Như chúng ta đã biết dân tộc là những vấn đề phức
tạp có liên quan chặt chẽ với nhau không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới, nhất là các quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Lịch sử thế
giới cho thấy, khi nào vấn đề dân tộc được giải quyết thành công thì xã hội
mới có sự ổn định và phát triển; nếu giải quyết không tốt sẽ dẫn đến xung đột,
làm mất ổn định xã hội. Đảng, Nhà nước Việt Nam thường xuyên quan tâm thực hiện
tốt công tác dân tộc, tạo động lực to lớn góp phần thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trong những năm vừa qua. Trong
gia đình các dân tộc Việt Nam, có 54 dân tộc anh em, dân tộc Kinh là dân tộc đa
số, 53 dân tộc còn lại là dân tộc thiểu số. các dân tộc ở Việt Nam không có dân
tộc nào là dân tộc bản địa. Thuật ngữ “Dân tộc thiểu số” thường dùng để chỉ
những người thuộc các dân tộc (tộc người) có dân số ít hơn so với dân tộc đa
số. Theo các nhà dân tộc học, để xác định một dân tộc (tộc người), cần phải dựa
vào 3 tiêu chí cơ bản là: có chung ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa và ý thức tự giác
tộc người. Dựa vào các tiêu chí nói trên, trong những năm 70 của thế kỷ XX, Ủy
ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) và
Ủy ban Dân tộc đã thống nhất xác định các dân tộc, xây dựng Bảng Danh mục thành
phần các dân tộc ở nước ta trình Hồi đồng Chính phủ đã ủy quyền co Tổng cục
Thống kê chính thức công bố bảng danh mục thành phần các dân tộc nước ta gồm 54
dân tộc, trong đó dân tộc Kinh là dân tộc đa số, 53 dân tộc còn lại là dân tộc
thiểu số.
Việc xác định thành phần dân tộc Việt Nam là căn cứ
để thực hiện các cuộc Tổng điều tra dân số, phục vụ việc hoạch định chính sách
phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn văn hóa truyenf thống của các dân tộc, bảo
đảm nguyên tắc các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát
triển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét