Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2024

KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG TÌNH HÌNH MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

 


 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn mục tiêu cao cả được Đảng kiên định thực hiện từ khi ra đời cho đến nay. Trong bối cảnh thế giới, đất nước đang có nhiều biến động với những diễn biến phức tạp, khó lường, các thế lực thù địch tập trung chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta với những hình thức tinh vi nhưng không kém phần nguy hiểm. Bài viết tập trung nhận diện, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch công kích mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam hiện nay, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong văn kiện Đại hội XIII đã khẳng định: “Đất nước ra chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như nay”. Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được hoàn thiện. Từ một nước nghèo, thiếu ăn, lại chịu sự tàn phá nghiêm trọng của chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất gạo và nông sản đứng hàng đầu thế giới, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư ở ASEAN. Đó là minh chứng rõ nét nhất cho sự đúng đắn trong việc lựa chọn phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, với sự biến động khó lường của tình hình thế giới, sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, sự hoạt động gắt gao của các thế lực thù địch lợi dụng “tự do ngôn luận” để đưa ra các luận điệu xuyên tạc, đòi xóa bỏ mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. Dựa vào một số hiện tượng tiêu cực, những hạn chế mang tính khách quan mang tính thời đại để khái quát lên thành bản chất của xã hội hiện nay. Đặc biệt, trước những sự kiện lớn của Đảng, của đất nước (Đại hội Đảng các cấp, các kỳ Bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp), các thế lực thù địch, phần tử cơ hội lại mở những “chiến dịch lớn” hòng tấn công vào cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Căn cứ vào tinh thần của Nghị quyết, bảo vệ nền tảng tư tưởng chính là bảo vệ và phát huy những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

2. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong tình hình mới được thể hiện trong thực tiễn ngày nay ở Việt Nam

Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là tiếp tục con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Đổi mới vì thế là quá trình vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là thay đổi mục tiêu. Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường, chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững trên các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường; không vì phát triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác của cuộc sống con người. Trên thực tế, cũng như một đòi hỏi tất yếu, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay phải được thể hiện đậm nét, toàn diện trên tất cả các yếu tố của sự phát triển đất nước.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội về chính trị. Độc lập, tự chủ của một quốc gia trước hết là độc lập, tự chủ trong việc lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển; độc lập tự chủ trong việc quyết định đường lối và chiến lược phát triển, chủ động xây dựng và hoàn thiện pháp luật, chính sách và các công cụ quản lý của nhà nước phù hợp với hoàn cảnh của đất nước và các điều ước quốc tế đã tham gia và cam kết thực hiện. Tiếp tục nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, nhất là cấp chiến lược; tích cực đấu tranh, phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.”. Qua đó, Đảng cần đổi mới và nâng cao chất lượng công tác hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới; coi trọng và nâng cao chất lượng dự báo và ứng phó với các thách thức, diễn biến rất nhanh, khó lường của tình hình, luôn đảm bảo chủ động và ổn định trong đường lối chính trị và mục tiêu phát triển của đất nước.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội về kinh tế. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội về kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại, có năng lực cạnh tranh và tính chủ động trong tham gia hiệu quả vào hệ thống sản xuất và phân phối toàn cầu, có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó, có cơ cấu kinh tế hiệu quả và bảo đảm độ an toàn cần thiết cho các hoạt động bình thường của xã hội, phục vụ đắc lực cho mục tiêu xây dựng tiềm lực kinh tế cho chủ nghĩa xã hội.

Hơn nữa, độc lập dân tộc về kinh tế cũng đi liền với việc giải quyết vấn đề hội nhập về kinh tế. Đó là quá trình nền kinh tế đất nước tham gia vào kinh tế khu vực và thế giới dựa trên lợi thế so sánh và từ đó tham gia vào phân công lao động khu vực và thế giới, để nền kinh tế nước ta trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế khu vực và thế giới. Qua đó, vừa phát huy được mọi tiềm năng và nguồn lực trong nước, vừa tranh thủ được điều kiện và nguồn lực bên ngoài cho phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Chính nhờ nhận thức rõ mỗi quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phương diện kinh tế, nên qua 35 năm đổi mới, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng, sự nỗ lực phấn đấu, chung sức đồng lòng của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân và sự giúp đỡ, hợp tác của cộng đồng quốc tế, nhân dân ta đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới”, tạo ra thế và lực mới để đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu về đổi mới cho chúng ta niềm tin về sự lựa chọn đúng đắn của mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020, đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020, đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội về phương diện văn hóa, xã hội. Độc lập dân tộc về khía cạnh văn hóa chính là yếu tố đảm bảo nền tảng vững chắc cho sự phát triển. Càng hội nhập sâu rộng càng đòi hỏi khẳng định bản sắc, càng có nhu cầu giữ gìn giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc. Bài học của Nhật Bản từ thời cải cách Minh Trị cho thấy cách tân và giữ gìn bản sắc là hai quá trình song song, bổ sung cho nhau, trong đó giữ được “hồn cốt”, đồng thời tiếp thu tinh hoa cộng nghệ và văn hóa phương Tây là cơ sở để Nhật Bản tạo nên sự thần kỳ về kinh tế. Vấn đề đặt ra là trong quá trình phát triển, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, biết cách sử dụng các thành tựu của loài người phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là thành tựu khoa học – công nghiệp hiện đại, cách mạng công nghiệp lần thứ tư, làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, văn hóa và tinh thần. Trong đó, “tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường…”. Chỉ có bản lĩnh và cốt cách văn hóa dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu nền văn hóa dân tộc. Đó cũng chính là yếu tố bền bỉ nhất đảm bảo sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH về văn hóa ở nước ta hiện nay.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội về quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Vấn đề này được thể rõ trong việc giải quyết mỗi quan hệ giữa xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay của nước ta. Đây là một đòi hỏi khách quan, tất yếu của sự nghiệp cách mạng, biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống. Trên thực tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có xu hướng xâm nhập, tác động, quy định lẫn nhau ngày càng khăng khít, đến mức bảo vệ là một bộ phận của xây dựng. Với tầm quan trọng đó, Đảng ta nhấn mạnh: “Quốc phòng, an ninh được tăng cường, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. An ning chính trị, an toàn xã hội được bảo đảm, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.”

3. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với sự xuất hiện của chủ nghĩa đế quốc, việc xâm chiếm thuộc địa đã mở ra quy mô toàn thế giới. Việt Nam cũng không thoát khỏi vòng xoáy chung của lịch sử, từ một nước phong kiến độc lập đã trở thành một nước phong kiến - thuộc địa (1885) dưới sự đô hộ của thực dân Pháp. Cứu nước, giải phóng dân tộc đã trở thành khát vọng của hàng triệu con người Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, trải qua quá trình tìm kiếm, khảo nghiệm các khuynh hướng cứu nước khác nhau, chính chủ nghĩa yêu nước chân chính đã đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Với trí tuệ mẫn tiệp, tầm nhìn vượt lên trên những hạn chế của thời đại, từ sự phân tích khách quan, khoa học Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Cụ thể hơn, Người đã nhấn mạnh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó chính là con đường: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Con đường giải phóng dân tộc này đã phản ánh và giải quyết những yều cầu khách quan của cách mạng, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện của một nước thuộc địa như Việt Nam. Đây là sự kiện chấm dứt thời kỳ khủng hoảng kéo dài về đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng, mở ra hướng đi mới đối với lịch sử dân tộc Việt Nam.

Từ khi Đảng ra đời đến nay, trong Cương lĩnh và đường lối của mình, Đảng luôn khẳng định nhất quán và thể hiện quyết tâm sắt đá trong việc thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Qua thực tiễn lịch sử suốt hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH luôn được Đảng lãnh đạo nhân dân kiên trì thực hiện. Mục tiêu này không chỉ đúng đắn, phù hợp với giai đoạn tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng trước tiên, mà còn nguyên giá trị đến giai đoạn đất nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa khi nhiệm vụ phát triển toàn diện đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giữ vai trò trọng tâm.

Trong mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng được CNXH. Độc lập dân tộc phải gắn với dân chủ, tự do và hạnh phúc của con người mà không ai có thể “xâm phạm được”. CNXH là con đường để đảm bảo chắc chắn, lâu bền và phát huy triệt để những giá trị của độc lập dân tộc. Người cũng khẳng định rằng: “có tiến lên CNXH thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong đó, con người không chỉ được chăm lo, đảm bảo về đời sống vật chất, tinh thần mà còn được sống trong một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ trên nền tảng công nhân, nông dân và trí thức. Như vậy, giữa độc lập dân tộc và CNXH có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại, quy định lẫn nhau, là tất yếu lịch sử của Việt Nam.

4. Đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong thời đại ngày nay

Đứng trước những thăng trầm, biến động của lịch sử thế giới đặc biệt trong những năm 80, 90 thế kỷ XX, khi hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô tan rã, sự thoái trào của CNXH trên thế giới làm dấy lên những nghi ngại về tính đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đây cũng là thời cơ để các thế lực chống cộng ra sức ca ngợi sự tiến bộ của của chủ nghĩa tư bản, mặt khác chúng lộ rõ vẻ “hí hửng, vui mừng” và điên cuồng vu khống, xuyên tạc con đường cách mạng XHCN. Trong hàng ngũ của Đảng cũng xuất hiện những cá nhân hoang mang, dao động, chần chừ hoặc bi quan. Trước bối cảnh đầy khó khăn đó, Đảng vẫn kiên định con đường mà cả dân tộc đã lựa chọn – độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Bởi, đó là con đường đã trải qua quá trình khảo nghiệm lịch sử lâu dài, phù hợp với quy luật khách quan của cách mạng Việt Nam. Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, không phải là sự sụp đổ của CNXH mà chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH chưa phù hợp trên thế giới.

Mặt khác, trong thế giới đang có sự phát triển đa chiều với những diễn biến phức tạp khó lường, sự vươn lên mạnh mẽ từ các nước tư bản khiến cho xuất hiện một bộ phận dư luận trong nước vẫn tung hô, thần thánh chủ nghĩa tư bản. Đảng ta thẳng thắn phân tích tình hình, không phủ nhận tính toàn cầu và những thành tựu to lớn nhất là về khoa học – công nghệ, phát triển sức sản xuất và góp phần giải phóng sức lao động ở các nước tư bản. Dưới áp lực của hàng loạt các phong trào đấu tranh giai cấp của nhân dân lao động buộc nhiều nước tư bản phải điều chỉnh chế độ phúc lợi tiến bộ hơn so với trước. Song đó có thực sự là “dân chủ”? Sự thật về bản chất của các nước tư bản chủ nghĩa đã dần bị bóc trần trước các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn: cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009… Rồi đứng trước dịch bệnh Covid-19 đã làm phơi bày ra sự thật về những bất công xã hội tại các nước tư bản chủ nghĩa, sự chênh lệch giàu nghèo, sự bất công bằng trong tiếp cận dịch vụ y tế, phúc lợi xã hội… Vốn dĩ, không thể có “dân chủ” khi quyền lực của một đất nước thực tế chỉ nằm trong tay một nhóm nhỏ, thậm chí chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại chiếm giữ đến ¾ các nguồn lực của xã hội, các tập đoàn kinh tế lớn vẫn giữ vai trò chi phối đời sống kinh tế và chính trị ở các quốc gia tư bản.

Đứng trước những đòi hỏi của lịch sử, Đảng ta đã chủ động đổi mới đất nước, đối với Đảng, đổi mới không phải là “đổi màu”; thực hiện đổi mới toàn kiện đất nước nhưng vẫn phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Nhưng bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng nhận thức sâu sắc rằng, sự nghiệp xây dựng CNXH là sự nghiệp lâu dài, gian khổ với nhiều thăng trầm. Mặt khác, nước ta đi lên xây dựng CNXH với xuất phát điểm thấp, từ một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, lại chịu hậy quả nặng nề chiến tranh và sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng CNXH đòi hỏi Đảng phải có nhận thức cụ thể chính xác về con đường đi lên CNXH, phải thường xuyên vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm, vừa sửa chữa, phải nhìn thẳng vào sự thật, triệt để loại bỏ các tư tưởng giáo điều, tả khuynh, giản đơn về CNXH.

Trong bối cảnh đất nước tiến lên xây dựng CNXH, lần đầu tiên Đảng đã xác định 6 đặc trưng. của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 và đến Cương lĩnh bổ sung năm 2011 là 8 đặc trưng. Quan niệm và con đường quá độ đi lên CNXH cũng được một xác định và trình bày một cách rõ ràng, cụ thể hơn thể hiện sự phát triển về tư duy, nhận thức của Đảng về cách mạng XHCN.

Đặc biệt, trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhận định: “lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa…”. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2021) và hướng tới cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có bài viết: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây là tác phẩm lý luận có ý nghĩa sâu sắc, phân tích khách quan, đa chiều bối cảnh thế giới, trong nước làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao nhận thức về một vấn đề hệ trọng của đất nước đó là CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Bằng tư duy lý luận sắc sảo, dẫn chứng cụ thể, thuyết phục, Tổng bí thư đã giải đáp hệ thống câu hỏi: “CNXH là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được CNXH ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên CNXH ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?”. Bài viết đã khẳng định những thuận lợi, những thành tựu to lớn cũng như những khó khăn, hạn chế trong quá trình đổi mới đất nước trong giai đoạn quá độ lên CNXH. Qua bài viết đã vạch trần những “mặt tối” của các nước tư bản vốn được tung hô, thần thánh hóa, đồng thời khẳng định rằng việc xác định bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam là bỏ qua những hạn chế, khuyết điểm, bất công mang tính bản chất CNTB, chứ không phải là bỏ qua, phủ định những thành tựu, những giá trị của nhân loại trong thời kỳ phát triển này.  Từ đó, bài viết tiếp tục khẳng định về tính đúng đắn, quyết tâm kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái thù địch trong tình hình hiện nay. Có thể nói, luôn hướng tới bản chất thực sự của phát triển là vì con người, Đảng ta xác định phải luôn song hành thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bởi chỉ như vậy, sự phát triển ấy mới bền vững mới có ý nghĩa. Trong hoạch định và thực hiện hệ thống chính sách ở Việt Nam luôn thống nhất theo quan điểm: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Đặc biệt, trong Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XIII của Đảng đã nêu lên 12 định hướng lớn, 6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược sẽ đưa đất nước phát triển lên một giai đoạn mới trên con đường độc lập dân tộc và CNXH để đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN có thu nhập cao.

4. Giải pháp nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong kiên định thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Thứ nhất, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách Đảng, Nhà nước; truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc, nâng cao nhận thức, ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Quán triệt thực hiện Chỉ thị số 34/CT- TW, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X về “Tăng cường đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa”; Nghị quyết số 35 - NQ/TW của Đảng về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, Luật An ninh mạng…

Thứ hai, tăng cường công tác xây dựng Đảng toàn diện đặc biệt là trong công tác cán bộ để lựa chọn đội ngũ lãnh đạo quản lý “có tâm, có tầm”; coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận về độc lập dân tộc và CNXH trong bối cảnh mới. Tăng cường thực hiện phê bình và tự phê bình, chú trọng công tác cán bộ. Thực hiện tốt nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII của Đảng về xây dựng Đảng. Giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đẩy mạnh quán triệt Chỉ thị số 23 - CT/TWngày 9/2/2018 của Ban Bí thư “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”. Thực hiện có hiệu quả Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung…

Thứ ba, cần tiếp tục làm rõ nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về vị trí vai trò của việc thực hiện tốt đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ luật kỷ cương xã hội.

Thứ tư, đội ngũ cán bộ quản lý cần giữ vững nguyên tắc, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp đấu tranh chống lại các quan điểm, hành vi sai trái, thù địch. Kết hợp chặt chẽ xây với chống, chống với xây.

Năm là, đẩy mạnh việc giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cán bộ lãnh đạo quản lý; kiên quyết khắc phục các biểu hiện lười học chính trị, coi thường lý luận.

Kết hợp đấu tranh tư tưởng, lý luận, văn hóa với xử lý kỷ luật, xử lý hành chính, hình sự. Ngăn chặn các tin độc, tin xấu, phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, nhất là trên mạng xã hội. Tăng cường cung cấp thông tin chính thống, lan tỏa thông tin tích cực, lan tỏa tính nhân văn của chế độ ta trong quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong cuộc chiến phòng chống dịch bệnh covid-19, tạo vùng xanh trên không gian mạng.

Trong thời đại ngày nay, để thực hiện thành công mục tiêu này, Đảng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đồng thời, sớm nhận diện, chủ động phòng ngừa, đấu tranh từ xa với thủ đoạn chống phá của kẻ thù, tích cực bảo vệ nội nội bộ; đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, sự đồng thuận của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét