hiến vô cùng to lớn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Ghi nhận những công lao, cống hiến đặc biệt xuất sắc của đồng chí, Đảng, Nhà nước đã trân trọng trao tặng Huân chương Sao vàng, phần thưởng cao quý nhất; nhưng hơn hết, đồng chí mãi mãi thuộc về Tổ quốc và nhân dân… Vĩnh biệt đồng chí, nhà lãnh đạo kết tinh phẩm giá, nhân cách của Đảng, hiện thân của hòa bình, thống nhất và tiến bộ; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nguyện một lòng thực hiện ước nguyện của đồng chí, khắc cốt ghi tâm lời căn dặn “Nếu là người, hãy là người Cộng sản”, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên định con đường mà Đảng, Bác Hồ và các thế hệ đi trước, trong đó có đồng chí đã lựa chọn”…

Không chỉ trên cương vị người đứng đầu Đảng mà trong đời sống hằng ngày, đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn thể hiện phong cách, lối sống giản dị, mực thước, thực sự gần gũi, cởi mở, ân tình với nhân dân. Nhân dân gọi với cái tên trìu mến “Bác Trọng”, “Bác Tổng Bí thư”. Không chỉ ở đời sống hiện thực mà trên các mạng xã hội vốn trước kia náo động, ồn ào thì những ngày qua, tất cả đều trầm lặng, rất nhiều tài khoản mạng xã hội thể hiện tình cảm bằng thay ảnh đại diện, ảnh bìa bằng hình ảnh Tổng Bí thư, cờ rủ Quốc tang màu đen trắng. Cùng với đó là những bài viết, những kỷ niệm hay những đánh giá thể hiện góc nhìn về tài năng, đức độ của Tổng Bí thư, chia sẻ những bài viết xúc động từ các báo hay mạng xã hội khác. Trong hai ngày Quốc tang, tại 3 điểm viếng theo quy định của Ban Tổ chức, hàng vạn người không quản đường sá, thời tiết đã trật tự xếp thành hàng dài, trong đó rất nhiều người xếp hàng tới nửa đêm để chờ được vào viếng Tổng Bí thư. Hàng vạn người cũng đứng trật tự hai bên đường, tiễn đoàn xe đưa linh cữu Tổng Bí thư về an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội. Những hình ảnh đó, hiện thực đó đã nói lên tất cả về tình cảm, sự tiếc thương của người dân dành cho người đứng đầu Đảng ta như thế nào.

Sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng để lại niềm tiếc thương sâu sắc trong chính khách, bạn bè quốc tế. Lãnh đạo các quốc gia, tổ chức quốc tế, các đảng chính trị trên thế giới đã gửi thư, điện, lời chia buồn với Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam. Chiều 20/7, tại Bắc Kinh, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc viếng, chia buồn sâu sắc và ghi sổ tang trước việc đồng chí Nguyễn Phú Trọng từ trần. Đồng chí Tập Cận Bình khẳng định, Trung Quốc luôn ghi nhớ những đóng góp to lớn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống "vừa là đồng chí, vừa là anh em" giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kiên định ủng hộ Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đoàn kết, lãnh đạo nhân dân Việt Nam vững bước trên con đường phát triển của mình.

Trong thư chia buồn của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin có đoạn: “Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã hiến dâng cả cuộc đời để phụng sự Tổ quốc. Qua nhiều năm công tác trên các cương vị trọng trách của Nhà nước và Đảng, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự kính trọng sâu sắc của người dân Việt Nam và có uy tín lớn trên trường quốc tế. Nước Nga sẽ nhớ đến Tổng Bí thư như một người bạn thật sự có đóng góp cá nhân to lớn cho việc thiết lập và phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa Moskva và Hà Nội”. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres chia sẻ đau thương và mất mát to lớn của nhân dân Việt Nam trước sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Thư ký nhấn mạnh, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, Việt Nam tiếp tục con đường phát triển mạnh mẽ trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh hàng đầu thế giới và là một đối tác quan trọng của Liên hợp quốc. Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc Dennis Francis ca ngợi Tổng Bí thư là một nhà lãnh đạo tận tụy, đã cống hiến cho Tổ quốc mình trong hơn một thập kỷ qua.

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden gửi lời chia buồn sâu sắc tới nhân dân Việt Nam và gia đình Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về mất mát to lớn này. Thông điệp của Tổng thống Biden có đoạn viết: “Nhờ tầm nhìn của Ngài Tổng Bí thư, trong chuyến thăm cấp nhà nước năm 2023 của tôi tới Hà Nội, Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở thành "Đối tác chiến lược toàn diện", mức độ đối tác cao nhất trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Nhờ tình hữu nghị giữa hai nước chúng ta, người dân Việt Nam và Hoa Kỳ cũng như người dân trên khắp khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ngày nay được sống trong môi trường an ninh và những cơ hội lớn hơn. Đó là nhờ công lao của Ngài Tổng Bí thư. Đất nước Hoa Kỳ và cá nhân tôi sẽ luôn ghi nhớ, đánh giá cao cam kết của Ngài trong hàn gắn và xây dựng một tương lai vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực và trên thế giới. Chúng tôi tôn vinh di sản của Ngài Tổng Bí thư và cùng với người dân Việt Nam xin được tỏ lòng tiếc thương sự ra đi của Ngài”.

Bức điện của Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol có đoạn viết: “Tôi cảm thấy tiếc thương vô hạn trước tin Ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhà lãnh đạo vĩ đại của đất nước Việt Nam từ trần. Thay mặt cho Chính phủ và nhân dân Hàn Quốc, tôi thành kính chia buồn cùng gia quyến và nhân dân Việt Nam đã mất đi một nhà lãnh đạo đáng kính. Những thành tựu và tâm nguyện của Ngài Tổng Bí thư vì sự phát triển rực rỡ của đất nước Việt Nam và nhằm làm sâu sắc quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ còn mãi trong tâm trí của Nhân dân hai nước”. Bức điện của Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio có đoạn viết: “Tôi vô cùng bàng hoàng và đau buồn khi nhận được tin Ngài Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ trần. Thay mặt Chính phủ và Nhân dân Nhật Bản, tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới Chính phủ, Nhân dân Việt Nam cũng như toàn thể gia quyến Ngài Tổng Bí thư”. Đặc biệt, theo thông cáo đăng tải trên nhật báo Granma, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Cuba, Cuba để tang chính thức tưởng niệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ 6h ngày 20/7 tới 24h ngày 21/7 (giờ địa phương), trong khi nghi thức Quốc tang sẽ diễn ra trong cả ngày 22/7 để bày tỏ tiếc thương sâu sắc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng… Về dư luận quốc tế, trên nhiều tờ báo lớn của các quốc gia cũng có những bài viết, hình ảnh ca ngợi công lao của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phản cảm, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã phải nhận về sự phản đối, tẩy chay của cộng đồng mạng. Đối với nhiều người, mọi hành động bôi nhọ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không thể làm hoen ố hình ảnh người Cộng sản chân chính vừa mất mà qua đó cho thấy bộ mặt xấu xa, hành vi ti tiện của những kẻ xảo trá, luôn nhân danh “đấu tranh vì dân chủ, công bằng xã hội”.

Luận điệu xuyên tạc, chống phá con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay

 Ngay từ khi Việt Nam xác lập và quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH cũng là lúc các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội đòi thay đổi, từ bỏ con đường CNXH, muốn đất nước ta lùi về giai đoạn dân chủ nhân dân, đòi đổi tên Đảng, tên nước, công khai hô hào đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa (TBCN).

Gần đây, họ cho rằng, con đường mà Việt Nam muốn đi là thứ TBCN theo định hướng XHCN, nhưng con đường này không thể thành công vì không thể nào giải quyết thỏa hiệp giữa hai chủ nghĩa đối lập nhau.

cã¡ch mạng thã¡ng tã¡m.jpg -0
Mít tinh hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội sáng 19/8/1945. Ảnh tư liệu

Đặc biệt, sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô, các nước Đông Âu sụp đổ và ngày nay CNTB đã có sự điều chỉnh, thích nghi, có những yếu tố mới, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị gia tăng các hoạt động công kích, chống phá chế độ. Họ cho rằng CNXH là “không tưởng” để ra sức bôi đen, bóp méo CNXH hiện thực. Gần đây, các thế lực thù địch đưa ra luận điệu vu cáo rằng: “Đất nước giành chính quyền 79 năm mà dân vẫn khổ cực, từ người già đến trẻ nhỏ, nam giới hay phụ nữ rời bỏ thiên đường để xâm nhập vào tư bản Mỹ”. Nguy hại hơn, các đối tượng phản động lợi dụng một bộ phận người dân khó khăn trong cuộc sống, một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, có hành vi tham nhũng để miệt thị mục tiêu, lý tưởng của Đảng, dân tộc ta.

Bên cạnh đó, họ công công khai ca ngợi, ra sức cổ súy, tán dương chế độ TBCN khi cho rằng CNTB đã thay đổi về bản chất, CNTB có thể hội tụ với CNXH trong thời đại hậu công nghiệp, văn minh tin học. Họ lấy một số khuyết điểm về quản lý kinh tế, quản lý xã hội để hạ bệ, phủ nhận CNXH, xuyên tạc rằng, ở nước ta không có CNXH. Hiện nay, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, họ lại đòi hỏi những nhân tố của CNXH phải xuất hiện đầy đủ.

Không những thế, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tìm cách xuyên tạc lịch sử, đưa ra luận điệu lố bịch rằng vì mục tiêu XHCN mà Đảng ta gây ra cảnh chiến tranh cho dân tộc. Từ đó, các thế lực thù địch quy kết rằng chỉ có đi theo con đường TBCN thì mới giữ vững được nền độc lập, CNXH ở Việt Nam là ảo tưởng. Phương thức mà các thế lực thù địch sử dụng là triệt để khai thác tính năng của Internet như tốc độ lan truyền nhanh, lượng thông tin lớn, độ tương tác rộng; thiết lập nhiều tài khoản mạng xã hội như youtube, facebook, blog… để phát tán video, hình ảnh, bài viết có nội dung xấu độc, xuyên tạc hiện thực về thành quả thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

Những luận điệu nói trên của các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội tuy không mới nhưng hết sức nguy hại, mục đích nhằm gây sự hoài nghi, phá vỡ sự đồng thuận xã hội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân ta đối với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN, hướng lái đất nước đi vào con đường TBCN. Chính vì vậy, việc đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch; củng cố, giữ vững sự kiên định niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vào con đường XHCN là vấn đề vô cùng quan trọng của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay.