Trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta, “dựng nước phải đi đôi với giữ nước” đã trở thành bài học, quy luật tất yếu. Với tư tưởng đó, đất nước ta đã thường xuyên chủ động chuẩn bị về mọi mặt cho việc “giữ nước” ngay trong thời bình; coi trọng xây dựng, củng cố quốc phòng; tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Thực hiện quan điểm “quốc phú, binh cường”; “ngụ binh ư nông”, “trăm họ là binh, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, là thượng sách để giữ nước”. Ông cha ta đã tổng kết “thái bình nên gắng sức, non nước vững ngàn thu”. Trong xây dựng quân đội, thực hiện chủ trương “quân cốt tinh, không cốt đông”...
V.I.Lênin chỉ rõ: “Tất cả các lực lượng của nhân dân đều phải được động viên
cho cuộc chiến tranh đó. Cả nước phải trở thành một mặt trận cách
mạng”; và trong mọi cuộc chiến tranh, “thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần
của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”; “Chính vì chúng ta chủ
trương BVTQ, nên chúng ta đòi hỏi phải có một thái độ nghiêm túc đối
với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến
đấu của nước nhà”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có rất nhiều bài viết, bài nói,
chỉ đạo về sự nghiệp quốc phòng, BVTQ. Trong đó, Người khẳng định: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”; thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện... “Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt đảng phái, tôn
giáo... hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh giặc cứu nước. Ai có súng
dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có súng, gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gộc”...
Trong
những năm tới, dự báo môi trường chính trị, an ninh thế giới, khu vực tiếp tục
có những diễn biến phức tạp, khó dự báo. Các nước điều chỉnh chiến lược và
phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Tăng ngân sách quốc
phòng, chạy đua vũ trang ngày càng quyết liệt và trở thành xu thế phổ biến. Đặc
biệt, một số nước đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực quân sự
với những thế hệ vũ khí mới.
Bên
cạnh đó, chủ nghĩa dân túy, dân tộc cực đoan, thực dụng, cường quyền nước lớn
trong quan hệ quốc tế gia tăng; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc
gia; sự can dự, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn với các không gian
chiến lược mới (như: không gian mạng, không gian vũ trụ, lòng đất, lòng
biển...); các loại hình tác chiến mới đặt ra những thách thức mới đối với hòa
bình, ổn định trên thế giới, khu vực và độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của các nước, nhất là những nước nhỏ đang phát triển.
Cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghiệp số phát triển mạnh mẽ, tạo đột
phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phòng, tạo ra cả thời cơ,
thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sự xuất hiện của các loại vũ
khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại đã làm thay đổi cơ
bản tổ chức quân đội, hình thái, phương thức tiến hành chiến tranh. Đặc
biệt, sự ra đời của chiến tranh mạng đã tác động sâu sắc đến quốc phòng,
an ninh (QPAN) thế giới, khu vực và mỗi quốc gia.
Các
yếu tố an ninh phi truyền thống, khủng bố tiếp diễn phức tạp; xuất hiện nhiều
hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược và gần
đây là phong trào “bất tuân dân sự” có nhiều diễn biến phức tạp.
Khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm Đông Nam Á, có vị
trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa các
cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo diễn
ra ngày càng gay gắt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do an ninh, an toàn hàng hải,
hàng không trên Biển Đông đứng trước những thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung
đột.
Đặc
biệt, nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần đây trên thế giới cho thấy, mục đích,
hình thái chiến tranh, phương thức tiến hành chiến tranh ngày nay đã có nhiều
nội dung phát triển mới.
Về
mục đích chiến tranh đã có thay đổi từ giành dân, chiếm đất, khuất phục, nay
chuyển sang lật đổ chính quyền đương nhiệm và chế độ chính trị hiện tại là
chủ yếu. Chiến tranh ngày nay vì lợi ích quốc gia, dân tộc không phải chỉ do
mâu thuẫn giai cấp, mà nó có thể là do cạnh tranh giữa các nước lớn về siêu
cường quân sự; cũng có trường hợp để giải quyết mâu thuẫn bên trong mà đẩy mâu
thuẫn đó ra ngoài biên giới.
Về
không gian chiến tranh cũng mở rộng hơn, trên tất cả các môi trường: Trên
không, trên bộ, trên biển, không gian mạng, phổ điện từ, vũ trụ. Ranh giới
giữa tiền tuyến và hậu phương không phân biệt rõ ràng, do vũ khí có khả năng
đánh xa và khả năng cơ động được nâng cao, nhất là khả năng cơ động đường
không.
Thời
gian chuẩn bị chiến tranh thường dài, thời gian thực hành chiến tranh thường
ngắn, nhưng hậu quả chiến tranh rất nặng nề, tổn thất vô cùng lớn về vật chất,
tinh thần...
Lực
lượng tham gia chiến tranh không phải là một nước, mà chủ yếu tập hợp lực lượng
đồng minh, hình thành lực lượng liên quân. Ví dụ như cuộc chiến tranh Iraq năm
2003; chiến dịch quân sự của NATO ở Libya; can thiệp của Mỹ và liên quân vào
cuộc chiến Syria bắt đầu từ đầu năm 2011. Vũ khí, phương tiện chiến tranh
chủ yếu sử dụng vũ khí công nghệ cao, vũ khí thông minh, tác chiến điện tử
mạnh.
Phương thức tiến hành chiến tranh thường là: Tạo cớ để
phát động chiến tranh; coi trọng tác chiến “phi đối xứng” (là tác
chiến giữa hai bên có sự chênh lệch lớn về tiềm lực quân sự, vũ khí,
trang bị công nghệ hiện đại, lực lượng) và tác chiến “phi tiếp xúc” (đánh
trả gián tiếp, bên tiến công có thể phá hủy các mục tiêu trên lãnh thổ đối
phương mà không cần xâm phạm không phận và lãnh thổ của bên bị tiến công);
kết hợp chặt chẽ tiến công từ bên ngoài với bạo loạn lật đổ từ bên trong.
Các cuộc chiến tranh gần đây thường vận dụng hình thái chiến tranh ủy nhiệm và
hình thái chiến tranh bạo loạn lật đổ quy mô lớn kết hợp can thiệp quân sự nước
ngoài.
Cùng
với các đặc điểm, hình thái chiến tranh đề cập ở trên, thực tế đã xuất hiện
phong trào “bất tuân dân sự” nhằm thay đổi chế độ, lật đổ chế độ,
như: “Cách mạng cam” ở Ukraine; “Mùa xuân Ả Rập” ở các nước Trung Đông và
Bắc Phi những năm đầu thế kỷ 21...
* Từ những đặc điểm nêu trên, trên cơ sở xác định đối tác, đối tượng theo Nghị quyết Trung
ương 8 khóa XI về “Chiến lược BVTQ trong tình hình mới”; chúng ta dự báo đối tượng, tình huống quốc phòng như sau:
- Đối tượng quốc phòng, gồm:
(1). Các
thế lực thù địch hiếu chiến, đồng minh và tay sai có âm mưu, hành động xóa
bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ
trang (LLVT), chuyển hóa, lật đổ chế độ XHCN là đối
tượng cơ bản, lâu dài.
(2). Các
thế lực nước lớn và chư hầu có tham vọng, hành động xâm phạm chủ quyền lãnh
thổ, xâm hại lợi ích quốc gia-dân tộc của Việt Nam là đối tượng trực
tiếp, nguy hiểm, lâu dài.
(3). Tổ
chức phản động trong và ngoài nước, lực lượng cơ hội, suy thoái chính trị, đạo
đức, lối sống,“tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ, có tư tưởng và hành
động chống phá sự nghiệp cách mạng bằng biện pháp vũ trang; câu kết với
nhau, tiếp tay cho thế lực thù địch, hiếu chiến và thế lực nước lớn có tham
vọng chủ quyền lãnh thổ, đe dọa sự tồn vong của chế độ, độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ là đối tượng rất nguy hiểm.
Giữa
các đối tượng, đối tác có sự đan xen, chuyển hóa rất phức tạp. Lực lượng bên
trong tạo môi trường, tạo cớ cho thế lực thù địch bên ngoài thực hiện ý đồ
chiến lược. Các đối tượng bên ngoài tiếp tay, chỉ đạo, hỗ trợ vật chất, tài
chính cho đối tượng bên trong. Đồng thời các đối tượng có thể hỗ trợ, liên kết,
thỏa hiệp, gây ra các tình huống quốc phòng.
- Dự báo các tình huống quốc phòng:
(1).
“Diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, “cách mạng màu”, phát triển thành bạo
loạn vũ trang, can thiệp quân sự, lật đổ chế độ XHCN.
(2).
Các tình huống an ninh phi truyền thống có xu hướng gia tăng.
(3). Chiến
tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng diễn ra thường xuyên với
quy mô khác nhau.
(4). Xâm
phạm chủ quyền, xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc, xâm chiếm biển, đảo, xâm lấn
biên giới bằng biện pháp phi vũ trang hoặc vũ trang.
(5).
Chiến tranh biển, đảo; biên giới.
(6).
Chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
Các
tình huống quốc phòng trên có thể diễn ra lần lượt hoặc đồng thời.
Sau
35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín và vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao,
tạo ra những tiền đề quan trong để xây dựng và BVTQ.
Tuy
nhiên, sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN, bên cạnh thời cơ,
thuận lợi cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà
Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại. Sự nghiệp xây dựng nền QPTD đạt
được những kết quả quan trọng, nhưng vẫn đứng trước các khó khăn, thách
thức. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) với tăng
cường QPAN ở một số lĩnh vực, một số địa phương, đơn vị cần phải nghiên cứu
triển khai chặt chẽ, hiệu quả hơn. Những vấn đề phức tạp về quốc phòng
ngày càng công khai, quyết liệt và trực diện.
Như
vậy, trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước và đặc điểm chiến
tranh, chúng ta cần chủ động đánh giá, dự báo đúng, đề ra đối sách xử lý kịp
thời; có chủ trương, biện pháp, quyết tâm mạnh mẽ, chủ động phòng ngừa, kiên
quyết ngăn chặn, xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng, không để đất nước
bị động, bất ngờ về chiến lược. Tuyệt đối không được chủ quan, mất cảnh giác.
Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục xác định: Phát huy cao nhất sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại,
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân, chế độ XHCN, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị...; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển.
Đây
là quan điểm, chủ trương thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy mới của Ðảng đối
với nhiệm vụ quốc phòng, BVTQ, là định hướng chiến lược để toàn Ðảng, toàn
dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc
phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Đại
hội XIII của Đảng xác định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc”, hoàn toàn thống nhất mục tiêu phát triển “khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định...”.
Các
nội dung về mục tiêu BVTQ được Đại hội Đảng lần thứ XIII kế thừa và
phát triển từ các kỳ đại hội trước, có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau
trong chỉnh thể thống nhất; bảo vệ lĩnh vực này cũng có nghĩa là góp phần bảo
vệ lĩnh vực khác và ngược lại, không xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa một lĩnh vực
nào; là sự thống nhất biện chứng giữa bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và sự thống nhất của Tổ quốc, lợi ích quốc gia dân tộc
với bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ nền văn hóa,
bảo vệ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước theo định hướng
XHCN.
Đây
là sự bổ sung, phát triển tư duy mới về lý luận sức mạnh BVTQ trong
khi tình hình thế giới, khu vực dự báo sẽ có diễn biến phức tạp, khó lường.
Điều này thể hiện việc kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam: Khi khó khăn, thử thách thì ý chí, khát vọng, lòng tự hào, tự tôn dân
tộc được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh vô địch để xây dựng và BVTQ.
Về
nhiệm vụ quốc phòng, Đại hội XIII của Đảng xác định: Củng cố quốc phòng,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của
Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó quân đội nhân dân (QĐND) là nòng cốt.
Khẳng
định củng cố quốc phòng, BVTQ là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”,
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, nhưng không coi nhẹ nhiệm vụ củng cố
quốc phòng. Củng cố quốc phòng là cơ sở tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho
nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; ngược lại, kinh tế phát triển, đất
nước mạnh lên sẽ là phương thức hữu hiệu để BVTQ. Đây là quan điểm lý luận cơ
bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung về quốc phòng, BVTQ trong tình
hình mới.
Để
thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, BVTQ, Đại hội XIII của Đảng xác
định: Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ
xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh
chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế.
Kinh
nghiệm lịch sử cho thấy: Càng chuẩn bị tốt cho sẵn sàng chiến tranh thì chiến tranh
càng lùi xa. Đây là sự kế thừa kinh nghiệm quý, phương thức giữ nước đặc sắc
của dân tộc và được bổ sung, phát triển đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nền QPTD là
sức mạnh quốc phòng của đất nước, được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh
thần, nhân lực, vật lực, tài chính, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc
lập, tự chủ, tự cường. Nội dung xây dựng nền QPTD bao gồm xây
dựng tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng, thế trận quốc phòng.
Tiềm
lực quốc phòng (TLQP) là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở
trong nước và ngoài nước có thể huy động được để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.
TLQP của đất nước là vấn đề quan trọng, tạo nền tảng cho việc củng cố, nâng cao
sức mạnh, đáp ứng được yêu cầu BVTQ.
Tăng
cường TLQP là một trong những đột phá về tư duy và tổ chức thực hiện xây dựng
nền QPTD của Đảng, nhằm tạo ra nguồn lực tổng hợp bảo đảm tốt nhất
cho nhiệm vụ quốc phòng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và
hội nhập quốc tế.
Kế
thừa và phát triển quan điểm trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (năm 1991) và Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về “Chiến
lược BVTQ trong tình hình mới”; Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: Tăng cường tiềm
lực QPAN; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong
nền QPTD và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế
trận QPTD và thế trận an ninh nhân dân.
Xây
dựng TLQP cần xây dựng đồng bộ, thống nhất các tiềm lực: Tiềm lực chính trị,
tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội; tiềm lực khoa học - công nghệ; tiềm lực quân sự; phải bắt đầu từ xây dựng thế
trận quân sự, dựa vào nhân dân, xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần, lấy xây
dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là then chốt. Cần đặc biệt coi trọng xây
dựng tiềm lực chính trị tinh thần, đặt tiềm lực này lên vị trí hàng đầu và thực
hiện tốt quan điểm “người trước, súng sau” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính vì
thế Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận
lòng dân” trong nền QPTD...
Bên
cạnh những nhận thức mới và tư duy mới về an ninh quốc gia, xây dựng lực lượng
Công an nhân dân đã được Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định rõ;
trong lĩnh vực quốc phòng, chúng ta phải nắm chắc những vấn đề cơ bản về xây
dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ (DQTV). Trong bộ đội chủ
lực có lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên (DBĐV).
Lực lượng thường trực của QĐND có bộ đội chủ lực và bộ đội địa
phương. QĐND đã được Đảng và Bác Hồ xác định: Quân đội ta là quân đội cách
mạng, “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”. Chức
năng cơ bản đó đã được khẳng định và phát huy hơn 75 năm qua.
Thực hiện chức năng đội quân chiến đấu:
Thời gian tới, phải tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo; phương
pháp huấn luyện, diễn tập tác chiến phòng thủ quân khu; diễn tập chiến đấu hiệp
đồng quân, binh chủng; diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, huyện; diễn tập phòng,
chống các thách thức an ninh phi truyền thống; diễn tập, luyện tập các phương
án tác chiến BVTQ trên không gian mạng; diễn tập phòng, chống dịch bệnh, bão
lũ, thiên tai...
Thực hiện tốt nhiệm vụ phòng thủ dân sự, ứng phó với các tình
huống an ninh phi truyền thống (phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai,
bão lũ, cứu hộ, cứu nạn, sự cố môi trường, dịch bệnh). Và đây được xác định là
nhiệm vụ chiến đấu của Quân đội ta trong thời bình.
Thực hiện chức năng đội quân công
tác và đội quân lao động sản xuất:
QĐND luôn là lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động
quần chúng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, các đơn vị quân đội tích
cực thực hiện công tác dân vận, tham gia xây dựng, phát
triển KT-XH ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Phối
hợp chặt chẽ với các địa phương trên địa bàn đóng quân, tích cực tham gia xoá
đói, giảm nghèo, phát triển KT-XH, góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
Các
đơn vị KTQP luôn được phát triển, tạo ra nhiều sản phẩm lưỡng dụng, sản phẩm
công nghệ có giá trị cao, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế quốc dân, hoàn thành
tốt nhiệm vụ quốc phòng kết hợp với phát triển KT-XH. Thực tế những năm
qua, Quân đội ta đã triển khai xây dựng, phát huy tốt vai trò nòng cốt của 28
khu KTQP, tham gia phát triển KT-XH ở địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo;
xây dựng các làng, bản thành phên giậu vững chắc nơi biên cương của Tổ quốc;
vùng sâu, vùng xa, vùng chiến lược trọng yếu.
Để
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây
dựng và BVTQ trong tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng đã xác định phương
hướng, mục tiêu: Xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến
năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh. Đến năm 2030, một số quân
chủng, binh chủng, lực lượng ưu tiên lên hiện đại hoàn thành hiện đại. Từ năm
2030 xây dựng QĐND hiện đại.
Đại
hội XIII của Đảng tiếp tục xác định: Xây dựng, phát triển công nghiệp quốc
phòng hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ BVTQ, vừa góp
phần quan trọng phát triển KT-XH.
Đại hội
XIII của Đảng xác định xây dựng lực lượng DBĐV hùng hậu, chất lượng ngày càng
cao; là một thành phần của QĐND; là lực lượng quan trọng
góp phần xây dựng nền QPTD, thế trận chiến tranh nhân
dân; sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực khi có yêu cầu; đáp
ứng nhiệm vụ xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trong tình hình
mới.
Thực
hiện “ngụ binh ư nông”, lực lượng DBĐV được tổ chức, sắp xếp theo hướng
gọn đầu mối, địa bàn, cân đối giữa các vùng miền, có tổ chức và quân số phù
hợp, đáp ứng yêu cầu động viên cả thời bình và thời chiến.
Đại
hội Đảng lần thứ XIII xác định, xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh, rộng khắp
trên các vùng, miền, trên biển.
Thực hiện “trăm họ là binh”, trong các cuộc huấn luyện,
diễn tập, Bộ Quốc phòng đều gắn lực lượng DQTV với các nhiệm vụ để
phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của các lực lượng; đã xây dựng các chốt chiến
đấu dân quân thường trực nơi biên giới với các chốt dân cử tăng cường lực lượng
nơi biên giới. Vừa qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã
tham mưu cho Bộ Chính trị và Chính phủ triển khai Đề án xây dựng hải đội dân
quân thường trực tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới; sẽ tổ
chức trước ở 14/28 tỉnh có biển.
Cùng
với xây dựng "thế trận lòng dân", kết hợp QPAN với KT-XH; xây dựng
thế trận quốc phòng cần phải: Xây dựng khu vực phòng thủ (KVPT) quân khu
vững mạnh toàn diện; xây dựng các tỉnh, thành phố thành KVPT vững chắc; xây
dựng thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Luật
Quốc phòng năm 2018 quy định: KVPT bao gồm các hoạt động về chính trị, tinh
thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, quân sự, an ninh, đối
ngoại; được tổ chức theo địa bàn cấp tỉnh, cấp huyện, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, lấy xây dựng cấp xã làm nền tảng để bảo vệ địa
phương.
Trong
thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Chính trị khóa X đã có Nghị quyết số 28-NQ/TW về
tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành KVPT vững chắc
trong tình hình mới; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có các nghị định, quyết
định để tổ chức, triển khai thực hiện, như: Nghị định số 30/2010/NĐ-CP,
Nghị định số 130/2015/NĐ-CP về huy động nhân lực, tàu
thuyền và phương tiện dân sự tham gia bảo vệ chủ quyền trên biển; Quyết định số
2412/2011/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp phát
triển KT-XH trên địa bàn cả nước giai đoạn 2011 - 2020...
Cùng
với các tiềm lực quốc phòng được đề cập ở phần trên, đối ngoại quốc phòng
(ĐNQP) là nội dung quan trọng đối với nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, nhằm phát huy
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp - nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách BVTQ từ sớm, từ
xa.
Công
tác ĐNQP trở thành một trong những trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại
giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Công tác hội nhập
quốc tế và ĐNQP đã góp phần quan trọng tăng cường lòng tin chiến lược, duy trì
môi trường hòa bình, hợp tác cùng phát triển; củng cố thế trận quốc phòng phục
vụ sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả
các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn
diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và
đối phó với chiến tranh xâm lược.
Nhận
thức đúng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay
là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, góp phần quan trọng vào
việc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Do đó, để thực hiện
tốt công tác quốc phòng, an ninh ở địa phương trong thời gian tới, đối với LLVT quận Ninh Kiều cần thực hiện các nội dung, nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt và thực hiện
nghiêm túc chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc
phòng, an ninh; nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an
ninh cho các đối tượng nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các
ngành, cán bộ, đảng viên và toàn dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác
quốc phòng, an ninh, nhiệm vụ xây dựng KVPT, nhiệm vụ BVTQ
trong thời kỳ mới; xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận QPTD
gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng LLVT
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
-
Phát huy vai trò của Cơ quan quân sự trong tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền
địa phương về công tác quân sự, QPAN; kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QPAN; xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây
dựng lực lương, tiềm lực, thế trận KVPT, cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân”,
xây dựng thế trận quân sự KVPT ngày càng vững chắc; phối hợp nắm chắc tình hình, chủ động tham
mưu xử lý có hiệu quả các tình huống, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội trên địa bàn.
-
Tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, chiến sỹ, LLVT có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung
thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân; có trình độ kỹ thuật,
chiến thuật, nghiệp vụ, khả năng sẵn sàng chiến đấu cao. Hoàn chỉnh hệ thống
văn kiện tác chiến phòng thủ ở cấp quận, phường
sát với tình hình phát triển KT-XH và khả năng thực tế ở địa phương. Nâng cao chất lượng huấn luyện,
diễn tập KVPT từng cấp, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện nhiệm vụ của cấp ủy, chính quyền và các lực lượng trong KVPT. Tăng cường
công tác vận động quần chúng của Đảng, công tác dân vận chính quyền; thực hiện
tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách người có công với cách mạng, chính
sách hậu phương quân đội nâng cao nhận thức chính trị, củng cố lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, củng cố kiện toàn
các tổ chức chính trị - xã hội, nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ các cấp đề ra một cách cụ thể, thiết thực, hiệu quả, xây dựng lòng tin
của nhân dân với Đảng, Nhà nước, xây dựng thế trận lòng dân vững mạnh, tạo sức
mạnh tổng hợp của LLVT quận;
kiên quyết đấu tranh với những luận điệu sai trái, phản động, đề cao cảnh giác
trước âm mưu, luận điệu xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch
góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn.
Cần khẳng định rằng, những
nhận thức và tư duy mới về quốc phòng, BVTQ trong Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng là những chủ trương lớn, đúng đắn, có ý nghĩa chiến lược; là kết quả của
việc tổng kết sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng về củng cố quốc phòng, BVTQ; kế
thừa, phát triển truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc, giữ nước của dân tộc.
Quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thắng lợi những chủ trương, quan điểm
của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng, BVTQ là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân; là kế sách giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy;
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ
vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét