Cuộc chiến tự vệ vì chính nghĩa
Việt Nam - Campuchia là hai nước láng giềng hữu nghị và thân thiện, nhân
dân sớm có quan hệ đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ nhau trong lịch sử. Trong cuộc
kháng chiến chống lại kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đáp lại lời
kêu gọi của cách mạng Campuchia, Việt Nam sẵn sàng đưa quân tình nguyện sang
giúp nước bạn. Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
Campuchia ngày 17/4/1975 cũng là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu thủy
chung, trong sáng giữa ba nước Đông Dương.
Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
Campuchia ngày 17/4/1975 cũng là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu thủy
chung, trong sáng giữa ba nước Đông Dương. Thế nhưng, ngay sau khi lên cầm quyền
vào tháng 4/1975, quân Pol Pot-Ieng Sary lợi dụng thành quả cách mạng, phản bội
lại nhân dân Campuchia. Chúng lập nên cái gọi là “nhà nước Campuchia dân chủ”,
thi hành chế độ diệt chủng, thanh trừng nội bộ, giết hại hàng triệu người dân
vô tội, phá hủy hàng trăm nghìn trường học, bệnh viện, chùa chiền...
Đối với Việt Nam, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sari xuyên tạc lịch sử, khiêu
khích, kích động hận thù dân tộc; chỉ trong 2 năm (1975 đến 1977), chúng đã điều
động 41% quân số và trang thiết bị áp sát biên giới Việt Nam; gây ra những tội
ác đẫm máu đối với nhân dân ta, xâm phạm nghiêm trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chà đạp lên những giá trị tốt đẹp trong mối
quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc…
Ngày 30/4/1977, chúng đánh vào 14/16 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang,
tàn phá các bản làng, trường học, cơ sở sản xuất của ta, bắn pháo vào những nơi
đông dân cư ở sát biên giới và vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Trước hành động
xâm lược trắng trợn của quân Pol Pot, các lực lượng biên phòng và dân quân, du
kích đã anh dũng chiến đấu, ngăn chặn địch. Quân đội ta đã sử dụng 1 trung đoàn
(thuộc Sư đoàn 330), 1 trung đoàn tàu thuyền và 2 tiểu đoàn địa phương An Giang
đánh trả, diệt 300 tên, buộc quân Pol Pot rút về bên kia biên giới.
Ngày 23/5/1977, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho lực lượng vũ trang ở
phía Nam: “Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự
xâm lấn nào của lực lượng khiêu khích phản động Campuchia vào lãnh thổ ta; đồng
thời tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia”. Thực hiện Chỉ thị, các đơn vị
quân chủ lực, hậu cần chuẩn bị mọi lực lượng sẵn sàng chiến đấu.
Từ ngày 25/9/1977, quân Pol Pot tập trung 9 sư đoàn chủ lực cùng lực lượng
địa phương mở cuộc tiến công lớn thứ 2 đánh sang địa bàn các tỉnh An Giang,
Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với
nhân dân Việt Nam. Riêng ở 3 xã thuộc các huyện Tân Biên, Bến Cầu (Tây Ninh),
quân Pol Pot đã tàn sát trên 1 nghìn người dân.
Trước diễn biến mới của cuộc chiến tranh, Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử
dụng một bộ phận lực lượng chủ lực cơ động đánh lui các cuộc tiến công của quân
Pol Pot ở nhiều khu vực trên biên giới, giành lại những khu vực bị lấn chiếm,
sau đó lui về củng cố lực lượng. Phát hiện ta đã lui quân về phía sau, ngày
15/11/1977, quân Pol Pot lại mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm thị xã Tây
Ninh. Trước tình hình đó, từ 5/12/1977 đến 5/1/1978, quân ta mở đợt phản công
trên các hướng đường 7, đường 1, đường 2, truy kích quân Pol Pot làm thiệt hại
5 sư đoàn và thất bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của địch.
Tuy bị thiệt hại nặng nề trong giai đoạn 1, nhưng được hỗ trợ về vũ khí,
trang bị và cố vấn quân sự từ bên ngoài, Pol Pot lại tiếp tục chuẩn bị lực lượng,
tập trung quân về biên giới Việt Nam. Tháng 1/1978, Pol Pot đưa thêm 2 sư đoàn
ra biên giới, tiếp tục gây xung đột, liên tục tiến công lấn chiếm, bắn phá vào
những nơi đông dân cư, gây nhiều tội ác với đồng bào ta. Trước tình hình đó, Bộ
Tổng tham mưu điều động Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) tăng cường cho Quân khu 9, sẵn
sàng chiến đấu.
Đồng thời, ra lệnh cho các đơn vị trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nâng
cao cảnh giác, thực hiện phòng ngự tích cực để hỗ trợ cho Đảng, Nhà nước thực
hiện đấu tranh chính trị và ngoại giao. Ngày 5/2/1978, Việt Nam ra tuyên bố ba
điểm: (1) Hai bên chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang cách
biên giới 5km; (2) Hội đàm tiến tới ký hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, ký
hiệp ước về biên giới; (3) Thoả thuận về một hình thức thích hợp bảo đảm thông
lệ quốc tế và giám sát quốc tế. Phớt lờ thiện chí của ta, quân Pol Pot tiếp tục
huy động lực lượng áp sát biên giới và cho quân tiến công, xâm nhập nhiều điểm
trên địa phận nước ta; lực lượng của ta kiên quyết đánh trả, giành lại các khu
vực bị lấn chiếm.
Từ ngày 26/3/1978, các đơn vị quân đội ta chuyển sang tiến công, đẩy
quân Pol Pot lùi xa dần biên giới và dồn đối phương vào thế bị động. Đồng thời,
hỗ trợ trực tiếp cho phong trào nổi dậy của lực lượng cách mạng Campuchia phát
triển, đỉnh cao là cuộc nổi dậy từ ngày 26/5/1978 ở Quân khu Đông, làm suy yếu
một bộ phận lực lượng quân Pol Pot. Sau cuộc nổi dậy của lực lượng cách mạng
Campuchia ở Quân khu Đông, quân Pol Pot vừa ráo riết thanh trừng nội bộ, vừa phải
đối phó với lực lượng cách mạng Campuchia đang tiếp tục hoạt động ở nhiều nơi.
Để hỗ trợ cho lực lượng cách mạng Campuchia tồn tại và phát triển, tạo thế cho
hoạt động của ta vào mùa khô 1979, từ ngày 14/6 đến 30/9/1978, ta sử dụng Quân
đoàn 3, Quân đoàn 4 và 2 sư đoàn (thuộc Quân khu 7), 2 sư đoàn (thuộc Quân khu
5) mở tiếp đợt tiến công lớn trên các hướng đường 1, đường 7, vùng giáp biên giới
Tây Ninh và đường 19 kéo dài nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch,
tiến tới làm suy yếu một bước lực lượng quân Pol Pot…
Cuộc tiến công của ta hỗ trợ kịp thời cho lực lượng cách mạng Campuchia ở
Quân khu Đông, buộc quân Pol Pot phải đối phó trên cả mặt trận biên giới và nội
địa. Phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia trong đợt tiến công này, ta loại
khỏi vòng chiến đấu 6 sư đoàn, làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng chủ lực và đẩy
lùi hầu hết quân Pol Pot ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Từ tháng 5 đến tháng
11/1978, Việt Nam giúp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia phát triển được
15 tiểu đoàn, 5 khung tiểu đoàn, 24 đội công tác, xây dựng được các tổ chức đảng,
chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh đạo…
Trước ý định tập trung 5 sư đoàn và 4 trung đoàn tiến công đánh chiếm
Tây Ninh, sau đó sẽ mở rộng địa bàn đánh chiếm lãnh thổ Việt Nam của Pol Pot,
ngày 6 và 7/12/1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm tổng
phản công - tiến công chiến lược tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến
tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc; đồng thời sẵn sàng hỗ trợ lực lượng
vũ trang cách mạng Campuchia giành chính quyền về tay nhân dân... Ngày
23/12/1978, chúng huy động 10 trong số 19 sư đoàn đang bố trí ở biên giới mở cuộc
tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Trước hành động xâm lược của
Pol Pot và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia, ngày 23/12/1978, quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ trang
cách mạng Campuchia mở cuộc tổng phản công - tiến công trên toàn tuyến biên giới.
Ngày 26/12/1978, toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pol Pot
bị phá vỡ. Đến ngày 31/12/1978, quân và dân ta hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi
quân Pol Pot ra khỏi lãnh thổ. Ngày 2/1/1979, 3 cụm quân chủ lực của Pol Pot, mỗi
cụm 5 sư đoàn, án ngữ các trục đường tiến về Phnôm Pênh (đường 1, đường 7 và đường
2) cơ bản bị tiêu diệt và tan rã. Ngày 5 và 6/1/1979, trên tất cả các hướng,
quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia truy kích,
tiến sát Thủ đô Phnôm Pênh. Ngày 7/1/1979, Thủ đô Phnôm Pênh hoàn toàn được giải
phóng.
Trang sử vẻ vang của hai dân tộc
Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc là
hành động tự vệ chính đáng và cần thiết của nhân dân Việt Nam nhằm chống lại cuộc
chiến tranh xâm lược do tập đoàn Pol Pot-Ieng Sari gây ra. Chiến thắng một lần
nữa khẳng định: ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc,
đoàn kết quốc tế trong sáng của nhân dân Việt Nam là nguồn sức mạnh to lớn, đập
tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá nào của các thế lực phản động, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Đồng thời, đáp lại lời kêu gọi của cách mạng Campuchia, Việt Nam đã giúp
đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, cứu dân tộc Campuchia
thoát khỏi họa diệt vong - đó là hành động phù hợp pháp lý và đạo lý, thể hiện
tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, chí nghĩa, chí tình, sẵn sàng hy sinh cả
xương máu vì mối quan hệ truyền thống gắn bó thủy chung, lâu đời giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân hai nước; là sự tiếp nối truyền thống đoàn kết chiến đấu chống
kẻ thù chung của hai dân tộc. Thủ tướng Campuchia Hun Sen khẳng định “Nếu không
có ngày 7/1/1979, nhân dân Campuchia chúng tôi cũng không thể có được những gì
trong ngày hôm nay. Đây là chân lý lịch sử không một thế lực phản động nào có
thể phủ nhận";
Chiến thắng chế độ diệt chủng Pol Pot cũng đã góp phần giữ vững hoà
bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; đấu tranh vạch trần bản chất
của chế độ phân biệt chủng tộc, sắc tộc, chế độ độc tài và cảnh báo cho nhân loại
cảnh giác trước nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phát xít mới.
Chiến thắng Chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng
nhân dân Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng đã để lại nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
“Một là, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình,
kịp thời phát hiện, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm lược của kẻ thù; Hai là,
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, nhất là ở những
nơi địa bàn chiến lược, trọng điểm, biên giới, hải đảo; Ba là, chăm lo xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất
lượng tổng hợp và sức chiến đấu ngày càng cao; Bốn là, nhạy bén nắm bắt tình
hình thế giới, khu vực, tăng cường hợp tác, đối ngoại với các nước, nhất là các
nước láng giềng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét