Thứ Ba, 20 tháng 2, 2024
Đột phá tư duy để hoàn thiện thể chế
Để hiện thực hóa mục tiêu “hoàn thiện đồng bộ thể chế”, mục tiêu hàng đầu trong 3 đột phá chiến lược do Đại hội Đảng XIII đề ra, trước hết cần phải đột phá tư duy trong xây dựng thể chế, xây dựng pháp luật.
LTS: Những bất cập về thể chế, luật pháp đang được gấp rút sửa đổi, khai thông thời gian qua bởi nỗ lực của nhiều ngành. Tuy vậy, những bất cập đó vẫn còn không ít, làm cho tình trạng “trên nóng dưới lạnh” thêm gay gắt và gây khó khăn cho phát triển kinh tế của đất nước. Tuần Việt Nam xin góp ý về việc tiếp tục hoàn thiện thể chế mà cuộc sống đang đòi hỏi.
Hoàn thiện đồng bộ thể chế cần đột phá về tư duy
Từ Đại hội XI (tháng 1/2011) đến nay, Đảng ta luôn xác định 3 đột phá chiến lược, trong đó “hoàn thiện đồng bộ thể chế” luôn được đặt ở vị trí đầu tiên trong các nội dung đột phá. Đồng thời, quan điểm xây dựng nhà nước kiến tạo luôn được các vị lãnh đạo của Đảng, Nhà nước nhấn mạnh trên nhiều diễn đàn.
Tuy nhiên, sau gần 40 năm thực hiện đường lối Đổi Mới, 10 năm thực hiện đột phá hoàn thiện thể chế nhưng hoàn thiện thể chế vẫn là lĩnh vực còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ XIII (tháng 1/2021) đánh giá: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển".
Nguyên nhân của tình trạng này do chúng ta chưa có đột phá tư duy trong xây dựng thể chế, xây dựng pháp luật. Có thể nói đây cũng là điểm nghẽn lớn nhất trong tiến trình Đổi Mới đất nước. Xin nêu một dẫn chứng về những hệ lụy tiêu cực của việc chậm đổi mới thể chế, pháp luật đối với nền kinh tế.
Để hiện thực hóa mục tiêu “hoàn thiện đồng bộ thể chế” do Đại hội Đảng XIII đề ra, cần phải đột phá tư duy trong xây dựng thể chế, xây dựng pháp luật.
Mặc dù từ năm 1986, Việt Nam từng bước chấp nhận nền kinh kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, đến Đại hội Đảng IX (tháng 4/2001), xác định phát triển đất nước theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhưng trên thực tế, chưa có tư duy và chủ trương đồng bộ, dẫn đến sự bất cập, bất công về chính sách giữa doanh nghiệp (DN) kinh tế nhà nước với DN tư nhân, giữa DN tư nhân trong nước với DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng, sau gần 40 năm thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng DN tư nhân ở Việt Nam vẫn vô cùng èo uột.
Hiện nay, hơn 98% DN tư nhân Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, trong đó, hơn 73% là DN tư nhân siêu nhỏ. Năm 2020, chỉ có 39,7% DN tư nhân làm ăn có lãi; 18,8% DN tư nhân kinh doanh hòa vốn và có tới 41,5% thua lỗ. Đây là vấn đề báo động về kết quả kinh doanh của khối DN tư nhân Việt Nam và những khó khăn họ đang phải đối mặt là không ít.
Còn hiệu quả kinh doanh của DN tư nhân thể hiện ở lợi nhuận trước thuế lại càng ảm đạm. Lợi nhuận trước thuế của DN tư nhân rất nhỏ bé so với thu nhập trước thuế của toàn bộ các DN trong nền kinh tế. Lợi nhuận DN tư nhân trong nước chỉ chiếm khoảng từ 0,1% - 1,2%; năm 2020 tỷ trọng này còn bị âm.
Trong 4 tháng đầu năm 2023, số DN thành lập mới và quay trở lại hoạt động 78,9 nghìn, nhưng đi liền với đó có 77 nghìn DN giải thể. Như vậy, số DN giải thể, phá sản, rời khỏi thị trường bằng 97,6% số DN thành lập mới.
Hiện nay, kinh tế tư nhân Việt Nam chỉ đóng góp khoảng 43% GDP, trong đó ¾ thuộc về khu vực kinh tế hộ gia đình, ¼ thuộc về khu vực doanh nghiệp có đăng ký chính thức. Trong khi, ở các nước phát triển, khu vực kinh tế tư nhân chiếm từ 85% GDP trở lên, vì vậy kinh tế tư nhân ở các nước này là nền tảng và là trụ cột đảm bảo cho nền kinh tế quốc gia phát triển ổn định, vững mạnh.
Có thể đánh giá, sự èo uột của khu vực kinh tế tư nhân trong nước là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng “Qua gần 4 thập kỷ Đổi mới, tăng trưởng GDP lại theo đường lùi dần, ‘thập kỷ sau thấp hơn thập kỳ trước “từ trên/dưới 8% xuống 7%, rồi 6%, rồi 5%”.
Những bài học đột phá tư duy còn tươi mới
Những thập niên 1970 và 1980, nền kinh tế nước ta trong đó có sản xuất nông nghiệp ngày càng suy thoái và trì trệ, đất nước lâm vào tình cảnh thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng.
Trước tình thế đó, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10 - NQ/TW Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nội dung cơ bản, cốt lõi của Nghị quyết này là hộ gia đình được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, nông dân được trao quyền sử dụng đất.
Với chủ trương đó, Nghị quyết 10 đã phá bỏ những rào cản của cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp. Qua đó, tạo nên bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Chỉ sau một năm thực hiện Nghị quyết, nước ta từ quốc gia thiếu đói kinh niên đã đứng vào hàng ngũ các quốc gia xuất khẩu gạo. Và từ đó đến nay, Việt Nam liên tục là một trong những quốc gia hàng đầu của thế giới về sản xuất và xuất khẩu gạo và nhiều nông sản, hải sản khác.
Cũng trong thời kì này, chiến tranh lạnh giữa hai khối XHCN và TBCN càng ngày càng căng thẳng. Kèm theo đó, chiến tranh nóng diễn ra ở hai đầu đất nước do các thế lực hiếu chiến của các quốc gia láng giềng gây ra. Việt Nam lâm vào tình cảnh bị bao vây cấm vận vô cùng hà khắc.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã vượt qua “bức tường thành” ý thức hệ và những vấn đề lịch sử để lại trong quan hệ láng giềng, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong đường lối đối ngoại. Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13-NQ/TW về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Nghị quyết đề ra chủ trương kiên quyết, chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác, cùng tồn tại hòa bình; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Quan điểm đường lối đối ngoại của Đảng tiếp tục được hoàn thiện qua các kỳ đại hội sau đó. Đến Đại hội XIII, khẳng định “Việt Nam sẵn sàng làm bạn, đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Với quan điểm trên đây, Việt Nam không những nhanh chóng thoát khỏi tình trạng bị bao vây cô lập, hiện nay trở thành Đối tác Chiến lược Toàn diện, Đối tác Chiến lược, Đối tác toàn diện với tất cả các quốc gia phát triển và các quốc gia láng giềng trong đó nhiều quốc gia từng là cựu thù.
Thành quả đối ngoại trên đây là cơ sở mở đường cho Việt Nam hội nhập quốc tế; hợp tác song phương, đa phương về kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng với hầu hết các quốc gia và các tổ chức quốc tế. Đây là cở sở để đất nước thu được những thành tựu rất quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng.
Có thể đánh giá, những thành tựu trên đây là do từ rất sớm, Đảng ta đã có đột phá tư duy trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đường lối đối ngoại.
Đồng bộ với nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
Xuyên sốt qua các kỳ đại hội sau Đại hội VI năm 1986, Đảng ta đã có chủ trương đổi mới tư duy trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên trên thực tế, mức độ đổi mới tư duy của từng lĩnh vực chưa đồng bộ.
Cũng vì chưa có đột phá về xây dựng thể chế, pháp luật nên còn nhiều hệ lụy tiêu cực trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Đó là chưa khắc phục được các vấn nạn ‘cơ chế xin cho’, tham nhũng, chạy chức chạy quyền; hoặc lãnh đạo các cấp, các ngành và các doanh nghiệp còn bị bó buộc về cơ chế, khó phát huy được tinh thần chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Từ thực trạng trên đây cho thấy, để hiện thực hóa mục tiêu “hoàn thiện đồng bộ thể chế” - mục tiêu hàng đầu trong 3 đột phá chiến lược do Đại hội Đảng XIII đề ra, trước hết cần phải đột phá tư duy trong xây dựng thể chế, xây dựng pháp luật.
Thể chế đó phải đồng bộ với nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét