Trong lịch sử
dân tộc, từng có những người phụ nữ làm nên đại cuộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu
... góp phần giành giữ nền độc lập cho Tổ quốc, và cũng từng có những nàng công
chúa lặng lẽ hy sinh để cha anh làm nên nghiệp lớn như Huyền Trân, An Tư, Ngọc
Vạn, Ngọc Khoa, ..., chính họ là những con người làm nên lịch sử.
Công chúa Huyền
Trân (1287-1340) là con gái vua Trần Nhân Tông và hoàng hậu Thiên Cảm, em gái của
Trần Anh Tông. Sách Việt sử giai thoại viết: "Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306),
thực hiện lời hứa trước đó của Thượng hoàng Trần Nhân Tông, vua Trần Anh Tông
đem Công chúa Huyền Trân gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân. Đáp lại, Chế
Mân đã đem đất hai châu Ô và Lý - vùng tương ứng với phần phía Nam tỉnh Quảng
Trị và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên ngày nay - dâng cho Đại Việt làm sính lễ".
Một năm sau, Chế Mân chết, Huyền Trân công chúa được vua Anh Tông sai tướng Trần
Khắc Chung cướp về (vì theo tục lệ Chiêm Thành, hễ Vua mất thì Hoàng hậu phải
lên giàn hỏa thiêu để chết theo). Sau đó bà xuất gia rồi mất vào năm 1340. Dân
chúng quanh vùng thương tiếc, tôn bà là Thần Mẫu và lập đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn.
Ngày bà mất sau này hàng năm trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân trên núi Ngũ
Phong ở Huế. Câu chuyện về công chúa được truyền tụng trong dân gian, khiến Huyền
Trân trở thành một trong những công chúa nổi tiếng nhất và ảnh hưởng nhất trong
lịch sử Việt Nam. Các triều đại sau đều sắc phong Huyền Trân công chúa là thần
hộ quốc. Hoàng đế triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa "trong việc giữ
nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là Trai Tĩnh Trung Đẳng
Thần.
Trong lịch sử Việt
Nam, có một nàng công chúa được mệnh danh là “Tịnh đế liên” - hoa sen quý hiếm,
thuần khiết, một đài hoa nở ra 2 bông hoa. Trong cuộc chiến lẫy lừng chống quân
xâm lược Nguyên Mông, nàng đã hy sinh hạnh phúc của mình để cưới tướng giặc
Thoát Hoan, cầu hoà cho đất nước. Đó chính là An Tư công chúa, còn gọi là Thiên
Tư công chúa, là con gái út của vua Trần Thái Tông (1218-1277). Bà cũng là em
gái của Trần Thánh Tông và là cô ruột của Trần Nhân Tông. Đại Việt sử ký toàn
thư ghi rằng: “Tháng 2 (năm Ất Dậu) ... Sai người đưa An Tư công chúa (em gái
út của vua Trần Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước
vậy". Trong Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ ghi rằng: "Thoát Hoan lên
sông Nhĩ Hà, cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông; quân ta theo hai bên
sông lập đồn để cự lại, không được; ngày đã về chiều, quân giặc qua được sông
vào kinh thành, vua sai đưa Thiên Tư Công chúa cho chúng, để thư nạn cho nước".
Đầu năm 1285, quân đội nhà Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long. Thánh
Tông Thái thượng hoàng và vua Trần Nhân Tông đi thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn
thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng đối phương nhưng quân
Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9/3 cùng năm, thủy quân Nguyên đã bao vây Tam Trĩ
suýt bắt được hai vua. Để có thời gian củng cố lực lượng, Thượng hoàng Trần
Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến kế mỹ nhân, dâng em gái út của mình cho tướng
giặc là Thoát Hoan để tạm cầu hòa. Theo lưu truyền trong dân gian, khi vào trại
giặc, An Tư công chúa đã làm nhiệm vụ mật báo nhiều tin tức quan trọng, giúp
quân nhà Trần rút lui một cách an toàn, có thời gian chuẩn bị thêm lực lượng,
và sau đó phản công thắng lợi trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông
lần thứ hai (năm 1285). Giáo sư Phạm Đức Dương, Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam
Á cho rằng nhà Trần trở thành triều đại vinh quang nhất trong lịch sử Đại Việt
vì đã 3 lần chiến thắng quân Nguyên, đội quân đã từng làm mưa làm gió khắp Á -
Âu. Trong chiến công chung đó người ta ghi nhận sự đóng góp, hy sinh thầm lặng
của những người phụ nữ, trong số ấy có công chúa An Tư. Người con gái "lá
ngọc cành vàng" ấy vì nợ nước đã ra đi không trở lại.
Công chúa Ngọc Vạn,
họ tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn, là con gái thứ hai của chúa Sãi Nguyễn
Phúc Nguyên (ở ngôi: 1613-1635). Bối cảnh lịch sử lúc này, tuy nhà Lê vẫn là
vương triều chính thống, tuy nhiên quyền lực thực sự nằm trong tay Chúa Trịnh ở
Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Năm 1620, công chúa Ngọc Vạn được gả
cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II và trở thành Hoàng hậu nước này với tước hiệu
là Somdach Prea Peaccayo dey Preavoreac. Nhờ có cuộc hôn phối này mà tình giao
hảo giữa hai nước được tốt đẹp, đồng thời cũng tạo thêm cơ hội cho người Việt mở
rộng lãnh thổ về phía Nam.
Công chúa Ngọc
Khoa, họ tên đầy đủ Nguyễn Phúc Ngọc Khoa, là con gái thứ 3 của chúa Sãi Nguyễn
Phúc Nguyên và là em gái công chúa Ngọc Vạn. Tương tự như số phận của chị gái, năm
1631 được gả cho vua Chiêm Thành là Pôrômê. Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình
giao hảo giữa hai nước Việt - Chiêm được tốt đẹp. Xét đến cùng đây là một cuộc
hôn nhân mang màu sắc chính trị có tầm quan trọng đặc biệt đối với lịch sử dân
tộc Việt Nam./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét