Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là một văn kiện lịch sử vô giá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, chỉ ra con đường vận động, phát triển của nền văn hóa mới Việt Nam nhằm đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Sau 80 năm, những tư tưởng của Đề cương về văn hóa vẫn còn nguyên giá trị, được Đảng ta vận dụng, bổ sung, hoàn thiện trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. (Trong ảnh: một gia đình tại làng cổ Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội) - Ảnh: vietnamnet.vn
Văn hóa, bao gồm cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, là thành quả hoạt động sáng tạo, kết tinh trí tuệ của con người. Con người là chủ thể văn hóa và văn hóa là thước đo sự phát triển tiến bộ, văn minh của con người. Khi hình thành các cộng đồng người, các dân tộc, giai cấp thì văn hóa mang dấu ấn cộng đồng, giai cấp, dân tộc. Dân tộc Việt Nam đã sớm hình thành các nền văn hóa. Văn hóa thời tiền sử: đó là các nền văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn, Hạ Long, Bàu Tró. Văn hóa định hình quốc gia, dân tộc: Văn hóa Phùng Nguyên cách ngày nay 4.000 năm, tiếp đó là văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn hình thành nền văn minh Sông Hồng. Với sự hội nhập từ văn hóa Đông Sơn đến văn hóa Sa Huỳnh (Nam Trung Bộ), văn hóa Óc Eo (Nam Bộ), văn hóa Việt Nam thống nhất trong tính đa dạng.
Quốc gia Đại Việt phát triển “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” (Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo). Văn hiến là sự hội tụ của các yếu tố: văn hóa, học thức, đạo đức và cái đẹp. Trải qua lịch sử mấy nghìn năm, dân tộc Việt Nam nhiều lần phải chống xâm lược từ phương Bắc và phương Tây để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và cũng chống lại sự xâm lăng văn hóa, đồng hóa về văn hóa. Dân tộc Việt Nam đã đứng vững về chủ quyền lãnh thổ quốc gia và bảo toàn văn hóa dân tộc. Văn hóa còn nên dân tộc còn.
Năm 1943, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập của Việt Nam do Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo phát triển mạnh mẽ. Với tầm nhìn chiến lược và nhận thức lý luận, thực tiễn sâu sắc về văn hóa, Đảng đã lãnh đạo thành lập Hội văn hóa Cứu quốc và công bố Đề cương về văn hóa Việt Nam nhằm thúc đẩy và phát huy vai trò của văn hóa và các nhà hoạt động văn hóa góp phần vào thắng lợi của dân tộc trong sự nghiệp giải phóng và phát triển.
Khái niệm văn hóa mà bản đề cương đề cập là văn hóa tinh thần thuộc ý thức xã hội. “Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”. Với nhận thức khoa học, đề cương nêu rõ mối “quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị”, quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc. Đề cương nêu rõ: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”(1). Trong hoàn cảnh một nước phong kiến và thuộc địa, cách mạng Việt Nam “Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa”. Trên thực tế, các thế lực thực dân, phát xít đã thực hành ở Việt Nam chính sách văn hóa phản động, ngu dân, áp đặt văn hóa của nước đi xâm lược, nên cách mạng văn hóa là tất yếu.
Bản đề cương nêu rõ quan điểm của người cộng sản về cách mạng văn hóa. Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, văn chương, nghệ thuật thuộc ý thức xã hội. Ý thức xã hội tiến bộ, tích cực có vai trò cải tạo xã hội, biến đổi tồn tại xã hội. “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”(2). Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cách mạng chính trị thắng lợi thì cách mạng văn hóa mới thành công. Cách mạng văn hóa dựa vào thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập hoàn toàn “xây dựng nên một nền văn hóa mới”. Nền văn hóa mới “sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”.
Ba nguyên tắc xây dựng nền văn hóa mới được đề ra:
“a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập).
b) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng).
c) Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).
Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng văn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm, v.v.. Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng văn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít”(3).
Các nội dung văn hóa được nhấn mạnh: về học thuyết tư tưởng làm cho “thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng”, về tông phái văn nghệ (văn chương, nghệ thuật) “làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”. Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết, làm giàu tiếng nói, ấn định mẹo văn ta, cải cách chữ quốc ngữ. Chú trọng các giải pháp: tuyên truyền và xuất bản, tổ chức các nhà văn, giành quyền lợi cho nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ..., chống nạn mù chữ. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vô sản mácxít với văn hóa.
Dù ngắn gọn, bản đề cương đã trình bày rõ, đầy đủ những quan điểm, nguyên tắc, đường lối, chính sách văn hóa của Đảng với những nội dung cơ bản có ý nghĩa khoa học và thực tiễn chỉ đạo lâu dài xây dựng nền văn hóa cách mạng do Đảng lãnh đạo, bảo đảm cho nền văn hóa mới đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh và phát triển của dân tộc, đất nước.
Trước khi công bố Đề cương về văn hóa Việt Nam, Ban Thường vụ Trung ương Đảng tại Nghị quyết ban hành ngày 28-2-1943 đã nêu rõ quan điểm, chủ trương đẩy mạnh vận động văn hóa. Phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa để gây dựng phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc. “Ở những đô thị văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Huế, v.v. phải gây ra những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai hay bán công khai đặng đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức (ví dụ có thể tổ chức những nhóm “văn hóa tiền phong”, “nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, “nhóm nghiên cứu lịch sử Việt Nam”), v.v.”(4).
Năm 1943, Hội văn hóa Cứu quốc ra đời ở Hà Nội, tập hợp đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động theo đường lối của Đảng và Chương trình của Mặt trận Việt Minh, nhất là tư tưởng chỉ đạo của Đề cương về văn hóa Việt Nam. Đồng chí Lê Quang Đạo được Đảng phân công trực tiếp chỉ đạo hoạt động của Hội văn hóa Cứu quốc. Tổ chức Hội đã phát triển rộng trên phạm vi cả nước. Hội văn hóa Cứu quốc và đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động trên mặt trận văn hóa đã đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp của Đảng và dân tộc dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Các nhà trí thức, hoạt động văn hóa đã là đại biểu của Đại hội quốc dân Tân Trào, tham gia Ủy ban giải phóng dân tộc, Chính phủ lâm thời, được bầu vào Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là thành viên Chính phủ chính thức, Ủy ban xây dựng kế hoạch kiến thiết quốc gia, đóng góp tích cực vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Cùng với đường lối kháng chiến, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, phát triển kinh tế, Đảng đề ra chủ trương phát triển văn hóa trong Chỉ thị ngày 25-11-1945: “Về văn hóa, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động văn hóa cứu quốc, kiến thiết nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học hóa, đại chúng hóa, dân tộc hóa”(5).
Những năm tháng đầu tiên của Nhà nước cách mạng, quần chúng nhân dân không chỉ hiểu thấu giá trị của độc lập, tự do mà còn được thụ hưởng văn hóa mới, xây dựng đời sống mới, khi nhân dân trở thành người chủ đất nước, xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra những chủ trương cấp thiết là chống nạn mù chữ, nâng cao dân trí, tìm kiếm nhân tài: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”(6). Hồ Chí Minh mong muốn dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” và “chúng ta là một dân tộc văn minh”. Ngày 24-11-1946, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của văn hóa với quan điểm “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Giá trị văn hóa mới với bản chất tiến bộ, tiên phong thúc đẩy sự phát triển của dân tộc, đất nước.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng chủ trương kháng chiến toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Văn hóa là mặt trận rất quan trọng trong sự nghiệp cứu nước với khẩu hiệu “Văn hóa hóa kháng chiến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Hồ Chí Minh nêu rõ quan điểm: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(7).
Những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960) đã đề ra chủ trương tiến hành 3 cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, về khoa học - kỹ thuật và về tư tưởng, văn hóa. Cách mạng tư tưởng, văn hóa gắn liền với xây dựng con người của xã hội mới. Văn hóa, tư tưởng có vai trò to lớn trong cải biến, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Cuộc cách mạng đó đào luyện con người mới với tư cách chủ thể trong sự nghiệp sáng tạo xã hội mới. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”(8).
Đảng và Nhà nước chăm lo sự nghiệp “trồng người” với một nền giáo dục nghiêm cẩn, sáng tạo, ưu việt của hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa, kết hợp với giáo dục trong gia đình, ngoài xã hội và tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện. Vì vậy, đã có được những lớp người sẵn sàng đem hết tài năng, công sức xây dựng đất nước và đi bất cứ đâu, sẵn sàng hy sinh cứu nước, nêu cao tinh thần tập thể, ý thức làm chủ, với phong cách sống: “mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
Khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đường lối của Đảng hướng đất nước thực hiện xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, tạo nên sức mạnh tổng hợp, vượt qua khó khăn, thách thức, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chính chủ thể là con người năng động, sáng tạo, đổi mới tư duy, vượt qua những nhận thức bảo thủ, trì trệ, giáo điều, nóng vội, đi từ đổi mới từng phần đến khẳng định đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986).
Khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI chủ trương lấy nhiệm vụ đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế làm trung tâm, đồng thời đặt cao vai trò của văn hóa thúc đẩy cải tạo xã hội và phát triển chế độ chính trị, kinh tế vững mạnh. “Mỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý, tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi”(9). “Chống những tàn tích văn hóa phong kiến, thực dân, tư sản. Làm thất bại âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch biến văn hóa, văn nghệ thành phương tiện gieo rắc tâm lý bi quan và lối sống sa đọa. Bài trừ mê tín dị đoan, hủ tục”(10).
Những năm đầu đổi mới, trước tác động tiêu cực của sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô, sự phá hoại của các thế lực thù địch sử dụng công cụ văn hóa, văn nghệ, báo chí, phát thanh trong chiến dịch “Chuyển lửa về quê nhà”, Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam đã bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo đảm cho công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển lành mạnh, vững chắc và có thành tựu lớn cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và đời sống mọi mặt của nhân dân.
Nhận thức lý luận và thực tiễn về vai trò của văn hóa không ngừng phát triển. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng (tháng 9-1991) thông qua và Cương lĩnh bổ sung, phát triển tại Đại hội XI (tháng 1-2011) đều nêu rõ một trong các đặc trưng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để cụ thể hóa quan điểm của Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Nghị quyết Trung ương 5 Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quá trình thực hiện Nghị quyết của Trung ương đã đạt nhiều thành quả về xây dựng, phát triển văn hóa trong quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời cũng đòi hỏi phải tổng kết làm rõ hơn quan điểm, chủ trương về văn hóa phù hợp với thực tiễn đất nước và quan hệ quốc tế.
Văn hóa luôn luôn gắn liền với chủ thể là con người, con người sáng tạo không ngừng các giá trị văn hóa và văn hóa góp phần xây dựng và hoàn thiện con người. Ngày 9-6-2014, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI ban hành Nghị quyết Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu chung: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(11). Nghị quyết đề ra 5 mục tiêu cụ thể, trong đó mục tiêu hàng đầu là hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi con người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.
Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI khẳng định 5 quan điểm, trong đó quan điểm hàng đầu là: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang với kinh tế, chính trị, xã hội”(12). Đảng chú trọng bảo đảm bản sắc của văn hóa, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, con người có đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa. Xây dựng, phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng. Đảng đã đề ra những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để xây dựng, phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ mới.
Những quan điểm, nhiệm vụ do Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đề ra nhằm chủ động, tích cực phòng ngừa, ngăn chặn “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng”. Khắc phục tình hình đời sống văn hóa, tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu, khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân. Môi trường văn hóa còn tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục, tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Khắc phục tình trạng còn ít những tác phẩm văn chương, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng, nghệ thuật và những tiêu cực khác trong đời sống văn hóa, xã hội.
Có một thực tế là, trong công cuộc đổi mới, có nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, song lại có biểu hiện xuống cấp về văn hóa, đạo đức, lối sống. Điều đó đặt ra sự cần thiết phải nhận thức sâu sắc hơn về vai trò xây dựng, phát triển văn hóa, con người, có những chính sách, giải pháp thích hợp để phát triển hài hòa kinh tế và văn hóa nhằm củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực tế cũng đòi hỏi mỗi người, mỗi tập thể, cộng đồng chăm lo hơn đời sống văn hóa, kết hợp đúng đắn đời sống vật chất với đời sống tinh thần, tình cảm vì những giá trị hạnh phúc thật sự.
Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) là bước tiến rất quan trọng trong nhận thức tầm cao và ý nghĩa của văn hóa khi nhấn mạnh các hệ giá trị: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội”(13).
Xây dựng, phát triển văn hóa, xây dựng con người với những hệ giá trị và chuẩn mực là sự bảo đảm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần rất quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, tạo động lực để xây dựng, phát triển kinh tế. Tất cả đều hướng tới mục tiêu vì một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.
Ngày 24-11-2021, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài phát biểu rất quan trọng làm rõ những quan điểm cơ bản, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, phát triển văn hóa và con người mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Tổng Bí thư nêu rõ: “dù theo nghĩa rộng hay hẹp thì khi đã nói đến văn hóa là nói đến những gì là tinh hoa, tinh túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, nhân tình, tiến bộ (một con người có văn hóa, một gia đình có văn hóa, một dân tộc có văn hóa; lối sống văn hóa, nếp sống văn hóa, cách ứng xử có văn hóa,...). Còn những gì xấu xa, việc làm ti tiện, đớn hèn, những hành động phi pháp, bỉ ổi... là vô văn hóa, phi văn hóa, phản văn hóa. Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng”.
Đã 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, sức sống, ý nghĩa của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa vẫn trường tồn và phát triển phong phú, sáng tạo đến hôm nay và mãi mãi.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 540 (tháng 02-2023)
Ngày nhận bài: 17-02-2023; Ngày bình duyệt: 18-02-2023; Ngày duyệt đăng: 21-02-2023.
(1), (2), (3), (4) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr.316, 318, 319, 301.
(5) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.8, Sđd, tr.28.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.7.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd, tr.246.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr.66.
(9), (10) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Sđd, tr.426, 427.
(11), (12) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.46-47, 48.
(13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.143.
bài rất ý nghĩa
Trả lờiXóa