Thứ Ba, 1 tháng 11, 2022

Toàn văn Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc

 

 “1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ ngày 30 tháng 10 đến ngày 01 tháng 11 năm 2022.

Trong chuyến thăm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình; nhận Huân chương Hữu nghị của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thay mặt Đảng, Chính phủ Trung Quốc trao tặng; hội kiến Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Nhân đại toàn quốc Lật Chiến Thư, Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc Uông Dương. Tại các cuộc hội đàm, hội kiến, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước; đi sâu trao đổi ý kiến và đạt được nhiều nhận thức chung quan trọng về quan hệ hai Đảng, hai nước Việt - Trung và tình hình quốc tế, khu vực hiện nay.

2. Phía Trung Quốc đã thông báo cho phía Việt Nam những kết quả chủ yếu về Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc. Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc thành công tốt đẹp, đánh giá cao những thành quả chiến lược to lớn mà Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc do đồng chí Tập Cận Bình làm hạt nhân đã đoàn kết, dẫn dắt nhân dân Trung Quốc đạt được trong quá trình kiên trì và phát triển chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy Trung Quốc hóa, thời đại hóa chủ nghĩa Mác, hoàn thành mục tiêu phấn đấu 100 năm thứ nhất, xây dựng thành công toàn diện xã hội khá giả, đánh thắng trận chiến công kiên thoát khỏi đói nghèo, không ngừng phát triển và hoàn thiện nền dân chủ nhân dân toàn quá trình, phát triển kinh tế và phòng chống dịch, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là thực tiễn sinh động, kinh nghiệm quý báu cho các nước đang phát triển tham khảo.

Phía Việt Nam chúc và bày tỏ tin tưởng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc do đồng chí Tập Cận Bình làm hạt nhân, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ tiếp tục mở rộng và làm phong phú con đường hiện đại hóa kiểu Trung Quốc, thúc đẩy mạnh mẽ công trình vĩ đại mới về xây dựng Đảng, hoàn thành đúng thời hạn các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra, thực hiện thắng lợi mục tiêu phấn đấu 100 năm thứ hai, xây dựng Trung Quốc trở thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại, giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp.

Phía Việt Nam thông báo cho phía Trung Quốc những kết quả chủ yếu của Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Phía Trung Quốc đánh giá cao những thành tựu to lớn, chưa từng có mà Việt Nam đã đạt được sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Đặc biệt, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đạt nhiều kết quả tích cực, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; kinh tế tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; kiểm soát thành công đại dịch Covid-19; đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện; vị thế quốc tế ngày càng nâng cao, thể hiện tiềm lực và tương lai tươi sáng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.

Phía Trung Quốc chúc và tin tưởng dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ to lớn mà Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra, sớm đưa Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa; có vai trò quan trọng hơn nữa đối với hòa bình, ổn định và phồn vinh ở khu vực và thế giới.

3. Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc vừa là láng giềng tốt, bạn bè tốt, núi sông liền một dải, vừa là đồng chí tốt, đối tác tốt cùng chung chí hướng, chia sẻ vận mệnh chung, cùng dốc sức vì nhân dân hạnh phúc, đất nước giàu mạnh và sự nghiệp cao cả hòa bình và phát triển của nhân loại.

Hai bên đã nhìn lại quá trình phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc, Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước đã dành cho nhau sự giúp đỡ quý báu và trong sáng. Trong thời kỳ đổi mới và cải cách mở cửa, hai bên đẩy mạnh trao đổi kinh nghiệm, hợp tác cùng có lợi, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình mỗi nước, đạt được những thành tựu phát triển mang tính lịch sử. Hai bên nhất trí cho rằng tình hữu nghị truyền thống vừa là đồng chí, vừa là anh em do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo tiền bối đích thân gây dựng và dày công vun đắp là tài sản quý báu của nhân dân hai nước, cần tiếp tục được kế thừa tốt, bảo vệ tốt và phát huy tốt.

Hướng tới tương lai, hai Đảng, hai nước cần kiên trì phương hướng tiến lên, thúc đẩy chủ nghĩa xã hội không ngừng phát triển, thể hiện ưu thế và tương lai tươi sáng của thể chế xã hội chủ nghĩa.

Hai bên nhấn mạnh, kiên định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm tình hình mỗi nước, cần tăng cường đoàn kết hợp tác, giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng làm sâu sắc nhận thức đối với quy luật cầm quyền của Đảng Cộng sản, quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội và quy luật phát triển của xã hội loài người; kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng Đảng và xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi Đảng không ngừng phát triển, cùng nỗ lực vì sự nghiệp hòa bình, tiến bộ của nhân loại.

4. Hai bên đánh giá tình hình thế giới đang trải qua những biến đổi mang tính lịch sử, sâu sắc, khó lường, bước vào thời kỳ biến động mới. Hai Đảng, hai nước cần kiên trì thực hiện mục tiêu, lý tưởng và sứ mệnh vì hạnh phúc nhân dân, vì tiến bộ nhân loại; kiên trì nhìn nhận và phát triển quan hệ song phương trên tầm cao chiến lược và tầm nhìn dài hạn; kiên trì phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển lâu dài, lành mạnh, ổn định trong thời đại mới.

Để làm được điều đó, hai bên cần tăng cường trao đổi chiến lược, tin cậy chính trị, kiên trì bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, nắm chắc phương hướng tiến lên đúng đắn của quan hệ Việt - Trung; đi sâu hợp tác cùng có lợi, thúc đẩy hài hòa lợi ích giữa hai nước, góp phần mang lại hạnh phúc và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát huy truyền thống hữu nghị, tăng cường giao lưu giữa nhân dân hai nước, đặc biệt là kết nối gặp gỡ, gia tăng hiểu biết và gắn kết tình cảm giữa các thế hệ trẻ; xử lý thỏa đáng bất đồng liên quan trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, giữ gìn cục diện quan hệ Việt - Trung và hòa bình, ổn định ở khu vực, tạo môi trường bên ngoài tốt đẹp cho sự phát triển của hai nước; tăng cường phối hợp trên các vấn đề quốc tế, chung tay ứng phó với các thách thức mang tính khu vực và toàn cầu, đóng góp tích cực vào duy trì hòa bình, thúc đẩy cùng phát triển ở khu vực và trên thế giới.

5. Hai bên cho rằng, việc Lãnh đạo cao nhất của hai Đảng duy trì trao đổi thường xuyên, định hướng, dẫn dắt quan hệ Việt - Trung, có vai trò định hướng chiến lược quan trọng đối với sự phát triển của quan hệ hai Đảng, hai nước.

Hai bên nhất trí, tiếp tục duy trì và tăng cường truyền thống tốt đẹp giao lưu cấp cao giữa hai Đảng, hai nước thông qua các hình thức như thăm lẫn nhau, cử đặc phái viên, điện thoại đường dây nóng, trao đổi thư điện, gặp gỡ thường niên và tiếp xúc tại các diễn đàn đa phương, kịp thời trao đổi ý kiến về các vấn đề quan trọng trong quan hệ hai nước cũng như tình hình quốc tế, khu vực; định hướng và chỉ đạo tầm cao chiến lược đối với sự phát triển ổn định, lành mạnh của quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc trong thời đại mới.

6. Hai bên cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đảm đương sứ mệnh lãnh đạo trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tại mỗi nước, phát huy vai trò định hướng chính trị đối với quan hệ Việt - Trung. Trong tình hình mới, hai Đảng cần củng cố ưu thế hợp tác truyền thống, khuyến khích các cơ quan, tổ chức, địa phương của hai Đảng, hai nước đi sâu giao lưu, hợp tác, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước và giữ cho quan hệ Việt - Trung tiến vững, tiến xa.

Hai bên nhất trí phát huy tốt vai trò chỉ đạo, điều phối tổng thể của cơ chế gặp gỡ cấp cao hai Đảng và vai trò điều phối, thúc đẩy của cơ quan đối ngoại hai Đảng, tiếp tục thực hiện tốt “Kế hoạch hợp tác giai đoạn 2021 - 2025 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc”, “Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giai đoạn 2021 - 2025 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc”, tổ chức tốt Hội thảo lý luận giữa hai Đảng, tăng cường giao lưu, hợp tác giữa các cơ quan tương ứng của hai Đảng ở Trung ương và tổ chức Đảng các địa phương, nhất là các tỉnh/khu biên giới, tiếp tục triển khai giao lưu, học hỏi lẫn nhau về lý luận và kinh nghiệm xây dựng Đảng, quản lý đất nước, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tích cực khuyến khích giao lưu, hợp tác hữu nghị giữa Chính phủ, Quốc hội Việt Nam với Chính phủ, Nhân đại toàn quốc Trung Quốc và giữa Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc.

Hai bên nhất trí phát huy tốt vai trò của cơ chế Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc, quy hoạch tổng thể và thúc đẩy giao lưu, hợp tác trong các lĩnh vực như ngoại giao, quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật. Triển khai tốt Thỏa thuận về tăng cường hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao trong tình hình mới, duy trì tiếp xúc thường xuyên giữa Lãnh đạo hai Bộ và trao đổi giữa các Vụ/Cục tương ứng.

Hợp tác quốc phòng là một trong những trụ cột của quan hệ hai nước. Tiếp tục tăng cường tiếp xúc cấp cao giữa quân đội hai nước; triển khai giao lưu, hợp tác như hoạt động Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, Đối thoại chiến lược quốc phòng, tuần tra liên hợp trên Vịnh Bắc Bộ giữa hải quân, đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng; làm sâu sắc hợp tác biên phòng, thúc đẩy tuần tra chung biên giới trên đất liền giữa lực lượng bảo vệ biên giới hai nước.

Tăng cường giao lưu cấp cao giữa cơ quan thực thi pháp luật hai nước, làm sâu sắc hợp tác về an ninh chính trị và thực thi pháp luật trên các lĩnh vực; điều phối, phối hợp chặt chẽ trong các vấn đề an ninh đa phương. Phát huy tốt vai trò của các cơ chế như Hội nghị cấp Bộ trưởng về phòng chống tội phạm, Đối thoại an ninh chiến lược cấp Thứ trưởng, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực chống khủng bố, chống “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu”, tội phạm ma túy, chống lừa đảo trên mạng và viễn thông, đánh bạc qua biên giới, mua bán người, tội phạm sử dụng công nghệ cao, quản lý xuất nhập cảnh, truy bắt tội phạm truy nã… Thúc đẩy đàm phán, ký kết Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù Việt Nam - Trung Quốc, Hiệp định hợp tác phòng chống tội phạm Việt Nam - Trung Quốc, Kế hoạch tổ chức cao điểm phòng, chống xuất nhập cảnh trái phép giữa Bộ Công an Việt Nam với Cơ quan Quản lý di dân Trung Quốc.

Hai bên nhất trí tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác về pháp luật và tư pháp giữa hai nước nhằm tạo cơ sở pháp lý tăng cường hợp tác toàn diện trong các lĩnh vực giữa Việt Nam và Trung Quốc. Làm sâu sắc hợp tác thực thi pháp luật trên biển giữa Cảnh sát biển hai nước, xử lý thỏa đáng các vụ việc phát sinh đột xuất trên biển, cùng nhau duy trì an ninh, ổn định trên biển.

7. Hai bên nhấn mạnh hai nước Việt Nam và Trung Quốc kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu căn bản là mang lại sự phát triển phồn vinh và hạnh phúc cho nhân dân; cần phát huy ưu thế gần gũi về địa lý và bổ sung lẫn nhau về ngành nghề, tăng cường hợp tác thực chất, hiệu quả hơn nữa trên các lĩnh vực, đáp ứng tốt hơn lợi ích của nhân dân hai nước.

(1) Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển hai nước, đẩy nhanh trao đổi, ký kết Kế hoạch hợp tác giữa Chính phủ hai nước về thúc đẩy kết nối giữa Khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với Sáng kiến “Vành đai và Con đường”, triển khai hợp tác năng lực sản xuất, hợp tác xây dựng kết cấu hạ tầng và kết nối giao thông, sớm hoàn thiện đánh giá Quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.

(2) Hai bên cho rằng thương mại điện tử là lĩnh vực quan trọng trong hợp tác kinh tế - thương mại song phương, tiếp tục thực hiện tốt “Bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác thương mại điện tử giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc”, phát huy vai trò của Nhóm Công tác hợp tác về thương mại điện tử, tăng cường trao đổi chính sách và chia sẻ kinh nghiệm về phát triển thương mại điện tử qua biên giới, thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp về logistics, nghiên cứu thúc đẩy hợp tác giữa các ngân hàng, tổ chức chuyển mạch quốc gia hai nước về thanh toán điện tử, nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ để mở rộng các kênh thương mại, đầu tư mới thông qua thương mại điện tử. Trung Quốc sẽ tiếp tục mở rộng tiêu thụ các sản phẩm đặc sắc, chất lượng cao của Việt Nam thông qua các hoạt động xúc tiến tiêu dùng bằng thương mại điện tử.

(3) Hai bên nhất trí áp dụng các biện pháp thiết thực nhằm giảm bớt vấn đề mất cân bằng thương mại giữa hai nước, thúc đẩy xuất nhập khẩu nhiều hơn nữa các sản phẩm nông sản, thực phẩm chất lượng cao của cả hai nước. Phía Trung Quốc sẽ tích cực thúc đẩy tiến trình mở cửa thị trường cho khoai lang, các loại hoa quả có múi, tổ yến và một số nông thủy sản của Việt Nam. Phía Việt Nam sẽ tích cực thúc đẩy tiến trình mở cửa thị trường cho sữa của Trung Quốc.

Hai bên cho rằng, bảo đảm phòng chống dịch chính là bảo đảm thông quan hàng hóa, nhất trí phát huy vai trò của Cơ chế liên hợp giải quyết ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới và hợp tác phòng chống dịch, duy trì hoạt động thương mại thông suốt tại các cửa khẩu với tiền đề bảo đảm công tác phòng chống dịch, nhằm bảo đảm chuỗi cung ứng hàng hóa và tạo thuận lợi thông quan; tiếp tục tăng cường hợp tác phòng chống ma túy và buôn bán trái phép các loại động vật có nguy cơ tuyệt chủng, triển khai chương trình thực thi pháp luật liên hợp “Con rồng Mekong”, bảo đảm thương mại song phương phát triển an toàn, lành mạnh, cân bằng,thuận lợi. 

Phía Trung Quốc ủng hộ các văn phòng xúc tiến thương mại Việt Nam tại Trùng Khánh và Hàng Châu phát huy vai trò tích cực trong hợp tác kinh tế-thương mại giữa hai nước. Trung Quốc nhất trí ủng hộ Việt Nam thành lập các văn phòng xúc tiến thương mại khác tại Trung Quốc; hoan nghênh Việt Nam tham gia Hội chợ Nhập khẩu quốc tế Trung Quốc lần thứ 5.

(4) Phía Việt Nam sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác đầu tư và kinh tế - thương mại. Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc đủ điều kiện, đầu tư vào Việt Nam trên nguyên tắc thị trường và thương mại.

(5) Hai bên sẵn sàng triển khai tốt “Bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác bảo đảm chuỗi cung ứng giữa Bộ Công Thương Việt Nam và Bộ Thương mại Trung Quốc”, thúc đẩy an toàn, ổn định chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng giữa hai nước.

(6) Nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa, nâng cao kim ngạch thương mại giữa hai nước, hai bên nhất trí thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác trong lĩnh vực vận tải hàng không, đường bộ và đường sắt; sớm trao đổi, đàm phán sửa đổi Hiệp định đường sắt biên giới Việt Nam - Trung Quốc ký năm 1992; ủng hộ doanh nghiệp đường sắt hai nước tăng cường hợp tác về nâng cao lượng vận chuyển hàng hóa Việt Nam quá cảnh qua Trung Quốc.

(7) Hai bên sẽ tiếp tục phát huy vai trò của Ủy ban liên hợp về hợp tác nông nghiệp Việt - Trung và Ủy ban liên hợp về hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ, tăng cường hợp tác thực chất trong các lĩnh vực như trồng trọt, chế biến nông sản, kiểm soát dịch bệnh tổng hợp các loại sâu bệnh, triển khai hợp tác thả giống và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong Vịnh Bắc Bộ, làm sâu sắc hợp tác đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp. Hai bên nhất trí thúc đẩy sớm đàm phán ký kết Hiệp định mới về hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ; đạt nhất trí về Thỏa thuận tìm kiếm cứu nạn trên biển, Thỏa thuận thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển Việt Nam - Trung Quốc và đồng ý sớm tiến hành ký kết.

Tăng cường hợp tác chia sẻ số liệu khí tượng, thủy văn trên sông Hồng - sông Nguyên, Sông Kỳ Cùng - Tả Giang, sông Mekong- Lan Thương và các dòng sông quốc tế nhằm bảo đảm nâng cao năng lực phòng ngừa hạn hán, lũ lụt. Đẩy mạnh hợp tác sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước cân bằng hợp lý trong cơ chế hợp tác Mekong - Lan Thương, cùng nhau nâng cao trình độ sử dụng an toàn, hiệu quả, bền vững tài nguyên nước.

(8) Hai bên sẽ tiếp tục thúc đẩy đàm phán, tiến tới ký kết Hiệp định hợp tác y tế Việt - Trung, hợp tác chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về y sinh, dược phẩm phòng chống dịch Covid-19, thực thi tốt dự án hợp tác phòng chống dịch bệnh lây lan qua biên giới khu vực sông Mekong - Lan Thương.

(9) Hai bên sẵn sàng phát huy tốt vai trò của các cơ chế Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền, Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu biên giới Việt Nam - Trung Quốc, tiếp tục thực hiện tốt các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; tăng cường quản lý an ninh trật tự khu vực biên giới, bảo đảm đồng bộ phòng chống dịch bệnh và tạo thuận lợi thông quan tại khu vực biên giới; tiếp tục đẩy mạnh mở cửa cửa khẩu/lối mở biên giới, thúc đẩy xây dựng kết cấu hạ tầng qua biên giới, trong đó tập trung trao đổi thống nhất phương án kết nối đoạn đường sắt giữa ga Lào Cai (Việt Nam) - ga Hà Khẩu Bắc (Trung Quốc); giữ gìn trật tự tốt đẹp và thúc đẩy phát triển ở khu vực biên giới. Hai bên nhất trí thúc đẩy triển khai Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch Thác Bản Giốc (Việt Nam) - Đức Thiên (Trung Quốc), nỗ lực thúc đẩy sớm đưa vào vận hành thí điểm cho du khách hai nước, qua đó xây dựng mô hình kiểu mẫu về du lịch qua biên giới, du lịch xanh.

(10) Hai bên nhất trí tích cực tìm tòi giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực như phát triển xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu, kinh tế số...; tạo thêm nhiều điểm tăng trưởng cho hợp tác Việt - Trung.

(11) Hai bên nhất trí tiếp tục phát huy tốt vai trò của Ủy ban hỗn hợp hợp tác về khoa học và công nghệ giữa Việt Nam - Trung Quốc; tích cực thúc đẩy triển khai hợp tác khoa học và công nghệ, nghiên cứu chung và trình diễn công nghệ; thúc đẩy giao lưu trao đổi đoàn các cấp nhằm làm sâu sắc quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực nêu trên.

(12) Hai bên nhất trí tiếp tục tập trung bám sát thực hiện nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao và Sáng kiến Phát triển toàn cầu, tích cực nghiên cứu có thêm nhiều dự án hợp tác nhằm thúc đẩy kinh tế, làm lợi cho đời sống của nhân dân.

8. Hai bên nhất trí tăng cường giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước, tăng cường triển khai giáo dục về tình hữu nghị Việt - Trung tới người dân, nâng cao hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Hai bên nhất trí thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác văn hóa và du lịch Việt Nam - Trung Quốc, trên cơ sở phù hợp với chính sách phòng chống dịch của hai nước, thúc đẩy giao lưu trao đổi đoàn các cấp về văn hóa và du lịch, thúc đẩy ngành du lịch phục hồi và phát triển lành mạnh, tăng cường hợp tác về công nghiệp văn hóa. Phía Trung Quốc hoan nghênh, ủng hộ Việt Nam thành lập Trung tâm Văn hóa tại Trung Quốc; phía Việt Nam tích cực ủng hộ hoạt động của Trung tâm Văn hóa Trung Quốc tại Hà Nội. 

Hai bên nhất trí thực hiện tốt Hiệp định hợp tác giáo dục Việt Nam - Trung Quốc; khuyến khích cử lưu học sinh sang học tập ở mỗi nước. Phía Trung Quốc coi trọng việc lưu học sinh Việt Nam quay trở lại Trung Quốc học tập, hoan nghênh lưu học sinh Việt Nam có nguyện vọng đều có thể trở lại trường trên cơ sở làm tốt công tác phòng chống dịch; tuyên bố trong 05 năm tới cung cấp cho Việt Nam không dưới 1.000 suất học bổng Chính phủ Trung Quốc, và không dưới 1.000 suất học bổng dành cho giáo viên tiếng Trung Quốc; giúp đỡ Việt Nam bồi dưỡng nhân tài chất lượng cao và giáo viên tiếng Trung Quốc.

Hai bên tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu hữu nghị, giao lưu văn hóa như Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt - Trung, Diễn đàn Nhân dân Việt - Trung, Liên hoan Nhân dân biên giới…, khuyến khích các địa phương hai nước, đặc biệt là các tỉnh (khu) giáp biên giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng có lợi. Hai bên sẵn sàng tăng cường giao lưu báo chí, truyền thông và phóng viên hai nước thăm lẫn nhau, tăng cường tình hữu nghị Việt - Trung, tạo nền tảng xã hội và không khí dư luận tốt đẹp cho sự phát triển của quan hệ song phương.

9. Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển; cho rằng kiểm soát thỏa đáng bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông vô cùng quan trọng; nhất trí xử lý ổn thỏa vấn đề trên biển, đóng góp tích cực cho hòa bình, an ninh lâu dài ở khu vực.

Hai bên nhất trí tiếp tục tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa Lãnh đạo hai Đảng, hai nước và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, sử dụng hiệu quả cơ chế đàm phán biên giới cấp Chính phủ Việt Nam - Trung Quốc, kiên trì thông qua hiệp thương, đàm phán hữu nghị, tích cực bàn bạc về các biện pháp giải quyết mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường, chủ trương của mỗi bên; tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được.

Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển và bàn bạc về phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy hai việc trên sớm đạt tiến triển thực chất. Hai bên sẵn sàng tiếp tục tích cực triển khai hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển; tích cực trao đổi về đi sâu, mở rộng hợp tác trên biển tại Vịnh Bắc Bộ trên cơ sở đáp ứng lợi ích thiết thực của cả hai bên.

Hai bên đồng ý tiếp tục thúc đẩy thực hiện toàn diện, hiệu quả “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở hiệp thương, nhất trí, sớm đạt được “Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC) hiệu quả, có nội dung thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982); kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và thúc đẩy hợp tác trên biển.

10. Phía Việt Nam tái khẳng định kiên trì chính sách “Một Trung Quốc”, ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức và nhất quán ủng hộ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Việt Nam không phát triển quan hệ cấp Nhà nước nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ đánh giá cao lập trường của phía Việt Nam.

11. Hai bên cho rằng, cục diện thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, căng thẳng tại các điểm nóng gia tăng, thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống đan xen, chủ nghĩa đa phương, toàn cầu hóa kinh tế, hòa bình và phát triển của thế giới đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Cộng đồng quốc tế cần cùng nhau nỗ lực, dốc sức vì hòa bình, hợp tác và phát triển, tiếp thêm tính ổn định và năng lượng tích cực cho thế giới.

Hai bên nhấn mạnh, phát triển là sự bảo đảm của an ninh, là then chốt để giải quyết các vấn đề khó, thực hiện hạnh phúc cho nhân dân. Phía Việt Nam ủng hộ và sẵn sàng tham gia Sáng kiến Phát triển toàn cầu, theo nội dung và cách thức phù hợp, nỗ lực cùng các bên góp phần thực hiện Chương trình phát triển bền vững 2030 của Liên hợp quốc. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong các khuôn khổ quốc tế và khu vực như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Trung Quốc - ASEAN, Mekong - Lan Thương; thực hiện tốt Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực, thúc đẩy các nước cùng phát triển. Phía Việt Nam ủng hộ Trung Quốc nộp đơn gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và có đóng góp vào việc thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Hai bên nhấn mạnh, an ninh là tiền đề của phát triển. Việt Nam ghi nhận tích cực Sáng kiến An ninh toàn cầu của Trung Quốc trên cơ sở mục tiêu, nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc. Việt Nam sẵn sàng cùng Trung Quốc và các đối tác liên quan cùng duy trì hòa bình và an ninh lâu dài trên thế giới. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong khuôn khổ Liên hợp quốc, duy trì trao đổi và phối hợp chặt chẽ trong những vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Kiên trì thực hiện và đề cao chủ nghĩa đa phương, cùng bảo vệ công bằng, chính nghĩa quốc tế, tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Hai bên chủ trương, các nước triển khai giao lưu và hợp tác trong vấn đề nhân quyền trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, thúc đẩy đối thoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền, không chính trị hóa vấn đề nhân quyền.

12. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên ký kết Thỏa thuận hợp tác giữa Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ban Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ủy ban Chính pháp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; Bản ghi nhớ hợp tác hữu nghị giai đoạn 2022 - 2027 giữa Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam và Hội Hữu nghị Đối ngoại nhân dân Trung Quốc; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Bộ Tư pháp nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Tư pháp nước CHND Trung Hoa; Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực sinh thái và môi trường giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Sinh thái và Môi trường nước CHND Trung Hoa; Bản ghi nhớ giữa Bộ Công Thương nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Thương mại nước CHND Trung Hoa về tăng cường hợp tác bảo đảm chuỗi cung ứng Việt – Trung; Kế hoạch hợp tác văn hóa và du lịch giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Văn hóa và Du lịch nước CHND Trung Hoa giai đoạn 2023 - 2027; Bản ghi nhớ giữa Tổng Cục Hải quan, Bộ Tài chính nước CHXHCN Việt Nam và Tổng Cục Hải quan nước CHND Trung Hoa về xây dựng lĩnh vực ưu tiên hợp tác; Bản ghi nhớ giữa Bộ Công Thương nước CHXHCN Việt Nam và Tổng Cục Hải quan nước CHND Trung Hoa về an toàn thực phẩm trong thương mại song phương Việt Nam - Trung Quốc; Nghị định thư về yêu cầu kiểm dịch thực vật đối với quả chuối tươi xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nước CHXHCN Việt Nam và Tổng Cục Hải quan nước CHND Trung Hoa; Bản ghi nhớ hợp tác giữa Thành phố Hà Nội, Thủ đô nước CHXHCN Việt Nam và Thành phố Bắc Kinh, Thủ đô nước CHND Trung Hoa; Bản ghi nhớ giữa Bộ Công Thương nước CHXHCN Việt Nam và Chính quyền nhân dân tỉnh Vân Nam nước CHND Trung Hoa về tăng cường hợp tác trong lĩnh vực kinh tế - thương mại; Bản ghi nhớ về tăng cường giao lưu, hợp tác trong lĩnh vực tài sản Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước giữa Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp nước CHXHCN Việt Nam và Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản Nhà nước nước CHND Trung Hoa.

13. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thành công tốt đẹp, góp phần tích cực trong việc phát huy tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống Việt Nam - Trung Quốc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc trong thời đại mới, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng của khu vực và thế giới. Hai Đảng và nhân dân hai nước rất vui mừng về những thành quả này.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cảm ơn Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc về sự đón tiếp trọng thị, thân tình và hữu nghị; trân trọng mời Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sớm thăm lại Việt Nam. Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bày tỏ cảm ơn và vui vẻ nhận lời.

 

ĐI TÌM LẠI LỊCH SỬ BỨC ẢNH TRUYỀN THỐNG BÁC HỒ CẦM ỐNG NÓI

 

Bức ảnh "Bác Hồ cầm ống nói" từ lâu đã trở thành tài sản tinh thần vô giá của Bộ đội Thông tin liên lạc.

Tôi biết tác phẩm đặc biệt này do nghệ sĩ nhiếp ảnh Đinh Đăng Định chụp, nhưng sự ra đời của tác phẩm ấy ra sao thì chưa biết. Cho đến một hôm, trong một cuộc thi ảnh nghệ thuật tại Nha Trang, tôi được gặp và tranh thủ hỏi anh về tác phẩm này. Anh Định vui vẻ nhận lời, nhưng hiện anh đang rất bận công việc trong Ban Giám khảo và hẹn sẽ trao đổi với tôi vào một dịp khác.


         Sau khi cuộc thi ảnh nghệ thuật kết thúc, anh Định về Hà Nội ngay, tôi không kịp gặp lại và cứ nghĩ mình đã bỏ lỡ mất cơ hội để nói chuyện với anh về bức ảnh. May thay, chỉ sau ít ngày anh Định đã gửi vào Nha Trang cho tôi một bức thư kèm theo hai bức ảnh quý về Bác Hồ, trong đó có bức ảnh "Bác Hồ cầm ống nói" với những lời giải thích rất đầy đủ, rõ ràng. Thật mừng hết chỗ nói! Tôi vô cùng cảm ơn anh.

 Trong thư, anh Định đã cho tôi biết xuất xứ của bức ảnh. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ sơ tán khỏi Thủ đô, lần lượt qua nhiều nơi, rồi cuối cùng về căn cứ địa Việt Bắc. Nơi ở và làm việc thường được bố trí kín đáo trong rừng sâu, núi hiểm. Vật liệu xây dựng chủ yếu bằng tranh, tre, nứa, lá rất đơn sơ giản dị. Nơi Bác ở và làm việc cũng vậy; đó là một ngôi nhà sàn rộng chừng 6m2, tầng 2 là nơi Bác nghỉ, tầng trệt là nơi Bác làm việc. Nói cho đúng, đây là một cái lán nhỏ dựa vào vách núi, dưới tán rừng rậm rạp. Mặt trước lán nhìn ra cánh đồng rất thoáng đãng. Xa xa là Đình Hồng Thái và cây đa Tân Trào lịch sử. Mùa lúa chín, hương lúa từ cánh đồng bay vào thơm ngào ngạt và dịu mát. Bàn làm việc của Bác cũng được ghép bằng tre. Trên bàn, ngoài một ít sổ sách, hộp đựng công văn, giấy tờ, bút mực..., trang bị đáng giá nhất là chiếc máy điện thoại để bàn. Chiếc máy cũ kỹ ta thu được của Pháp từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 tại đồn Tam Đảo. Nó đã theo Bác về Thủ đô sau ngày ta giành được chính quyền và lúc này lại có mặt tại đây để phục vụ Bác làm việc và quan hệ với một số nơi thật cần thiết thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng. Khi ấy, trang thiết bị thông tin liên lạc của ta còn đang rất khan hiếm.

Anh Định đã kể: Tôi còn nhớ, khi anh em Thông tin đến kéo dây và đặt máy điện thoại cho Bác, Bác đã ân cần nhắc: "Không được để lộ đường dây vào nhà. Công việc dù nhỏ hay lớn, giữ được bí mật là đã thắng lợi được một nửa!". Công việc xong xuôi, Bác mời anh em vào nhà uống nước, tặng cho mỗi người một điếu thuốc lá thơm. Nghe tín hiệu các nơi gọi về rõ ràng, trong trẻo, Bác khen anh em làm tốt, gửi lời thăm và cảm ơn đơn vị. Anh Định còn cho biết, chiếc máy điện thoại này đã phục vụ rất tốt cho Bác suốt cuộc kháng chiến chống Pháp và mãi sau này khi Bác trở về Hà Nội. Bức ảnh "Bác Hồ cầm ống nói" là do anh đã chụp vào tháng 10 năm 1949 tại chính nơi làm việc của Bác, giữa lúc quân và dân ta đang ráo riết chuẩn bị bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giai đoạn phản công giành lại thế chủ động trên chiến trường mà mở đầu là chiến dịch Biên Giới lịch sử. Anh Định nói: Hôm ấy, tôi nhận được lệnh vào Phủ Chủ tịch để chụp ảnh cho Bác. Thấy tôi, Bác mỉm cười trìu mến. Bác ngồi ung dung bên bàn làm việc, từ trang phục đến mọi thứ trên bàn không khác gì mọi ngày. Trước mặt tôi, vị lãnh tụ kính yêu, vị Cha già dân tộc thật vô cùng giản dị và gần gũi. Là một nghệ sĩ nhiếp ảnh, phục vụ trong Phủ Chủ tịch, đã nhiều lần được chụp ảnh Bác, tôi luôn nhận thức được tầm quan trọng của từng bức ảnh và bao giờ cũng làm với một tinh thần trách nhiệm rất cao. Vậy mà lần này, tôi thấy có một cảm giác rất lạ, rất khó tả. Tôi vừa mở máy vừa suy nghĩ là sẽ phải chụp Bác ở một góc độ và một tư thế như thế nào đây; thời cơ nào sẽ là thích hợp nhất. Ống kính của tôi luôn hướng vào Bác và chờ đợi. Bỗng Bác quay máy điện thoại, nhấc ống nói và làm việc với đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng để trao đổi công việc, Bác hỏi rất kỹ về tình hình chiến sự, tình hình bộ đội ngoài mặt trận. Tôi vô cùng phấn khởi, tai nghe lời Bác nói còn tay thì bấm máy lúc nào không biết và cũng không biết rằng mình đã bấm máy mấy lần. Xong công việc, tôi xin phép Bác ra về. Tôi đã tráng phim và rửa ảnh ngay. Ngày hôm sau tôi mang ảnh vào báo cáo Bác. Xem ảnh xong, Bác gật đầu khen ảnh đẹp.

Bức ảnh này đã được công bố lần đầu tiên vào năm 1953 trên báo Nhân Dân. Ảnh đã được nhiều người khen là có góc chụp đẹp, hình ảnh rất trung thực, phản ánh đúng vẻ mặt của một vị lãnh tụ rất giản dị, tự tin, bình thản khi trao đổi công việc qua máy điện thoại. Đặc biệt là anh em Bộ đội Thông tin và Bưu điện, coi bức ảnh như một báu vật, coi đây là một hình ảnh đặc biệt phản ánh rõ bản chất phục vụ của thông tin liên lạc trong công cuộc cách mạng của dân tộc. Anh Định còn cho biết: Được tin anh chị em ngành thông tin dân sự cũng như quân sự đánh giá rất cao và coi bức ảnh là một hình ảnh truyền thống của mình, anh vô cùng cảm động và phấn khởi.

Sau chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam được ký kết, hòa bình được lập lại ở miền Bắc nước ta, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ về lại Thủ đô Hà Nội làm việc. Thời gian này, được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, ngành thông tin đã có thêm nhiều loại máy hiện đại, nhưng trên bàn làm việc Bác vẫn luôn giữ chiếc máy điện thoại đã từng gắn bó với Người trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ ở Chiến khu Việt Bắc. Chiếc máy đã như một người bạn thân thiết và tận tụy phục vụ Bác trong hai cuộc kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ và nó đã ở bên cạnh Bác cho đến khi Người về với các bậc tiền bối ở cõi vĩnh hằng.

Ngày nay, bức ảnh "Bác Hồ cầm ống nói" được coi là bức ảnh truyền thống của Bộ đội Thông tin liên lạc. Bức ảnh luôn là một hình ảnh quý giá nhất và được đặt ở những nơi trang trọng nhất của các cơ quan, đơn vị Bộ đội Thông tin liên lạc. Mỗi khi nhìn vào bức ảnh, mỗi cán bộ và chiến sĩ Bộ đội Thông tin liên lạc lại tự hào về truyền thống vẻ vang của mình đã đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc. Và, cũng mỗi khi nhìn vào bức ảnh chúng ta lại nhớ tới lời dạy của Người: "Việc liên lạc là việc quan trọng bậc nhất trong công tác cách mệnh, vì chính nó quyết định sự thống nhất chỉ huy, sự phân phối lực lượng và do đó  bảo đảm thắng lợi".

Cuối bài viết này, tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới nghệ sĩ nhiếp ảnh Đinh Đăng Định đã cho tôi và các đồng đội của tôi trong đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Thông tin liên lạc hiểu rõ được nguồn gốc ra đời của bức ảnh mà lâu nay chúng tôi đã coi là báu vật của ngành mình.

            VTT (St của tác giả: NGUYỄN ĐÔNG Nguyên cán bộ Trường Sĩ quan Thông tin)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

         Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng, các cơ quan, đơn vị cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

     Một là, thường xuyên bám sát định hướng chỉ đạo, hướng dẫn trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; gắn với tiếp tục triển khai, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để xây dựng các chương trình, kế hoạch, giải pháp công tác cụ thể; đưa công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình”, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội đi vào nền nếp đạt hiệu quả cao.

Hai là, chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của đối tượng để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Công tác nắm tình hình cần tập trung vào những vấn đề cụ thể như: Phát hiện các trang web, blog, “diễn đàn” thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, thù địch; phát hiện âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền chống phá của chúng trên không gian mạng, kịp thời nhận diện những phương thức, thủ đoạn mới; phát hiện cá nhân, tổ chức sở hữu, quản lý, điều hành các trang mạng xã hội thường xuyên đăng tải các bài viết, hình ảnh, video tuyên truyền phá chống phá cách mạng Việt Nam; phát hiện những bất cập, hạn chế của các biện pháp, công tác nghiệp vụ đã và đang được triển khai...

Để nắm tình hình có hiệu quả, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị, các lực lượng bao gồm: Ban Chỉ đạo 35, lực lượng 47, công tác viên lực lượng 47 của cơ quan, đơn vị cần sử dụng tổng hợp các phương tiện, biện pháp; thường xuyên rà quét, lên danh sách các trang web, blog, diễn đàn có nội dung phức tạp, các đối tượng viết bài trên những trang mạng này (có thể là tên thật hoặc nickname, bút danh); khai thác thông tin trên các trang web, blog để xác định được đối tượng sở hữu, quản lý bài viết và đề xuất biện pháp kịp thời xử lý.

Ba là, phát huy tốt vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, Ban Chỉ đạo 35, cơ quan chức năng các cấp, nhất là vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Tập trung lãnh đạo kiện toàn, xây dựng, phát triển lực lượng đấu tranh theo hướng chủ động tạo thế liên hoàn, vững chắc, có bộ phận nòng cốt, chuyên sâu, tập hợp lực lượng rộng rãi; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nắm, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Trong tổ chức thực hiện, cần duy trì tốt các chuyên trang, chuyên mục chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các cơ quan, đơn vị.

Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tích cực thông tin và tăng cường đối thoại với nhân dân; chủ động, linh hoạt tham gia các vấn đề cụ thể của xã hội. Thường xuyên duy trì, thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các cơ quan chức năng, tạo thế trận rộng khắp, chặt chẽ trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bốn là, các tổ chức đảng, MTTQ Việt Nam huyện, các đoàn thể chính trị - xã hội huyện, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện cần triển khai, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ một số vấn đề sau:

Thứ nhất, xem Internet, mạng xã hội vừa là công cụ, phương tiện quan trọng để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; vừa là một kênh thông tin để nắm bắt kịp thời về tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tình hình mới. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nâng cao nhận thức, trách nhiệm, sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội; khắc phục sự thờ ơ, đứng ngoài cuộc, cho đây là nhiệm vụ của cơ quan chuyên môn.

Thứ ba, thực hiện có hiệu quả phương châm “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”, chú trọng tuyên truyền và khuyến khích chia sẻ, bình luận gương người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm định hướng dư luận và cổ vũ, động viên mọi người tham gia, tạo hiệu ứng lan tỏa trong xã hội.

Thứ tư, có trách nhiệm kiên quyết phê phán, bác bỏ và kịp thời xử lý nghiêm theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật phát ngôn và bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật nội bộ và đưa thông tin sai sự thật, xấu, độc trên Internet, mạng xã hội.

Thứ năm, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội huyện xây dựng các kênh mạng xã hội để kết nối và phối hợp hoạt động. Tập hợp, định hướng các tổ chức thành viên hình thành lực lượng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng trong hệ thống.

Thứ sáu, Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị: Chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước và của cơ quan, đơn vị mình công tác. Khi tham gia mạng xã hội phải đề cao ý thức, trách nhiệm, thiết thực, lành mạnh; bình tĩnh chọn lọc và kiểm chứng thông tin trước khi bình luận, tán đồng, chia sẻ. Không lưu trữ, cung cấp, đăng tải, tán đồng, chia sẻ, phát tán những thông tin xấu, độc, giả mạo, xuyên tạc, vu khống,… trên không gian mạng. Khi phát hiện cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vi phạm, phải báo cáo với cơ quan chức năng biết để kịp thời ngăn chặn và xử lý theo quy định./.

Nhận thức và trách nhiệm tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng hiện nay

             Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng nhằm bảo vệ đường lối, Cương lĩnh lãnh đạo của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ngày 22-10-2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Ðó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó các cơ quan báo chí tuyên truyền các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Nghị quyết nêu 07 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trọng tâm là tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh lãnh đạo của Đảng, những năm qua, các cấp uỷ, tổ chức đảng luôn coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân luôn kiên định nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, nhiệm vụ đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch càng phải được coi trọng, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, hiệu quả. Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác phòng ngừa, đấu tranh trên lĩnh vực này. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã nhấn mạnh: Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì thế, để bảo vệ nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng, việc tăng cường đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là đòi hỏi khách quan, nhiệm vụ cấp bách trước mắt, đồng thời cũng là nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản, lâu dài.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…”, “…không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”. “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”.

Nhận diện âm mưu tuyên truyền của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta trên không gian mạng

Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra rất nhanh chóng, với sự phát triển siêu tốc của Internet, mạng xã hội,... tạo nên “thể giới phẳng”, những thông tin không được kiểm soát, gây nhiều khó khăn cho việc tiếp nhận, phân tích, luận giải để hiểu thấu đáo nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thêm vào đó là sự tồn tại, phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản và những khó khăn, thách thức cùng sự kéo dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường trên nhiều phương diện; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; nạn tham nhũng, "lợi ích nhóm",... diễn ra còn nhiều, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Lợi dụng bối cảnh đó, những năm qua và nhất là trong thời gian Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử đối lập, bất mãn chính trị,... ở trong và ngoài nước, ra sức đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống, chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới của Nhân dân ta, nhất là thông qua Internet, mạng xã hội đăng những tin, bài xấu, độc, xuyên tạc, phản bác, phủ nhận nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; công kích, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã đẩy mạnh tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam, bằng mọi âm mưu, thủ đoạn chúng tăng cường xuất bản, tán phát các loại ấn phẩm, tài liệu như: Các báo cáo, nghị quyết, dự luật của nghị viện, quốc hội một số nước phương Tây; các văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ như: Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW)…; các ấn phẩm xuất bản, như: sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi… của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị trong và ngoài nước; các trang web, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt, …

Trong đó, họ đã lập hàng nghìn trang web, blog, hàng trăm loại báo chí, nhà xuất bản và các Đài phát thanh - truyền hình có chương trình tiếng Việt, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm làm việc trực tiếp với các tổ chức, cá nhân phản động trong và ngoài nước… để xuyên tạc nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng ta. Qua đó, chúng phủ nhận đường lối lãnh đạo của Đảng, phủ nhận những thành tựu đã đạt được trong các cuộc đấu tranh cách mạng đã qua và trong công cuộc đổi mới, bóp méo thực tế những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, những sơ hở thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong các vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm kích động, lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.

Một trong những phương thức mà các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền, chống phá có hiệu quả nhất hiện nay, đó là mạng xã hội

Mạng xã hội (MXH) là hệ thống của những mối quan hệ giữa con người trên nền tảng Internet; Việt Nam là nước có số người dùng Internet và MXH thuộc tốp đầu trên thế giới, với hơn 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67% dân số); hơn 55 triệu người dùng MXH (chiếm 57% dân số) và 436 MXH đang hoạt động, đứng thứ 7 trong 10 nước có số người sử dụng MXH nhiều nhất thế giới. Cùng với những giá trị tích cực, MXH cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó đối với sự phát triển của đất nước, MXH “được ví như con dao 2 lưỡi ẩn chứa nhiều vấn đề bất cập và hiểm họa khó lường đối với người sử dụng không đúng mục đích. Thực tế, bên cạnh các thông tin bổ ích, có giá trị đối với xã hội thì còn vô số thông tin, hình ảnh có nội dung xấu, độc có thông tin sai trái như: xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, bịa đặt, vu cáo, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta trên mọi lĩnh vực. Tác hại của những thông tin xấu độc trên MXH do các thế lực “mạng đen” tung ra có tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. 

Những nội dung cơ bản nền tảng tư tưởng của Đảng

Tuyên truyền, giáo dục và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là nội dung trọng tâm, thường xuyên của công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nền tảng tư tưởng của Đảng để cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và Nhân dân nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Như vậy, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, chủ nghĩa Mác-Lênin là những học thuyết sâu sắc, toàn diện trên nhiều lĩnh vực, mà cơ bản, trọng yếu, cốt lõi, nhất là: Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, là chủ nghĩa cộng sản khoa học do C.Mác - Ph.Ăngghen xây dựng trong suốt gần 60 năm, từ những năm 40 cho đến cuối thập niên 90 thế kỷ XIX và V.Lênin bổ sung, phát triển trong cả thập niên cuối của thế kỷ XIX và hơn hai thập niên đầu của thế kỷ XX, trên cơ sở thực tiễn chủ nghĩa tư bản đã và chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc; phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới đang phát triển mạnh mẽ và giành được những thắng lợi mang tính bước ngoặc như: Công xã Paris và nhất là cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đưa tới sự ra đời Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết (gọi tắt là Liên Xô), giải phóng hàng trăm triệu nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư bản.

Còn Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý báu của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi.

Nói khái quát, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là những học thuyết, những tư tưởng được hình thành trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu văn minh của tư duy nhân loại, liên tục được bổ sung, phát triển từ những kết quả nghiên cứu mới nhất của khoa học và tổng kết thực tiễn lịch sử thế giới, cùng những dự báo về tương lai.

Hệ thống tri thức này là những kiến thức khoa học có tác dụng trực tiếp nâng cao trình độ nhận thức, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học và nhân cách của mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và Nhân dân. Nếu mọi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và Nhân dân đều được học tập và chịu khó học tập không ngừng để quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những kiến thức này trong hoạt động thực tiễn sẽ luôn đứng vững trên lập trường của người cộng sản, không bị hoang mang, dao động trước những nội dung tuyên truyền xấu độc, xuyên tạc của các thế lực thù địch, vững tin trong mọi hoạt động vì lợi ích chính đáng của Nhân dân, bằng những giải pháp có hiệu quả và gặt hái được nhiều thành công, đóng góp tích cực cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững./. 

BỘ ĐỘI GIỜ CÓ SƯỚNG KHÔNG?

         Chồng tôi là bộ đội, anh ấy là cán bộ đại đội, đơn vị cách nơi chúng tôi ở chỉ khoảng 35 km. Chúng tôi cưới nhau rồi ra ở riêng (bố mẹ anh ở với anh trai), cũng chỉ cách nhà bố mẹ chồng có mấy trăm mét, còn bố mẹ đẻ tôi cũng chỉ cách 2 km.
Đơn vị anh là đơn vị sẵn sàng chiến đấu, thuộc sư đoàn chủ lực đủ quân, cứ gần một tháng anh lại về nhà một lần gọi là tranh thủ cuối tuần, có lúc thì hai tháng mới về. Mỗi lần về hai vợ chồng thường làm những công việc chung, như đi thăm người thân, đi chợ, mua sắm... Làng xóm nói: "Bộ đội bây giờ sướng thế, bộ đội gì mà thấy về suốt thế, trước các bác đi 3 năm chưa được về, bộ đội như thế thì ai chả thích đi..." rồi thì: "Xưa tao đi bộ đội khổ lắm, cơm thì không đủ no, chúng mày giờ sướng thế"... Tôi nói thật, yêu anh vì tình cảm, anh theo nghề bộ đội cũng là cái nghiệp. Chứ bộ đội bây giờ như anh cũng vất vả lắm có ai thấu cho, nhiều người cứ nghĩ bộ đội giờ không chiến tranh thì làm gì, tôi xin giải bày để mọi người cùng biết.
- Nếu cứ một tháng thấy anh ấy về một lần mà người ta bảo là "về suốt" thì hỏi coi bao nhiêu người làm công việc bình thường ngày nào chả được cùng ăn cơm với vợ, cùng chăm sóc con cái. Vợ bộ đội khi con ốm, con đau cũng chỉ biết một mình. Khi mình ốm cũng chỉ biết cắn răng chịu đựng, tự đi mua thuốc chứ có ai chăm.
- Có người nói bộ đội giờ không chiến tranh thì làm gì? Thưa các bạn, tôi vợ bộ đội, ngày nào cũng nói chuyện điện thoại với chồng, tôi biết: tuy thời bình, nhưng ngày ngày anh ấy phải dậy từ 5 giờ sáng, đôn đốc lính tập tành, chăm lo cho lính miếng ăn, giấc ngủ, tối rồi anh ấy mới có thời gian viết giáo án, có hôm 1 giờ sáng mới dám đi ngủ. Nhiều hôm không có thời gian nhắn một tin nhắn cho vợ.
- Đã bao giờ các bạn ngủ ngoài trời mưa chưa? Năm nay là 7 năm quen chồng tôi, năm nào tôi cũng thấy anh đi diễn tập cả, và những ngày diễn tập năm nào hầu như cũng có mưa. Khi chúng ta có mái nhà che thân, thì anh đang trong cơn mưa gió giữa rừng, khi mọi người trong chăn ấm, anh đang co ro trên chiếc võng lạnh giá, điện thoại không còn pin để nhắn một lời hỏi thăm vợ.
- Cũng một cái lạ mà chắc nghe người ta sẽ ngạc nhiên, đó là chồng tôi không được đi xe máy. Cái này khi mới quen tôi cũng ngỡ ngàng, tôi lên đơn vị chơi, mà anh cũng không dám chở xe tôi, vì đi qua Trung đoàn. Sau anh giải thích cho tôi, vậy là cứ lên đơn vị là tôi lại đèo anh, đôi khi thấy hơi nực cười. Khi tôi có bầu được 5 tháng, lên đơn vị anh, vậy mà anh bắt tôi đèo. Tôi bực mình nói "kỷ luật thì kỷ luật, anh cứ lên đèo vợ đi coi nào" anh cũng miễn cưỡng lên đèo tôi, nhưng sau đó hình như anh bị nhắc nhở, sau này tôi cũng không bắt anh đèo nữa.
- Rồi những lần có đoàn kiểm tra, tôi thấy anh nói áp lực, mệt mỏi lắm.
     Bộ đội thời bình cũng không hẳn sướng đâu mọi người ạ. Lương anh cũng chẳng được cao, mà lại chẳng giúp gì được nhiều cho vợ. Vì vậy, đừng ai nói "lính thời bình có việc gì đâu mà!
Yêu nước ST.

BÁC HỒ ĐÃ "CÂN BẰNG HOÀN HẢO" MỐI QUAN HỆ GIỮA LIÊN XÔ VÀ TRUNG QUỐC NHƯ THẾ NÀO?

 Năm 1961, đoàn đại biểu quân sự Trung Quốc do Nguyên soái Diệp Kiếm Anh dẫn đầu sang thăm hữu nghị nước ta nhằm bàn về vấn đề hỗ trợ Việt Nam kháng chiến và “thăm dò” về vấn đề Liên Xô. Lúc ấy, phía Trung Quốc mang theo một người phiên dịch nói tiếng phổ thông để dịch lại lời nói của Diệp Kiếm Anh vốn là người Quảng Đông. Nhưng, Bác Hồ nhanh chóng cất lời bằng tiếng Quảng Đông: “Ai da, chúng ta là người nhà quê với nhau” bằng tiếng Quảng Đông và khiến người phiên dịch của phía Trung Quốc ngỡ ngàng. Diệp Kiếm Anh ra hiệu cho phiên dịch lui về phía sau và đáp lại bằng tiếng Quảng Đông với một tâm thế rất hào hứng.

Câu nói “chúng ta là người nhà quê với nhau” được Diệp Kiếm Anh đánh giá rất cao vì nó mang nhiều hàm nghĩa đặc biệt. Đầu tiên, đó là việc nhắc rằng “những người cộng sản là anh em”, xuất thân đơn giản ở tầng lớp công - nông và luôn hỗ trợ cho sự nghiệp của nhau. Thứ hai, câu này mang hàm nghĩa nhắc lại việc Đảng Cộng sản Việt Nam được cấu thành ban đầu ở những địa điểm thuộc tỉnh Quảng Đông và như là một sự gợi nhớ tri ân không quên những ngày đầu. Thứ ba, đó là việc Bác có thời gian hoạt động ở Quảng Đông và Bác coi Quảng Đông như là một nơi quê quán giống như Diệp Kiếm Anh.
Một câu chuyện khác, hồi năm 1956, Bác tiếp Thủ tướng Chu Ân Lai và chủ động nhận Chu Ân Lai là người anh trai, đáp lại, Chu Ân Lai nhận Bác là “người anh cả chỉ đường dẫn lối”. Rõ ràng, “anh trai” chưa chắc đã là “anh cả”, “anh cả” ở một vị thế cao hơn. Chính việc chủ động nhún nhường của Bác trong khi Bác nhiều tuổi hơn khiến cho Thủ tướng Chu Ân Lai cảm giác rất thịnh tình.
Chính Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh là hai trong số những lãnh đạo Trung Quốc rất thiện cảm với Chủ tịch Hồ Chí Minh và đóng góp rất lớn vào việc Trung Quốc cung cấp viện trợ, hỗ trợ cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.
Những năm 1940 - 1950, Việt Nam là một nước bé, không có tiếng tăm trên thế giới, Bác Hồ gửi thư cho Stalin nhiều lần nhưng không được hồi đáp. Tháng 01/1950, Bác dựa vào quan hệ với Mao Trạch Đông đánh tiếng đến Stalin về việc sẽ cùng với Mao Trạch Đông đến Liên Xô để thông báo về cách mạng Việt Nam. Sau đó, Bác khéo léo ngoại giao đề nghị Liên Xô hỗ trợ cách mạng Việt Nam như hỗ trợ cách mạng Trung Quốc và thiết lập quan hệ ngoại giao… Một nước Việt Nam nhỏ bé đã được cả hai quốc gia cùng giúp đỡ là như thế.
Những năm 1950 - 1960, Bác Hồ đã thi hành chính sách ngoại giao cân bằng. Phái đoàn Việt Nam đi thăm Trung Quốc thì đồng thời báo cho phía Liên Xô và ngược lại. Bác luôn tránh việc đưa ra quan điểm về các vấn đề nội bộ của Trung Quốc và Liên Xô. Bên cạnh đó còn ngăn được tư tưởng xét lại như Liên Xô hay việc đấu đá quyền lực như tại Trung Quốc. Năm 1959, tại Bắc Kinh, Bác còn làm phiên dịch viên cho Mao Trạch Đông và Nikita Khrushchev, đó là một cuộc phiên dịch căng thẳng vì vào thời điểm đó hai quốc gia có những rạn nứt nhất định. Đứng ở giữa, Bác phải điều dẫn và phiên dịch sao cho khéo léo, tránh leo thang căng thẳng và cũng giữ được sự cân bằng. Dĩ nhiên là Bác đã làm hoàn hảo.
Năm 1960, hội nghị các Đảng Cộng sản diễn ra đúng lúc Liên Xô và Trung Quốc mâu thuẫn. Sợ rằng việc này sẽ khiến cho “buổi bình minh” của cuộc kháng chiến của Việt Nam bị ảnh hưởng, Bác có bài phát biểu tôn vinh cả 2 Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đều “có tầm quan trọng đặc biệt” với cách mạng thế giới. Đặc biệt, trong hội nghị ấy không có một chính đảng nào dám đưa cả hai đảng trên vào chung. Bài phát biểu ấy khiến cả 2 đảng cùng đưa ra tuyên bố chung và giữ quan hệ tốt hơn với phía Việt Nam.
Năm 1963, Trung Quốc coi Liên Xô là “nơi xuất phát của chủ nghĩa xét lại” và gửi thư cho phía Việt Nam đề nghị không gửi thư chúc mừng sinh nhật Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khrushchev. Nghe theo Trung Quốc thì sẽ mất lòng Liên Xô, không làm theo thì mất lòng Trung Quốc, nhưng Bác Hồ đã nghĩ ra một cách. Bác tổ chức buổi tiệc ăn cơm ở Phủ Chủ tịch mừng dịp Tết Hàn Thực sớm và trong ly rượu đầu tiên, Bác Hồ nâng ly chúc mừng sinh nhật đồng chí Nikita Khrushchev tròn 70 tuổi. Tình cờ thay, sinh nhật Nikita Khrushchev (15/04/1894) chỉ diễn ra trước Tết Hàn Thực đúng 1 ngày.
Sự việc này khiến đại sứ Sherbakov bất ngờ và rất vui vì Việt Nam “không chọn phe Trung Quốc”, còn phía Trung Quốc “mừng như mở cờ” vì Việt Nam đã làm theo đề nghị từ trước đó là không gửi thư chúc mừng.
Năm 1965, Liên Xô muốn lập cầu hàng không viện trợ đến Việt Nam, Trung Quốc không đồng ý nhưng cũng không tiết lộ rõ nguyên nhân. Nhằm xoa dịu hai cái đầu nóng, Bác Hồ khéo léo nói phía Trung Quốc sẽ hỗ trợ vận chuyển an toàn hàng hóa, đi bằng đường bộ sẽ vận chuyển được nhiều hơn. Vừa đề cao vai trò Trung Quốc, vừa cải chính thông tin Trung Quốc không cản trở hàng hóa viện trợ, vừa nhắc khéo Trung Quốc không nên can thiệp vào hàng hóa viện trợ thông qua vài chữ “vận chuyển được nhiều hơn”.
Từ năm 1966, ở Trung Quốc diễn ra Cách mạng văn hóa, Liên Xô thăm dò ý kiến Việt Nam nhưng Bác Hồ cho rằng đây là thời gian cuộc kháng chiến tại Việt Nam diễn ra quyết liệt và Bác phải dành nhiều thời gian hơn. Bác cũng cho biết “Cách mạng văn hóa là vấn đề nội bộ của Trung Quốc” và không tham gia phê phán, đả kích. Khi Mao Trạch Đông đề nghị tiến hành cách mạng văn hóa ở Việt Nam, Bác từ chối và cho biết Việt Nam chưa làm cách mạng văn hóa được vì còn đang bận giải phóng đất nước. Mao Trạch Đông gật gù đồng ý.
Năm 1969, Liên Xô tổ chức Hôi nghị 75 Đảng Cộng sản nhằm mục đích khai trừ Đảng Cộng sản Trung Quốc và gửi lời mời Việt Nam. Việt Nam từ chối tham gia với lý do cách mạng Việt Nam đang quyết liệt và sức khỏe của Bác không tốt. Cùng với lý do tương tự, Việt Nam từ chối tham gia các thảo luận lên án Liên Xô với phía Trung Quốc. Hai quốc gia trên rất nể Bác nên lúc Bác sức khỏe yếu, họ đều ân cần và không nói đến vấn đề về đối phương.
Trong suốt những năm tháng chiến tranh, không đề cao bên nào hơn bên nào, Bác Hồ nhất quán với chủ trương không sử dụng binh lính Liên Xô - Trung Quốc trực tiếp tham gia chiến trường miền Nam Việt Nam. Cách mạng Việt Nam và vấn đề thống nhất phải do người Việt Nam trực tiếp thực hiện, nợ ân tình vật chất thì có thể trả, nhưng nợ máu thì không bao giờ.
Liên Xô và Trung Quốc là hai quốc gia quan trọng nhất với Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến từ năm 1954 - 1975. Hai quốc gia có những mâu thuẫn gay gắt với nhau và Việt Nam phải “đu dây” trong một thời kỳ đầy biến động: vừa chiến tranh lạnh, vừa mâu thuẫn Trung Xô và vừa phải làm nhiệm vụ thống nhất đất nước.
Nhưng với những gì mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm, Việt Nam đã tạo ra một thế trận ngoại giao cân bằng hoàn hảo giữa hai cường quốc của thế giới và chính những tư tưởng của Bác đã đặt nền móng cho ngành ngoại giao "cây tre" của Việt Nam hiện tại.

HÌNH ẢNH ẤP CHIẾN LƯỢC TRONG CHIẾN TRANH CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM

 Ấp Chiến lược là một "quốc sách" do chính phủ Mỹ và ngụy quyền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam sử dụng trong Chiến tranh tại Việt Nam từ năm đầu năm 1963 (thời kỳ Ngô Đình Diệm làm tổng thống) để đối phó với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.


Mục đích của Ấp chiến lược là để tách rời quân du kích của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra khỏi nhân dân ở nông thôn hòng hạn chế quân Giải phóng xây dựng cơ sở hoạt động, ngăn chặn người dân tiếp tế cho du kích.

Giáo sư Sử học Randy Roberts nhận xét:

“Cái gọi là Chương trình Ấp Chiến lược thực chất là lùa nông dân Việt Nam ra khỏi làng quê tổ tiên của họ và nhốt họ trong những khu đất rào quanh chắc chắn giống như một nhà tù hơn là các cộng đồng thật sự".

Trong cuốn Vietnam: a History (1983), nhà sử học Stanley Karnow mô tả về tình hình các ấp chiến lược ở Long An:

“Ở đó tôi thấy chương trình ấp chiến lược bắt đầu trong thời kỳ Diệm đang trong cơn hỗn loạn. Tại một địa điểm gọi là Hòa Phú, một ấp chiến lược được xây dựng trong mùa hè năm ngoái nay trông giống như bị trúng bão. Hàng rào kẽm gai bao xung quanh đã bị phá vỡ, tháp canh bị phá hủy và chỉ một vài người dân còn ở lại...

Một lính gác địa phương giải thích với tôi rằng một số du kích Việt Cộng đã tới trong một đêm, họ vận động các nông dân hợp sức phá bỏ nó và trở về làng quê của họ. Nông dân đã ủng hộ họ...

Ngay từ đầu, ở Hòa Phú và các nơi khác, nông dân căm ghét các ấp chiến lược, nhiều người bị buộc phải dọn tới đó bởi các quan chức tham nhũng, những người đã bỏ túi phần lớn số tiền được phân bổ cho các dự án.

Nếu chiến tranh là một trận chiến để giành được sự ủng hộ của trái tim và trí óc người dân, thì Hoa Kỳ và các đối tác ở miền Nam Việt Nam chắc chắn đã đánh mất Long An.

"Cảm giác lướt qua của tôi, sau đó đã được xác nhận trong một cuộc khảo sát rộng rãi hơn được thực hiện bởi Earl Young, đại diện cấp cao của Mỹ trong tỉnh. Ông đã báo cáo vào đầu tháng 12 rằng đã có 200 ấp chiến lược ở Long An đã bị phá hủy kể từ mùa hè, bởi Việt Cộng hoặc bởi những người dân địa phương, hoặc bởi sự kết hợp của cả hai."


59 NĂM NGÀY GIA TỘC NGÔ ĐÌNH DIỆM BỊ MỸ BẬT ĐÈN XANH ĐỂ ĐÀN EM TIÊU DIỆT!(02/11/1963 - 02/11/2022)!!

         Cuộc đảo chính năm 1963 đã đưa anh em Ngô Đình Diệm xuống địa ngục của trần gian, đền tội trước nhân dân Việt Nam; tuy nhiên, những kẻ giết hắn và cả gia tộc nhà Diệm lại là những kẻ đã dựng hắn lên và tôn thờ hắn một thời. Cái chết của anh em Ngô Đình Diệm là kết cục bi đát nhất cho kẻ can tâm làm tay sai cho giặc để phản bội tổ quốc, tàn hạn nhân dân. Với việc giết Diệm thì bản chất của Đế quốc Mỹ cũng lộ rõ; đúng như lời Tổng thống (Pakistan), Ayub Khan, đã nói với Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon: “Cuộc thảm sát gia đình Ngô Đình Diệm đã khiến các lãnh tụ Á Châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Làm đồng minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hữu ích hơn nữa là nên làm kẻ thù của Hoa Kỳ”. Có nghĩa là người Mỹ chỉ vì lợi ích quốc gia của họ mà thôi, đối với kẻ làm tay sai thì họ dựng lên được thì cũng có thể hạ xuống như cái cách mà người ta lật bàn tay mà thôi!
     Và bây giờ sau hơn 47 năm, những kẻ chống Cộng lưu vong ở hải ngoại và một số thành phần phản quốc ở trong nước lại cả ngợi và “tưởng niệm” Ngô Đình Diệm. Chúng hối tiếc vì đã sai lầm khi giết Diệm và cho rằng chính vì sai lầm này mà ngụy Sài Gòn sụp đổ .Đúng là trò hề của lịch sử của một đám vong quốc nô! Dù cho cả một trăm, một ngàn Ngô Đình Diệm thì mãi mãi phi nghĩa sẽ không bao giờ thắng được chính nghĩa, bất Nhân không thắng được đại Nhân và bất Nghĩa chẳng bao giờ thắng Đại Nghĩa! Nhân dân Việt Nam sẽ đánh bại bất cứ kẻ thù nào dù chúng hùng mạnh và hung hãn đến đâu! Lịch sử dân tộc đã chứng minh điều đó!
     Mỹ xâm lược Việt Nam và dựng lên đám tay sai, bán nước ngụy Sài Gòn để phục vụ cho mưu đồ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Ngô Đình Diệm được dựng lên để phục vụ ý đồ đánh lừa dư luận quốc tế về cái gọi là "giúp Việt Nam có độc lập, dân chủ, tự do". Họ rêu rao là miền Nam Việt Nam đã có chế độ "dân chủ, tự do" dưới tên gọi mỹ miều là "nền đệ nhất cộng hòa". Thực chất là phục vụ mưu đồ xâm lược, chia cắt đất nước và "ngăn chặn phong trào cộng sản lan sang Đông Nam Á". Mỹ mất hơn 1000 tỷ USD (thời giá 2010), bị khai tử hơn 58.000 tên, 305.000 trở thành phế nhân, quân chư như Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan, Úc, New Zealand...khoảng 40.000 mạng và trở thành phế nhân khoảng 50.000 tên. Chính ngụy quân bị Quân đội nhân dân Việt Nam khai tử hơn 1 triệu lính. Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, rút quân vì họ hiểu rằng, dù có bán hết cả Hoa Kỳ cũng chẳng đủ để chiến thắng đất nước Việt Nam anh hùng và bất khuất.
     Chiến tranh kết thúc hơn 47 năm, vết thương dần liền sẹo nhưng tội ác của giặc Mỹ và chư hầu, tay sai, bán nước Ngô Đình Diệm, ngụy Sài Gòn thì người Việt Nam không bao giờ có thể quên. Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, hòa hợp dân tộc vì hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Ngô Đình Diệm là tội đồ dân tộc, tội nhân thiên cổ. Bài học cho những kẻ bán nước, theo ngoại bang và khi hết giá trị lợi dụng thì chính người Mỹ đã bật đèn xanh cho cấp dưới của Ngô Đình Diệm là Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu...tận diệt. Và bây giờ đám tàn dư lại tưởng niệm Ngô Đình Diệm. Đúng là trò hề của lịch sử./.
Yêu nước ST.