Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2024

TCCS - Trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội, nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Thực trạng này đòi hỏi cán bộ, đảng viên không ngừng rèn luyện, học tập và nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức cách mạng để có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong thời đại mới. Bàn về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong thời đại mới Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, cán bộ, đảng viên phải chịu tác động bởi nhiều nhân tố, như xu thế toàn cầu hóa, biến động to lớn của tình hình thế giới và khu vực, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ... càng đòi hỏi cán bộ, đảng viên có năng lực cần thiết để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, “đất nước ta đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, phát triển đất nước đang chuyển sang giai đoạn mới, yêu cầu cao hơn, ngày càng đi vào chiều sâu, khó khăn, phức tạp hơn so với trước. Bối cảnh trong nước, quốc tế đã có nhiều thay đổi, đang diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường”(1). Điều đó yêu cầu cán bộ, đảng viên thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng và Nhà nước, bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia, không mất phương hướng, mất cảnh giác, không vì lợi ích cá nhân mà xem nhẹ lợi ích quốc gia. Yêu cầu về bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng là nền tảng bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên. Muốn phục vụ nhân dân tốt, mỗi cán bộ, đảng viên phải có đạo đức trong sáng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu của mỗi cán bộ, đảng viên. Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi công nhân tại nhà máy sản xuất, lắp ráp ô tô Ford Việt Nam ở tỉnh Bắc Giang_Ảnh: VGP Bàn về vai trò của cán bộ, đảng viên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ trong mấy chục năm qua là nhân tố hàng đầu quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”(2). Thực tiễn cho thấy, cán bộ, đảng viên là nòng cốt, là một trong những nhân tố quyết định tạo nên những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, giáo dục... của nước ta thời gian qua. Tuy nhiên, dưới tác động của bối cảnh mới, trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận bàn về các phẩm chất đạo đức cách mạng mà mỗi cán bộ, đảng viên cần có, đó là: Thứ nhất, cán bộ, đảng viên phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của quốc gia, dân tộc. Có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm, gắn bó mật thiết với nhân dân, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động(3). Như vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã bổ sung các phẩm chất quan trọng mà cán bộ, đảng viên phải có trong bối cảnh mới là dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động. Đây là các phẩm chất cách mạng, tiên phong cần được hình thành, vun đắp và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và văn minh. Thứ hai, cán bộ, đảng viên phải có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết, tận tụy với công việc; bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, tham vọng quyền lực và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng; không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để trục lợi. Có ý thức giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, gương mẫu chấp hành sự phân công và nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; công minh, công bằng trong đánh giá, sử dụng cán bộ(4). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất quan tâm đến công tác nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, khi một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên đang có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lung lay niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cùng những biểu hiện tham nhũng, gây mất lòng tin của nhân dân thì công tác nêu gương của cán bộ, đảng viên càng có ý nghĩa quan trọng. Tổng Bí thư yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn, nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong Đảng và trong bộ máy chính quyền lại càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo, như lời Bác dạy: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền””(5). Có như thế, nhân dân mới tin vào cán bộ, đảng viên, tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Nhà nước và chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, cán bộ, đảng viên phải có trí tuệ, tầm nhìn và kiến thức tương đối toàn diện để tham gia hoạch định đường lối, chính sách. Có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới tại lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công; qua thực tiễn tỏ rõ là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, có năng lực sáng tạo, nhiệt huyết, làm việc có hiệu quả, có “sản phẩm” cụ thể, rõ rệt; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; đoàn kết, quy tụ, phát huy được đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực, địa bàn được phân công. “Nói tóm lại là phải vừa có Đức vừa có Tài, trong đó Đức là gốc(6). Đáp ứng yêu cầu thời đại, mỗi cán bộ, đảng viên phải vừa có trình độ chuyên môn cao, vừa phải có tư duy khoa học, nhãn quan chính trị sắc bén để có thể nhận định, đánh giá tình hình, xu thế thời đại chính xác, có tư duy chiến lược và kiến thức tương đối toàn diện để tham gia hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Quan trọng hơn, cán bộ, đảng viên phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Cán bộ, đảng viên phải vừa có đức, vừa có tài thì mới có thể đảm đương những nhiệm vụ quan trọng của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng hiện nay. Qua tác phẩm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định những phẩm chất đạo đức cách mạng cần thiết của cán bộ, đảng viên trong thời đại mới. Những phẩm chất đạo đức cách mạng này là nhân tố quan trọng để xây dựng hình ảnh người cán bộ, đảng viên chân chính, trung thành, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; là nền tảng củng cố niềm tin của toàn dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến những thành công mới. Tuy nhiên, theo Tổng Bí thư, thực trạng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong thời gian qua cũng tồn tại một số vấn đề yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức đang diễn ra ngày càng phức tạp. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đặt ra cho cán bộ, đảng viên yêu cầu cao về năng lực nhận định, đánh giá các vấn đề quốc tế để có thái độ ứng xử phù hợp. Quan trọng hơn, cán bộ, đảng viên phải hiểu đúng bản chất các vấn đề quốc tế và xây dựng thế giới quan khoa học, kiên định lập trường, tin tưởng đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Bởi vì, toàn cầu hóa mang lại nhiều thời cơ cho quá trình hội nhập và phát triển của Việt Nam, song cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng vẫn còn đối mặt không ít thách thức “khi chủ nghĩa tư bản vẫn còn những tiềm năng nhất định, lại có sự điều chỉnh cần thiết, trong khi nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn chưa đạt tới sự thống nhất trong các tầng lớp nhân dân các nước đang phát triển”(7). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cảnh báo: “Trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, hằng ngày, hằng giờ tiếp xúc với hàng và tiền, gắn liền với lợi ích cá nhân, đối mặt với bao cám dỗ, với mặt trái của cơ chế thị trường”(8). Thực tế thời gian qua, một bộ phận cán bộ, đảng viên, thậm chí là một số cán bộ chủ chốt trong hàng ngũ đảng viên dao động, có những biểu hiện suy thoái trong nhận thức lẫn hành động. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ tình trạng tha hóa, suy thoái và chuyển biến trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay rất phức tạp. Một bộ phận cán bộ, đảng viên cấp cao trong hàng ngũ Đảng đang tự chuyển biến, biến chất gây hại đến sự tồn tại và phát triển, hội nhập của Việt Nam, là nhân tố kìm hãm sự phát triển của đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ thực tế đau lòng là vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên cấp cao mà “Làm việc gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự”(9). Thực trạng này tác động không nhỏ đến công cuộc xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Trên thực tế “những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân quan trọng làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”(10). Niềm tin của nhân dân vào Đảng là nhân tố quyết định đến sự thành công trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trên con đường xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, theo Tổng Bí thư, “đội ngũ cán bộ của ta hiện nay đông nhưng chưa thật mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ vẫn xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt chỉ tiêu mong muốn. Thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa toàn diện, có mặt còn hạn chế, yếu kém; không ít cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế”(11). Việc Tổng Bí thư chỉ rõ thực trạng thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực là thay đổi quan trọng trong việc đánh giá cán bộ, đảng viên. Chúng ta cần có sự nhìn nhận, đánh giá năng lực cán bộ, đảng viên thẳng thắn, trung thực để mỗi cán bộ, đảng viên ý thức hơn việc không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện đạo đức, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cán bộ, đảng viên là “cái gốc của mọi công việc”, là linh hồn, là nòng cốt của Đảng, Nhà nước, là nhân tố bảo đảm đưa các chỉ đạo đúng đắn của Đảng vào đời sống và hội nhập quốc tế, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do tác động của hội nhập quốc tế, của những hạn chế chủ quan, một bộ phận cán bộ, đảng viên bị dao động, thiếu niềm tin vào Đảng, suy thoái chính trị, đạo đức, làm mất lòng tin của nhân dân với Đảng. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải luôn tu dưỡng đạo đức cách mạng. Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng Thành phố Hồ Chí Minh tuần tra vùng cảng Cát Lái_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn Rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên Trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tăng cường chống phá thành quả cách mạng của đất nước ta thì vấn đề đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên càng phải được quan tâm rèn luyện và phát huy cao hơn nữa để phục vụ nhân dân, đáp ứng sự tồn tại và phát triển của đất nước. Cụ thể: Một là, công tác cán bộ phải chú trọng hơn nữa phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn. Tổng Bí thư yêu cầu: “công tác tổ chức, cán bộ phải là điểm đột phá, là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ; sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Phải hết sức chú trọng xây dựng và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”(12). Để đạt được mục tiêu này, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở đảng cần “Chú trọng giáo dục giữ vững bản lĩnh, có ý thức nhạy bén chính trị, tăng sức đề kháng trước những biểu hiện tiêu cực, mặt trái của xã hội và sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng lòng yêu nước chân chính của công nhân, người lao động để kích động, lôi kéo biểu tình, tụ tập gây rối, làm mất an ninh, trật tự, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc”(13). Cán bộ, đảng viên được phân công nhiệm vụ, được bổ nhiệm vào các vị trí càng quan trọng thì càng phải rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng để có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; chức vụ càng cao càng phải gương mẫu để nhân dân noi theo, làm theo. Hai là, cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng và trung thành tuyệt đối với Đảng. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhiệm vụ cấp bách hiện nay là “chúng ta càng phải chăm lo giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng. Nếu không nhận thức sâu sắc điều này, nếu cán bộ, đảng viên không tích cực và kiên trì rèn luyện thì rất dễ bị thoái hóa, biến chất”(14). Năm 2020, trong bài Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh “Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về xây dựng Đảng đã khẳng định, phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến rõ rệt hơn nữa trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ; tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta. Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”(15). Nhiệm vụ của toàn Đảng hiện nay là phải tích cực tăng cường thực hiện các biện pháp nhằm rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho từng cán bộ, đảng viên. Các tổ chức cơ sở đảng phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Niềm tin với Đảng là yếu tố quan trọng nhất để cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực đạo đức cách mạng, trung thành với Đảng và phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Ba là, tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh để củng cố niềm tin của nhân dân vào cán bộ, đảng viên. Tổng Bí thư chỉ đạo “Phương hướng chung của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước không ngừng phát triển”(16). Mỗi tổ chức cơ sở đảng phải luôn nâng cao ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng, rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ và không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn để có thể nhận diện được những vấn đề của thời đại, có những đề xuất, hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học góp phần đưa đất nước ngày càng phát triển, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Bốn là, cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. “Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể”(17). Tổng Bí thư yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng các biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(18). Năm là, việc học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên phải thực hiện thường xuyên và đi vào thực chất. Tổng Bí thư chỉ đạo các tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải chú trọng đến hiệu quả, thực chất và sáng tạo trong học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Theo Tổng Bí thư, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên “phải kiên trì, sáng tạo và thực chất trong việc tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm trước của cán bộ công đoàn các cấp, đồng thời coi trọng việc xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến”(19). Nhiệm vụ quan trọng của các cấp ủy, chính quyền và cơ quan, đơn vị là cần phát huy kết quả đã đạt được trong những năm qua, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nghiêm túc, tự giác thực hiện một cách hiệu quả yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Chú trọng quán triệt, tập trung làm tốt ba vấn đề: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên. Có như thế, cán bộ, đảng viên mới thật sự thể hiện tính tiên phong, bản lĩnh chính trị vững vàng và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế./. --------------------------------

 TCCS - Phân cấp, phân quyền vừa là xu hướng tất yếu, đồng thời, cũng là vấn đề trọng tâm trong quản trị quốc gia. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta sớm thừa nhận và tăng cường nghiên cứu, xác định chức năng, trách nhiệm của Trung ương và quyền tự chủ của địa phương trong quản lý nhà nước. Thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phân cấp, phân quyền đối với chính quyền địa phương, nhất là cấp tỉnh.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ dự phiên khai mạc Kỳ họp thứ 12 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khoá XVI, nhiệm kỳ 2021 - 2026 Nguồn: hanoimoi.vn

Thực tiễn áp dụng các chính sách phân cấp, phân quyền cấp tỉnh vào một số lĩnh vực hiện nay

Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm hai cấp (Trung ương và địa phương), trong đó, chính quyền địa phương được phân chia thành ba cấp: cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), cấp huyện (thành phố trực thuộc tỉnh, quận, thị xã, huyện) và cấp xã (xã, phường, thị trấn). Chính quyền địa phương có vai trò tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên(1); có nhiệm vụ, quyền hạn được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương, cũng như giữa mỗi cấp chính quyền địa phương.

Từ Hiến pháp năm 2013, những quy định mới, căn bản về tổ chức, xây dựng chính quyền địa phương được triển khai trong thực tiễn; tiếp đó, năm 2015, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương được ban hành,... thể hiện những điểm mới quan trọng trong hoạt động phân cấp, phân quyền hành chính nước ta. Từ năm 2016, Chính phủ đề ra mục tiêu phân cấp, phân quyền chính quyền địa phương, chủ yếu tập trung vào 5 lĩnh vực: Quản lý ngân sách nhà nước; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý đầu tư (đối với đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ); quản lý công vụ, cán bộ, công chức, viên chức; quản lý đất đai(2). Đến nay, chính sách phân cấp, phân quyền đối với chính quyền địa phương (cấp tỉnh) được triển khai ở một số lĩnh vực cụ thể sau:

 Thứ nhất, trên lĩnh vực tài chính, ngân sách.

Công tác phân cấp tài chính, ngân sách bắt đầu được tiến hành năm 1989(3) và được đẩy mạnh hơn khi Quốc hội ban hành Luật Ngân sách nhà nước đầu tiên (năm 1996). Tiếp đó, Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 (có hiệu lực từ năm 2004) dựa trên sự kế thừa những kết quả đã đạt được (cả về mặt pháp lý lẫn thực tiễn) các bộ luật đã có để xây dựng quy định cụ thể hơn về việc phân chia ngân sách từ thuế giữa Trung ương và chính quyền cấp tỉnh.

Mới nhất, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 (có hiệu lực từ năm 2017) xác định nguyên tắc phân cấp quản lý nguồn thu, chi; đồng thời, bổ sung quy định trong thời kỳ “ổn định ngân sách” không thay đổi tỷ lệ phân chia các khoản thu giữa các cấp ngân sách. Hằng năm, cơ quan có thẩm quyền quyết định lượng ngân sách bổ sung thêm nhằm cân đối ngân sách từ cấp trên xuống cấp dưới; đồng thời, quy định tăng các khoản thu của Trung ương và địa phương, đặc biệt là bổ sung nhiều khoản thu vào nguồn thu Trung ương được hưởng 100%, như thuế môi trường, tài nguyên, xử phạt vi phạm hành chính, bán tài sản công,…; nguồn thu ngân sách địa phương bổ sung các khoản từ cho thuê đất, mặt nước, bán tài sản công,… Mặt khác, các khoản chi bảo vệ môi trường và chuyển nguồn của ngân sách sang năm sau được bổ sung vào chi thường xuyên; đặc biệt, ban hành quy định cụ thể mức nợ tối đa mà chính quyền cấp tỉnh có thể huy động(4).

Như vậy, chính quyền cấp tỉnh được trao nhiều quyền tự chủ hơn về thẩm quyền quyết định nguồn thu, nhiệm vụ chi; được mở rộng quyền vay nợ cho ngân sách cũng như ban hành một số chế độ chi. Đặc biệt, hiện nay, chính quyền cấp tỉnh được thực hiện quy định mức thu của một số loại phí, lệ phí gắn với quản lý hành chính nhà nước, cung cấp dịch vụ công; có thẩm quyền quyết định dự toán, điều hành dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước được phân cấp, phân quyền nhiều nội dung khác tại địa phương.

Thêm vào đó, một số thành phố trực thuộc Trung ương, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng vừa thực hiện các quy định chung, vừa có một số cơ chế đặc thù riêng; được linh hoạt sử dụng trái phiếu chính quyền địa phương và các hình thức vay nợ từ các tổ chức trong nước và quốc tế trong phạm vi tổng mức dư nợ vay không quá 90% số thu ngân sách mà thành phố được hưởng, mặt khác, chính quyền thành phố cũng được phép đa dạng hóa các nguồn tài trợ theo phương thức đối tác công - tư (PPP). Cụ thể, Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền, đề xuất Chính phủ xem xét, trình Quốc hội quyết định thí điểm mức thuế hoặc thuế suất không quá 25% đối với các loại hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường; được hưởng 100% mức thu tăng thêm từ việc điều chỉnh mức thu; 50% khoản thu tiền sử dụng đất khi bán tài sản công gắn liền trên đất theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công(5). Trong khi đó, ngân sách thành phố Đà Nẵng được hưởng 100% số thu tăng thêm từ các khoản thu từ hoạt động điều chỉnh chính sách thu trong đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách thành phố)(6). Chính quyền thành phố Hà Nội được thụ hưởng toàn bộ nguồn thu từ việc sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp do Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố làm đại diện chủ sở hữu; được quyền sử dụng ngân sách cấp thành phố hỗ trợ các địa phương khác trong nước; cho phép các quận sử dụng ngân sách cấp quận để hỗ trợ các huyện khó khăn trong phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia (giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới,…)(7).

Thứ hai, phân cấp, phân quyền trên lĩnh vực hành chính.

Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, các đơn vị hành chính nước ta bao gồm tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh); quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp huyện); xã, phường, thị trấn (cấp xã); đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập(8). Hiện nay, nước ta có 63 tỉnh, thành phố và được phân thành ba nhóm chính: Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (có cơ chế đặc thù); 3 thành phố trực thuộc Trung ương còn lại là Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ; 58 tỉnh còn lại (thực hiện tổ chức chính sách phân cấp chung từ chính quyền trung ương).

Trong giai đoạn 2001 - 2010, cùng với đẩy mạnh cải cách hành chính trong tổ chức bộ máy, Quốc hội tiến hành thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận, huyện, phường theo tinh thần Nghị quyết số 17/NQ-TW, ngày 1-8-2007, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”. Bên cạnh đó, việc thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường(9) được tiến hành ở 67 huyện, 32 quận và 483 phường của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bao gồm Lào Cai, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Nam Định, Quảng Trị, Đà Nẵng, Phú Yên, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang. Chương trình thí điểm này kết thúc sau 7 năm (2009 - 2016). Hiện nay, thành phố Hà Nội và Đà Nẵng đang tiến hành tổ chức thí điểm mô hình chính quyền đô thị(10); trong đó, công tác phân cấp hành chính gồm hai nội dung quan trọng là cung cấp dịch vụ công và xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Từ sau đổi mới, nhu cầu tự chủ của các địa phương, đặc biệt là các thành phố trực thuộc Trung ương trong hoạch định chính sách phát triển và phân bổ nguồn tài chính, thu, chi ngân sách ngày càng cao trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới.

Mặt khác, các địa phương đã áp dụng chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI)(11) trong đánh giá chất lượng hoạt động của chính quyền (được tiến hành lần đầu năm 2010 (gồm 30 thành phố), sau đó được mở rộng ra tất cả 63 thành phố trong năm 2011). Theo đó, hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh giai đoạn 2011 - 2018 có sự cải thiện rõ rệt, cụ thể, trong 6 chỉ số cốt lõi được sử dụng để đo lường chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh giai đoạn 2011 - 2018 (trước khi bùng phát đại dịch COVID-19), các chỉ số về sự tham gia của người dân ở cấp cơ sở, thủ tục hành chính công và cung ứng dịch vụ công đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, các chỉ số về tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và kiểm soát tham nhũng vẫn cần tiếp tục được cải thiện(12).

Trung tâm điều hành thông minh của Đà Nẵng góp phần để thành phố thực hiện tốt mô hình chính quyền đô thị_Nguồn: hanoimoi.vn

Một số khó khăn, thách thức

Một là, việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền kéo theo những vấn đề khó khăn, vướng mắc khác, như thực hiện điều chỉnh thể chế để tăng cường hiệu quả phân cấp, nhưng phải bảo đảm tính đồng bộ trong chính sách quốc gia. Mặt khác, các chính sách phân cấp, phần quyền phải đối mặt với các thách thức mới nảy sinh, như sự thiếu nhất quán và đồng bộ của chính sách phân cấp, mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng quyền tự chủ với trách nhiệm giải trình, thiếu hụt các nguồn lực và điều kiện, tính cục bộ của địa phương, sự cạnh tranh chưa thật sự lành mạnh giữa một số tỉnh, thành phố,...

Hai là, hiện nay, nhiều địa phương đang cố gắng để tối đa hoá tốc độ tăng trưởng GDP, dẫn đến tình trạng tăng cường đầu tư, chưa tính hết đến hiệu quả ở nhiều hạng mục, khiến hoạt động đầu tư bị dàn trải, thiếu đồng bộ, trùng lắp và kém hiệu quả. Nhiều hạng mục đầu tư dù không cấp thiết nhưng các địa phương vẫn thực hiện (việc cùng xin mở sân bay, cảng biển là những ví dụ điển hình(13)). Do đó, địa giới hành chính giữa các địa phương dễ trở thành ranh giới về kinh tế, phá vỡ chiến lược liên kết vùng, khuyến khích lợi ích cục bộ địa phương, ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu phát triển tổng thể vì lợi ích dài hạn của vùng, quốc gia.

Ba là, sự phân định trách nhiệm, quyền hạn của Trung ương và địa phương cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương trong một số lĩnh vực chưa hợp lý, thiếu rõ ràng, làm nảy sinh nhiều bất cập. Chẳng hạn, sự tự chủ của các cơ quan trực tiếp sử dụng công chức vẫn chưa được bảo đảm, UBND cấp tỉnh không có quyền tuyển dụng công chức bởi không được phân bổ thêm chỉ tiêu biên chế; không có quyền xác định tiêu chuẩn tuyển dụng và lựa chọn hình thức thi tuyển,...; mặt khác, quyền phân bổ nguồn thu, nhiệm vụ chi tập trung ở cấp tỉnh nhưng chưa quy định cụ thể cho cấp huyện và cấp xã, nên có tình trạng nguồn lực tập trung ở cấp tỉnh, không tạo được sự chủ động về ngân sách của chính quyền cấp dưới(14). Bên cạnh đó, số lượng các đơn vị hành chính nước ta khá lớn, trong khi quy mô trung bình của một đơn vị phân cấp nhỏ(15), gây cản trở tiến trình và hiệu quả phân cấp, phân quyền. Thêm vào đó, các khoản chi của các tỉnh vẫn phụ thuộc vào khoản trợ cấp từ Trung ương, khả năng tự chủ ngân sách còn hạn chế, đặc biệt là các tỉnh còn khó khăn; đồng thời, trách nhiệm giải trình của một số địa phương còn thấp; tình trạng “xé rào”, “vượt rào” vẫn xảy ra.

Những nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới

Thứ nhất, về mặt lý luận, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế phân định thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương theo hướng đa dạng hóa mô hình tổ chức theo lãnh thổ và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương. Thể chế về chính quyền địa phương phải được đổi mới theo hướng trao quyền tự chủ nhiều hơn cho chính quyền địa phương trên tinh thần “việc gì, ở cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện tốt nhất thì phân giao đầy đủ quyền hạn và những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết”(16)Về kỹ thuật, phân cấp, phân quyền phải vừa bảo đảm quyền quyết định của trung ương về các chính sách, chiến lược lớn và khả năng kiểm soát vĩ mô ở các ngành, các lĩnh vực then chốt; đồng thời, phát huy tính năng động, sáng tạo của địa phương trong khuôn khổ pháp luật. Về nội dung, cần tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trên nhiều lĩnh vực (trước hết là tài chính). Theo đó, chính quyền trung ương chỉ nên nắm quyền kiểm soát những vấn đề lớn, như hoạch định định hướng cơ bản trong sử dụng ngân sách quốc gia; quyết định tổng thu, tổng chi, mức bội chi ngân sách và tỷ lệ phân chia ngân sách đối với một số loại thuế suất; quy định mức trần của một số loại thuế, phí, cấp phát ngân sách liên quan đến các dự án về an sinh xã hội, công trình công cộng mà địa phương không đủ nguồn lực thực hiện,... Mặt khác, cần bảo đảm chính quyền địa phương là một cấp ngân sách độc lập, được quyết định một số nguồn thu, mức thu ngoài các quy định chung của trung ương.

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh mô hình tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo hai hướng: Một là, nghiên cứu, xây dựng mô hình chính quyền cấp vùng để bảo đảm nhu cầu liên kết, phối hợp và kiểm soát cấp độ vùng, góp phần điều phối nguồn lực một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng phá vỡ quy hoạch tổng thể, địa phương chủ nghĩa, cục bộ địa phương. Hai là, chính quyền địa phương được tổ chức một hoặc hai cấp chính quyền hoàn chỉnh tùy theo tính chất đơn vị hành chính - lãnh thổ. Mặt khác, cần xác định địa vị pháp lý, tính chất của HĐND với tư cách là cơ quan đại diện của người dân địa phương nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính cùng cấp.

Thứ ba, chú trọng việc xây dựng hệ thống các chính sách phân cấp thống nhất, khoa học, tạo thuận lợi cho chính quyền Trung ương ở góc độ quản lý, đồng thời, bảo đảm hiệu quả với tất cả các địa phương dù sự khác biệt về quy mô, nguồn lực...; nâng cao khả năng điều chỉnh mức độ tự quyết phù hợp với năng lực của chính quyền tỉnh. Bên cạnh đó, cần xây dựng những tiêu chí cụ thể để xác định địa phương nào có thể hoặc nên được thụ hưởng cơ chế đặc thù; tránh tình trạng nhiều địa phương cùng xin hưởng cơ chế đặc thù, tránh tình trạng cơ chế đặc thù trở thành phổ biến, gây mất công bằng trong thực thi cơ chế ưu tiên chính sách phát triển.

Thứ tư, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đối với chính quyền cấp tỉnh gắn với bảo đảm các điều kiện về tài chính, ngân sách và nguồn lực để phân cấp có hiệu quả. Bên cạnh đó, chú trọng cải thiện môi trường thể chế theo hướng tăng cường minh bạch thông tin, khuyến khích sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, có cơ chế giám sát hiệu quả đối với hoạt động của chính quyền. Đồng thời, triển khai chính sách phân cấp một cách đồng bộ; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và các địa phương. Chú trọng thực hiện tốt trách nhiệm giải trình hai chiều: giải trình với chính quyền trung ương (hướng lên trên) và giải trình đối với nhân dân địa phương, những người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách; chính quyền địa phương cần tuân thủ các chính sách do Trung ương ban hành, bảo đảm năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân cấp.

Thứ năm, nghiên cứu, giảm thiểu số lượng các đơn vị hành chính cấp tỉnh gắn với tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Hiện số lượng đơn vị hành chính nước ta khá lớn nhưng quy mô diện tích, dân cư ở các tỉnh thường khá nhỏ, khiến việc phát huy các lợi thế về quy mô kinh tế bị hạn chế, làm tăng chi phí và giảm hiệu quả của chính sách phân cấp. Do đó, cần tập trung khắc phục sự chia tách về số lượng đầu mối đơn vị hành chính, sự phân mảnh về thể chế, chuẩn bị các điều kiện, nguồn lực cần thiết để thực hiện chính sách phân cấp có hiệu quả; xây dựng, hoàn thiện cơ sở lý luận toàn diện, thống nhất về chính sách phân cấp, phân quyền./.

----------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét