Hiện nay, một số tổ chức, cá nhân vô tình hay cố ý
thường nhầm lẫn hai khái niệm dân tộc thiểu số và dân tộc bản địa, dẫn đến nhận
định và đánh giá không đúng về thực hiện các quyền của người dân tộc thiểu số
và quyền của dân tộc bản địa ở Việt Nam.
Trong tiếng Anh, dân tộc bản địa được ghi trong văn
bản của Liên hợp quốc là: Indigenuos (dân tộc bản địa hay dân tộc bản xứ) hoặc
Aborginal peoples (những người thổ dân). Liên hợp quốc quan niệm: “Dân tộc bản
địa hay còn gọi là thổ dân, là nhóm người đã từng có mặt trên một khu vực đất
đai, trước ngày di dân của nhóm dân tộc khác vào lãnh thổ của họ”[1].
Ví dụ: Những người thổ dân ở châu Đại Dương, họ đã sinh sống lâu đời ở châu Đại
Dương, trước khi thực dân Anh đưa quân đội và dân đến chiếm đóng, thống trị và
cai quản. Những người Mỹ gốc thổ dân hay thường gọi là người da Đỏ ở Mỹ, cũng
có thể đọc theo phiên âm là người Anhđiêng (tiếng Anh là Native American
Indians, Indigenous Peoples, Aboriginal Peoples hay Original Americans) là
những người đã sinh sống lâu đời trên đất Mỹ, trước khi quân đội và người da
trắng đến chiếm đóng.
Theo lịch sử nước ta, thuật ngữ “Dân tộc bản địa”
gắn liền với các thời kỳ nước ta bị đô hộ, xâm lược. Thời kỳ Pháp thuộc, thuật
ngữ “dân tộc bản địa” hoặc “người bản xứ” được dùng để chỉ tất cả các cộng đồng
dân tộc Việt Nam (kể cả người Kinh và các dân tộc thiểu số). Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, người dân Việt
Nam làm chủ đất nước của mình, không còn là dân bản địa hay bản xứ nữa. Trong Tuyên
ngôn độc lập, Nhà nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa đã khẳng định: Nhà nước
tôn trọng quyền bình đẳng của tất cả các công dân thuộc các dân tộc sinh sống
trên đất nước Việt Nam. Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946
quy định: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính
trị, kinh tế, văn hóa”[2].
Đối với các dân tộc thiểu số, Hiến pháp cũng đã quy định: “Nhà nước bảo vệ,
tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc nghiêm cấm mọi hành vi miệt
thị, chia rẽ dân tộc”[3].
Từ năm 1945 đến nay, thuật ngữ dân tộc bản địa hay người bản xứ chỉ còn dùng
trong văn bản lịch sử hoặc trong ký ức, gợi nhớ về quá khứ đau thương của dân
tộc ta, dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Hiện tại trong tất cả các văn bản
hành chính và đời sống văn hóa xã hội ở nước ta không còn sử dụng thuật ngữ
“dân tộc bản địa” để chỉ vị thế của người dân hoặc nói về các dân tộc thiểu số
hiện đang sinh sống trên đất nước Việt Nam. Hiện nay ở Việt nam có 54 dân tộc,
gồm: Dân tộc Kinh là dân tộc đa số, 53 dân tộc còn lại là dân tộc thiểu số, chứ
ở Việt Nam hiện nay không có dân tộc nào là dân tộc bản địa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét