Hẳn chúng ta còn nhớ, Hiệp định Paris được ký kết vào 27-1-1973 là cả một chiến tích oanh liệt, một chiến thắng to lớn, một mốc son lịch sử mà Cách mạng Việt Nam đã kiên cường đấu tranh bằng cả ba phương thức quân sự, chính trị và ngoại giao một cách cực kỳ khéo léo và bền bỉ suốt từ năm 1968. Chúng ta đã buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán tại Paris. Thế nhưng cho đến tận năm 1973 thì mới đi tới thành công. Lúc đó, Cách mạng nước nhà cũng mới thực hiện được "một nửa" mong muốn, khát vọng hòa bình, thống nhất đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời. Có một sự kiện rất đặc biệt đối với Cách mạng Miền Nam, đó là vào tháng 4-1973, sự kiện đoàn lãnh đạo cấp cao của Trung ương Cục Miền Nam ra Bắc công tác đến nay cũng vừa tròn 50 năm thì rất ít người biết và cần được thông tin đến bạn đọc.
Khi chúng ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Bác Hồ chúc Tết đồng bào cả nước: "Năm qua thắng lợi vẻ vang/Năm nay tiền tuyến ắt càng thắng to/Vì Độc lập, vì Tự do/ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào/Tiến lên chiến sĩ đồng bào/ Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn!".
Thế nhưng cũng phải 5 năm sau, ước mong của Bác mới được toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân thực hiện. Ðó là việc Mỹ đã chấp nhận ký kết Hiệp định Hòa bình tại Paris năm 1973, chấp nhận rút quân Mỹ về nước.
Sau sự kiện lịch sử nói trên, Bộ Chính trị Trung ương Ðảng có điện trao đổi với Trung ương Cục miền Nam. Bí thư Thứ nhất Trung ương Ðảng Lê Duẩn mời lãnh đạo chủ chốt Trung ương Cục ra Bắc để báo cáo tình hình, bàn chuyện chiến lược đầy hệ trọng để tiếp tục thực hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ðó cũng chính là để thực hiện trọn vẹn bài thơ Xuân của Người năm xưa cũng như Di chúc mà Người để lại cho toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta...
Trung tướng Ðặng Quân Thụy, nguyên Ủy viên Trung ương Ðảng, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội đã dành cho tôi một cuộc gặp mà tôi tha thiết đề nghị bởi tôi từng biết, vị lão tướng nay đã sang tuổi 96. Ông từng tham gia đoàn công tác ra Bắc 50 năm trước và giờ đã chắc còn được mấy vị thông tuệ như ông để kể cho nhiều người biết. Ông chính là một chứng nhân lịch sử trong chuyến công tác đặc biệt ra Bắc có một không hai đó của đoàn lãnh đạo cao cấp Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam chúng ta.
Ðoàn ra Trung ương để báo cáo công tác nói trên và đồng chí Ðặng Quân Thụy với tư cách của một sĩ quan cao cấp được tin tưởng giao tháp tùng đoàn nhằm tham mưu, giúp việc cho Trung tướng Hoàng Văn Thái ở góc độ quân sự. Khi đó, Trung tướng Hoàng Văn Thái là Ủy viên Trung ương Ðảng Lao động Việt Nam (LÐVN), Phó bí thư Trung ương Cục kiêm Tư lệnh Bộ chỉ huy Quân Giải phóng Miền Nam (B2), kiêm Phó bí thư Quân uỷ Miền.
Tháng 4-1973, mãi đến ngày sát nút của chuyến công tác ra Bắc đặc biệt ấy thì Thượng tá Ðặng Quân Thụy, khi đó là Phó trưởng phòng Tác chiến Bộ Tham mưu Quân Giải phóng miền Nam mới nhận được nhiệm vụ lo chuẩn bị gấp phần nội dung quân sự phụ giúp Tư lệnh Hoàng Văn Thái ra Hà Nội báo cáo với Bộ Chính trị.
Cũng do nhận nhiệm vụ sát ngày cho nên mấy hôm trước khi lên đường, ông phải lo chuẩn bị vất vả. Thế nhưng vẫn cứ phải là tốt nhất để Tư lệnh Hoàng Văn Thái báo cáo. "Ðây là một chuyến đi mang tính tuyệt mật bởi không chỉ có mình Tư lệnh Hoàng Văn Thái mà còn nhiều yếu nhân khác trong Trung ương Cục tham gia. Ðó là Ủy viên Trung ương Ðảng LÐVN, Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Văn Linh (lúc đó, đồng chí Nguyễn Văn Linh trên danh nghĩa (mang tính đối ngoại) còn gọi là Tổng Bí thư Ðảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam Việt Nam mà thực tế cũng rất ít người biết và gọi như vậy.
Ðoàn còn có đồng chí Võ Văn Kiệt, Ủy viên Trung ương Ðảng LÐVN, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, Bí thư Khu uỷ Khu 9 và đồng chí Nguyễn Minh Đường, Bí thư Khu ủy Khu 8.
Ðoàn công tác này cũng khá gọn. Từ 4 vị lãnh đạo nói trên, theo Trung tướng Đặng Quân Thụy, thì mỗi vị chỉ có một Bí thư (nay gọi là trợ lý) cùng một cán bộ tham mưu giúp việc về chuyên môn tháp tùng. Ví dụ như đồng chí Thụy thì tham mưu chuyên về quân sự. Khi nào được yêu cầu thì giúp thủ trưởng Thái trực tiếp báo cáo.
Chuyến đi đó, như đồng chí Nguyễn Văn Linh thì người đi tháp tùng chính là vị Chánh Văn phòng Trung ương Cục... Ðương nhiên là còn có một lực lượng phục vụ, bảo vệ riêng và chung của các yếu nhân cũng đi cùng đoàn. Nhưng tinh thần thì vẫn là gọn nhẹ bởi dọc đường đi chúng ta cũng đã bố trí bảo vệ ở mức an toàn nhất có thể.
"Chuyến đi đó với tôi quả một ấn tượng quá đỗi đặc biệt - Trung tướng Đặng Quân Thụy nói. Ðó là sau khi chúng ta đã ký kết Hiệp định Paris, tức là chúng ta đã giành thắng lợi một phần cực kỳ quan trọng. Cứ hình dung cái cảm giác người Mỹ phải lặng lẽ làm lễ cuốn cờ tại sân bay Tân Sơn Nhất để rời khỏi Việt Nam thì cũng sẽ thấy cái niềm vui mừng đó ra sao", Trung tướng Đặng Quân Thụy bồi hồi kể lại.
Chỉ nội việc sau gần 9 năm sống trong chiến trường như Trung tướng Đặng Quân Thụy là đủ thấy niềm vui vỡ oà. Ngay từ năm 1964, Trung tướng Đặng Quân Thụy đã từng vượt đường biển bằng "Tàu Không số". Nhưng rồi chuyến đó không thể cập bờ được bởi vì được biết có biến động. Bộ Tổng Tham mưu buộc ra lệnh đoàn phải quay trở về Bắc để bảo toàn tính mạng và vũ khí khi đó chở theo tàu. Tiếp đó, năm 1965, Trung tướng Đặng Quân Thụy lại vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu bằng đường bộ. Ông đã phải trèo đèo, lội suối, băng rừng với nhiệm vụ được trao là Trưởng phòng Hóa học của Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam, hàm Trung tá. Thế nhưng bây giờ, ông và cả đoàn công tác đã được đi bằng ô tô từ chiến lợi phẩm thu được của địch sau khi ta chiếm được. Ðoàn đi từ căn cứ Lộc Ninh (tỉnh Bình Phước ngày nay) đến vùng biên giới tỉnh Stung Treng, Campuchia để tiếp tục đi bằng ô tô trên đất bạn Campuchia. Tiếp theo là Lào và ra tới tận biên giới giáp huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị của Việt Nam. Ðoàn hành quân mà không hề ngại chuyện gì bởi đã được Ðoàn 559 (BTL Binh đoàn Trường Sơn) bảo vệ đoàn cực kỳ đặc biệt và lo toan hết sức chu đáo, tình cảm...
"Qua các binh trạm dọc đường Trường Sơn trên đất bạn, chúng tôi thấy rõ một điều, về cơ sở vật chất hậu cần của quân đội ta khi đó đã khác xưa quá nhiều. Rất đàng hoàng! Ðoàn đến binh trạm nào cũng được đón tiếp chu đáo nhưng vẫn đảm bảo rất bí mật. Vui nhất là khi đang còn trên đất bạn Lào, đoàn công tác của ông đã chứng kiến một đoàn xe tăng được đưa vào miền Nam để chi viện cho chiến trường. Nhìn thấy đoàn xe tăng mà ai cũng trào dâng một cảm xúc vui sướng, tự hào đến kỳ lạ bởi càng thêm tin tưởng vào sức mạnh của lực lượng chủ lực của quân đội ta. Như vậy thì ngày toàn thắng sẽ được bảo đảm chắc chắn...".
Trung tướng Đặng Quân Thụy nhớ lại và cũng sực nhớ thêm mấy chi tiết: Ðường Trường Sơn trên đất bạn tuy cũng khá ổn nhưng thực sự đi xe vẫn còn xóc. Trong đoàn, trên đất bạn Lào có một xe bị đổ nghiêng, nhưng may là không có người bị thương. Cũng trên đường ở đất bạn Lào, đoàn được gặp đoàn đồng chí Tố Hữu, khi đó là Bí thư Trung ương Ðảng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương đi vào Nam công tác. Ðoàn đã dừng lại để các đồng chí lãnh đạo trao đổi tình hình và công việc của nhau rồi chúng tôi chia tay nhau...
Mừng nữa là sau vài ngày đi bằng xe ô tô thì khi ra đến Quảng Trị, đoàn đã có một chiếc máy bay quân sự chờ sẵn đón đoàn. Chúng tôi thật sự mừng vui và cảm động vô bờ. Ngồi trên máy bay nên mọi người được nhìn xuống đất mẹ thiêng liêng sau nhiều năm hoạt động bí mật trong lòng địch hoặc tại chiến khu nhưng vẫn phải bí mật, kín đáo theo quy định nên chúng tôi vui mừng đến trào nước mắt.
Ðến khi máy bay hạ cánh tại sân bay Gia Lâm, Hà Nội, Ðại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng đã đích thân đứng chờ để đón đoàn trong sự mừng vui khôn tả.
"Chúng tôi được thông báo rằng các đồng chí trong đoàn sẽ được phép tranh thủ về thăm gia đình vài hôm. Sau rồi sẽ quay trở về Hà Nội làm việc với các đồng chí lãnh đạo cấp trên... ", Trung tướng Đặng Quân Thuỵ nhớ lại.
"Cuộc làm việc diễn ra có đến bốn, năm ngày do đồng chí Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn chủ trì. Tham dự có đồng chí Ðại tướng Võ Nguyên Giáp và một số đồng chí khác. Ngồi họp, nghe những vấn đề hết sức hệ trọng nhưng không khí thì thoải mái và ấm cúng. Sau ngày làm việc đầu tiên, rất nhiều đồng chí trong Bộ Chính trị khác nữa như đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Lê Ðức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Văn Tiến Dũng (lúc này đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục bận chỉ đạo công tác nên không ra Hà Nội cùng đoàn)... cũng đã đến họp theo từng nội dung có liên quan hoặc ở lại dự một vài bữa cơm thân mật cùng đoàn chúng tôi để tranh thủ trao đổi thêm công việc. Mọi người vui mừng hỏi thăm đủ chuyện, từ tình hình trong đó đến sức khỏe của mỗi thành viên cũng như tình hình gia đình mỗi người chúng tôi. Thái độ thật ấm áp tình đồng chí. Ðích thân đồng chí Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn ngồi nghe báo cáo rất nhiều buổi với đoàn bằng một cung cách làm việc rất say xưa... ", Trung tướng Đặng Quân Thụy kể.
Sau khi nghe báo cáo và cùng trao đổi, đồng chí Lê Duẩn đã đánh giá tình hình và kết luận nhiều vấn đề rất hệ trọng. Ðồng chí chỉ rõ âm mưu của địch ra sức phá hoại Hiệp định Paris, mở nhiều cuộc hành quân lấn đất, kiểm soát dân. Do đó chúng ta phải kiên quyết đánh bại âm mưu này, củng cố vững chắc các vùng căn cứ địa. Một vấn đề đặt ra là phải phát triển các cơ sở của ta ở vùng nông thôn và đẩy mạnh các phong trào ở đấu tranh ở các đô thị lớn, đặc biệt là Sài Gòn. Bí thư Thứ nhất nhấn mạnh đến việc chúng ta cần phải bám sát lấy dân và biết dựa vào sức mạnh của dân để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Những điều đồng chí nói là những tiền đề giúp cơ quan tham mưu của Ðảng nghiên cứu, soạn thảo văn kiện Nghị quyết 21 của BCH Trung ương Ðảng khóa III sau này... Rồi thì cứ sau mỗi ngày làm việc, 4 đồng chí lãnh đạo trong đoàn lại tranh thủ đến từng tư gia thăm gia đình các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư và lãnh đạo khác nếu có liên quan đến công tác của mỗi vị...
Khi tôi hỏi: Bác có được báo cáo gì thêm mang tính chuyên môn khi các vị lãnh đạo hỏi không? Trung tướng Đặng Quân Thụy bảo: "Các vị lãnh đạo nhà mình được cái là nắm rất chắc tình hình chứ không có chuyện phải hỏi thêm tôi. Mọi thứ thực ra anh em chúng tôi cũng đã chuẩn bị cẩn thận trước đó cả rồi.
Như tôi thì với cương vị là cán bộ đi theo, được dự là để ghi chép, lĩnh hội để hiểu tư tưởng chỉ đạo mà triển khai, làm việc sau này. Chúng tôi phải hết sức nhập tâm vì ngay cả sổ tay vừa được ghi chép đó cũng phải lưu lại cơ quan bảo mật trước khi trở lại chiến trường. Mục đích để đảm bảo độ tuyệt mật cao nhất. Tôi từng làm Bí thư cho Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp nên tôi hiểu, anh Thái luôn nắm tình hình rất vững, rất sâu nên cũng ít khi anh tỏ ra lúng túng khi có thượng cấp hỏi kỹ anh ấy...
Trong cuộc họp báo cáo tình hình miền Nam này thì Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn cũng là người nắm tình hình trong đó rất sâu sát. Sâu tới mức nhiều người còn phải ngạc nhiên. Thế nên các anh lãnh đạo hiểu ngay vấn đề từ những khó khăn cũng như những thuận lợi ra sao để cùng nhau chia sẻ…”, Trung tướng Đặng Quân Thụy nhớ lại khá tỉ mỉ.
Sau chuyến công tác lịch sử đó, đồng chí Tư lệnh Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam Hoàng Văn Thái được ở lại Hà Nội và được phân công về làm Phó tổng Tham mưu trưởng thứ nhất Quân đội nhân dân Việt Nam rồi làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Năm 1980 ông được thăng hàm Ðại tướng. Còn ông Ðặng Quân Thụy thì về Bộ phận nghiên cứu của Cục Tác chiến, tham gia viết tổng kết và nghiên cứu nhiệm vụ tác chiến để chuẩn bị cho kế hoạch giải phóng Miền Nam sau đó.
Tháng 10-1973, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng họp và ra Nghị quyết 21 "Về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng Miền Nam trong giai đoạn mới”. Hội nghị phân tích thắng lợi to lớn của ta sau 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; chỉ ra một số nhược điểm, khuyết điểm của ta từ sau Hiệp định Paris. Hội nghị khẳng định: "Con đường cách mạng của Miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, chỉ đạo linh hoạt, đưa cách mạng miền nam tiến lên."
Tôi nghĩ đó là những gì tất yếu đã đến để Ðảng ta có Nghị quyết trên. Ðó chính là từ sự kiện Bộ Chính trị triệu tập đoàn lãnh đạo Trung ương Cục ra Bắc họp, báo cáo tình hình và tham gia thảo luận để rồi sau đó có được Nghị quyết hết sức quan trọng nói trên.
Hiệp định Paris năm 1973 là kết quả cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Cội nguồn thắng lợi tại Hội nghị Paris là tinh thần quyết chiến quyết thắng, ý chí đấu tranh quật cường, bền bỉ, nhằm bảo vệ chân lý, chính nghĩa, lý tưởng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và người kế tục là đồng chí Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, trên cơ sở chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hiệp định Paris về Việt Nam mãi mãi là trang sử vàng chói lọi, thể hiện cao độ bản lĩnh, tinh thần, trí tuệ của con người và nền văn hóa Việt Nam được kết tinh từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau những bài học vô giá. Đó còn là cuộc đấu tranh kiên cường vì các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam, được thể hiện trong Hiệp định - văn bản pháp lý toàn diện...
Không chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam, Hiệp định Paris còn mang tính quốc tế khi góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước của nhân dân Lào và Campuchia. Hiệp định cũng góp phần mở ra một chương mới trong cục diện Đông Nam Á: Mỹ rút lui về quân sự khỏi Đông Dương và Đông Nam Á; xu thế hòa bình, trung lập phát triển mạnh trong khu vực, mở ra khả năng thiết lập một khu vực hòa bình, hữu nghị ổn định...
Trung tướng Đặng Quân Thụy sinh năm 1928, từng học Trường Bảo hộ Đông Dương tại Hà Nội rồi tham gia Cách mạng năm 1944, là cán bộ lão thành Cách mạng. Năm 1946, ông tham gia Nam tiến và bị thương tại Tây Nguyên. Sau khi chữa lành vết thương, Đặng Quân Thụy được Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái tin tưởng giữ lại Bộ Tổng Tham mưu làm Tổ trưởng tổ Chiến sự thuộc Phòng Tác chiến (1947) và làm Bí thư cho Tổng Tham mưu trưởng. Ông từng làm Trưởng ban Biên tập tạp san Quân sự Bộ Quốc phòng (1948), phái viên tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu tại mặt trận Điện Biên Phủ (1953).
Trong thời gian công tác trên đất bạn Campuchia, thêm một lần ông bị trọng thương và tưởng như không thể qua khỏi.
Sau gần 9 năm lăn lộn chiến đấu, ông được cử ra Bắc trong đoàn công tác do Phó bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh dẫn đầu như trong bài viết. Một năm sau, 1974, ông nhận trọng trách Cục trưởng Cục Hóa học, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam rồi làm Tư lệnh Binh chủng Hoá học (năm 1977).
Năm 1986, ông được cử làm Phó tư lệnh Quân khu 2, có thời gian kiêm Tư lệnh Mặt trận Vị Xuyên. Năm 1987, ông được bổ nhiệm Tư lệnh Quân khu 2.
Năm 1992, Trung tướng Đặng Quân Thụy được Quốc hội bầu làm Phó chủ tịch Quốc hội kiêm Chủ nhiệm Ủy ban An ninh Quốc phòng của Quốc hội, một Ủy ban mới được thành lập tại Quốc hội Khóa 9. Ông cũng từng làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam rồi mới nghỉ công tác.
Ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta và nhiều Huân chương cao quý khác của nước ta và bạn bè quốc tế.
Ảnh: Từ phải sang trái: Đồng chí Hoàng Văn Thái, đồng chí Nguyễn Văn Linh, đồng chí Võ Văn Kiệt mặc áo trắng. Đồng chí Đặng Quân Thụy đi sau đồng chí Hoàng Văn Thái.
Yêu nước ST.
chuyến đi rất ý nghĩa
Trả lờiXóa