Thứ Hai, 16 tháng 8, 2021

Chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng để phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

       Những năm qua, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân chủng luôn chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho bộ đội, không ngừng bồi đắp, nâng cao phẩm chất chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, góp phần hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục chính trị ở một vài đơn vị chưa thật hiệu quả. Cá biệt, có tập thể, cá nhân vẫn coi giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị nên thờ ơ, thậm trí phó mặc, dẫn tới hiệu quả của mặt công tác này chưa cao…

        Giáo dục chính trị tư tưởng là công việc của mọi cấp, mọi ngành. Bởi công tác giáo dục chính trị tư tưởng góp phần bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, để khi đối mặt với khó khăn, thử thách; đứng trước những cám dỗ vật chất, tác động từ những tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường hay đòn tấn công hiểm độc của các thế lực thù địch, cán bộ, chiến sĩ vẫn kiên định, vững vàng, không hoang mang, dao động, phai nhạt lý tưởng, giảm ý chí chiến đấu. Nếu mọi cán bộ, chiến sĩ đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, thì sự “xâm nhập” của các tác nhân làm nảy sinh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ bị triệt tiêu từ khi có “mầm”.

        Để làm được điều đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần coi trọng triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ. Một trong những giải pháp hàng đầu là tổ chức thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác quản lý cán bộ, chiến sĩ; kịp thời phát hiện, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái ngay từ khi mới xuất hiện; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng. Chú trọng đúng mức công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng thành lũy tư tưởng vững chắc cho mọi cán bộ, chiến sĩ phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

        Đi đôi với đó, người chủ trì các cơ quan, đơn vị cần gương mẫu trong rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, đi đầu trong đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Sự nêu gương của đội ngũ cán bộ chủ trì sẽ có tác dụng thúc đẩy sự tự giác, thái độ nghiêm túc của cán bộ, chiến sĩ trong phấn đấu, rèn luyện và đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, mầm mống của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.

        Điều quan trọng, mấu chốt đó là bản thân mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tự giác rèn luyện, nâng cao khả năng “tự bảo vệ”, tăng cường “sức đề kháng” và “độ miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch và sự tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, xem xét đối chiếu mình với tiêu chuẩn đạo đức cách mạng, từ đó điều chỉnh hành vi của chính mình, tránh cám dỗ của lối sống hưởng thụ xa hoa, lãng phí, sách nhiễu, quan liêu, tham nhũng. Từng bước đẩy lùi cái xấu, làm cho đạo đức cách mạng trong mỗi cá nhân ngày càng phát triển, góp phần xây dựng các tổ chức đảng TSVM, đơn vị VMTD, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Một biểu hiện suy thoái “kép”

        Với tư cách là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ lâu đã ăn sâu vào trái tim, khối óc của nhân dân lao động bởi nói đến đảng viên là nói đến hình ảnh dấn thân, tinh thần cống hiến, tấm gương hy sinh, trách nhiệm cao cả đối với Tổ quốc và nhân dân. Điều này đã được biểu hiện sinh động trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

        Tuy nhiên, những năm qua, trước sự tác động mặt trái của cơ chế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên không những không giữ gìn được vai trò tiên phong, gương mẫu của người cộng sản, mà còn có biểu hiện sa sút ý chí phấn đấu, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao. Trong số 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nêu ra, có một biểu hiện suy thoái “kép” đáng báo động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, đó là: “Né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả” và “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”.

        Theo kết quả điều tra dư luận xã hội cách đây chưa lâu của Viện Nghiên cứu dư luận xã hội, một trong 4 vấn đề liên quan đến cán bộ, đảng viên chưa được đa số nhân dân ghi nhận, đó là tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên chưa hết lòng vì tập thể, vì việc chung, vì nhân dân, vì đất nước.

        Đã là trách nhiệm thì phải làm đến nơi đến chốn. Trong khi Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thì còn không ít người tìm mọi cách để trục lợi, tham nhũng nhằm vinh thân phì gia. Khi Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên “kiên quyết không nhận quà biếu với động cơ vụ lợi dưới mọi hình thức; không để cho người thân lợi dụng quyền hạn và ảnh hưởng của mình để trục lợi”, thì một số người vẫn thản nhiên thu vén, vơ vét quà cáp của nhân viên, cấp dưới, người lao động và để cho vợ con lén lút làm những việc không trong sáng, minh bạch, gây điều tiếng xấu. Khi Đảng yêu cầu phải đề cao ý thức trung thực, công tâm, cầu thị trong tự phê bình và phê bình, thì còn nhiều cán bộ, đảng viên né tránh khuyết điểm, chạy theo thành tích, thậm chí lợi dụng phê bình để tâng bốc, tung hô nhau hoặc thành kiến, trù dập những người có ý kiến cương trực, thẳng thắn. Khi được bổ nhiệm chức vụ mới, đáng ra cán bộ phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, nhưng có những người đã lợi dụng vị trí công để lo việc tư, cắt xén của công đưa vào nhà riêng, lúc tập thể có thành tích thì "vơ" công lao về cá nhân mình, khi cơ quan, đơn vị có khuyết điểm thì lại đổ lỗi trách nhiệm chung nhằm “đánh bùn sang ao”, “hòa cả làng”! Thậm chí ở một số nơi đã xuất hiện tình trạng người đứng đầu miệng thì “thao thao bất tuyệt” là phải phát huy dân chủ trong thường vụ, cấp ủy, nhưng khi lại mưu mẹo, khéo léo “vỗ về” tập thể lãnh đạo “nuông chiều” theo ý kiến cá nhân, lúc thì lạm dụng tối đa quyền lực để định hướng, “lèo lái” thường vụ, cấp ủy tán thành với chủ kiến bản thân đưa ra. Đây thực chất là biểu hiện dựa dẫm, ỷ lại vào “trách nhiệm tập thể” nhưng để né tránh trách nhiệm cá nhân người lãnh đạo khi có hệ lụy xảy ra.

        Một đảng viên bình thường khi thiếu trách nhiệm đã là điều đáng trách. Nhưng đáng phê phán hơn là một bộ phận đảng viên có chức, có quyền thiếu trách nhiệm trong rèn luyện, tu dưỡng, công tác. Vì sự thiếu trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo các cấp không chỉ ảnh hưởng đến tư cách, uy tín cá nhân, mà còn tác động không thuận đến sự phát triển ổn định, lành mạnh của tổ chức, cơ quan, đơn vị. Cán bộ có chức vụ càng cao mà thiếu trách nhiệm thì càng gây ra những hệ lụy, hậu quả lớn. 

Đề cao trách nhiệm nêu gương để phòng ngừa, giảm thiểu suy thoái

        Sống trong cuộc đời này, ai cũng phải có trách nhiệm. Nếu không có trách nhiệm với chính mình, công việc, gia đình, xã hội thì con người khó có thể trưởng thành, tiến bộ. Đối với cán bộ, đảng viên, trách nhiệm không dừng lại ở bổn phận “việc phải làm, việc phải gánh vác, việc phải nhận lấy về mình”, mà đó còn là một trong những giá trị thuộc về phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức, chiều sâu văn hóa của người chiến sĩ tiên phong của Đảng. Vậy tinh thần trách nhiệm là gì? Giải đáp câu hỏi này, sinh thời, Bác Hồ đã khẳng định: “Là khi Đảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy, v.v.. là không có tinh thần trách nhiệm”.

        Nói về hai chữ “trách nhiệm” thì dễ, nhưng thực hiện đến nơi đến chốn trách nhiệm của cán bộ, đảng viên thì lại đòi hỏi mỗi người luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, nhiệm vụ của mình, từ đó thường xuyên nêu cao ý thức, bổn phận, nghĩa vụ trong rèn luyện, công tác, gắn bó hết mình với công việc, tận tụy với chức trách được phân công, góp công góp sức cùng cán bộ, nhân viên, người lao động trong cơ quan, đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Phải làm sao để theo ngày ngày tháng tháng, mỗi cán bộ, đảng viên càng làm việc càng trôi chảy, hiệu quả, càng đóng góp nhiều hơn cho tập thể. Vì khi tập thể vững mạnh, trưởng thành thì bản thân mình cũng tiến bộ.

        Một trong những tiêu chí cơ bản để nhận định, đánh giá cán bộ, đảng viên có hoàn thành chức trách, nhiệm vụ hay không, đó là tinh thần trách nhiệm. Từ nhiều năm nay, khi lựa chọn nhân sự vào vị trí lãnh đạo các cấp, Đảng ta luôn nhấn mạnh đến tiêu chí “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” của người cán bộ. “Dám chịu trách nhiệm” không chỉ thể hiện tinh thần gan dạ, dũng cảm, tính khí khảng khái, cương trực của người cán bộ, mà còn nói lên ý thức dám đối mặt với khó khăn, chấp nhận sự rủi ro khi dấn thân vào việc khó, giải quyết vấn đề khó, chưa có tiền lệ, song cũng khơi thông được mạch nguồn sáng tạo, cổ vũ cho những hướng đi mới, cách làm mới mang lại hiệu ứng, hiệu quả khả quan trong tương lai. “Dám chịu trách nhiệm” hiểu theo nghĩa này chính là khuyến khích những nhân tố mới để góp phần làm chuyển biến, thay đổi tình hình theo chiều hướng tích cực. Như vậy, “dám chịu trách nhiệm” ở đây là tinh thần đề cao “trách nhiệm nhân đôi” và cũng là bản lĩnh vững vàng của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp.

        Trong tình hình hiện nay, để tránh nguy cơ sa ngã, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải đề cao trách nhiệm cá nhân trong tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, nhất là cán bộ có chức có quyền luôn bị những cám dỗ bủa vây quanh mình nên bất cứ một sự lơ là, dễ dãi, sơ hở nào cũng có thể bị “sập bẫy” trước “cái bả” tiền tài, danh vọng và tửu sắc đầy mê hoặc, quyến rũ nhưng chòng chành, mong manh như đứng bên lề vực thẳm! Tự nghiêm khắc với chính mình cũng là một trong những cách tốt nhất để đội ngũ cán bộ, đảng viên tự phòng ngừa, giảm thiểu được những biểu hiện suy thoái.


Đấu tranh đẩy lùi bệnh “Công thần”

            Theo từ điển Tiếng việt, về danh từ, công thần là những quan có công lớn với triều chính. Bệnh công thần là những người có tư tưởng dựa vào công lao đóng góp của mình mà sinh ra kiêu ngạo và đòi hỏi đãi ngộ quá đáng. Đây là căn bệnh đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo từ lâu. Khi nhắc đến bệnh công thần, Người đã từng phân tích bệnh công thần là: “Cậy mình có một ít thành tích, thì tự kiêu tự đại, cho mình là “cứu tinh” của dân, “công thần” của Đảng. Rồi đòi địa vị, đòi danh vọng. Việc to không làm được, việc nhỏ không muốn làm”.

        Hiện nay, một số cán bộ đảng viên và quần chúng dựa vào chút công lao đóng góp ít ỏi thuộc nghĩa vụ, trách nhiệm của mình cho mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương trong quá trình chiến đấu, lao động, công tác... nhưng có lối sống thực dụng, kiêu ngạo, hay đòi hỏi đãi ngộ quá đáng, nếu không được đáp ứng thì lập tức có những phản ứng cực đoan để rồi nói, làm, viết trái với chủ trương, đường lối của Đảng; pháp luật của Nhà nước, thậm chí coi thường kỷ cương, kỷ luật Đảng, bất chấp pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, quy định của địa phương.

        Đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đều ý thức được rằng, quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Do đó, việc đem trí tuệ, sức lực, thậm chí sinh mạng để lao động, sáng tạo, phấn đấu là hiển nhiên, thể hiện sâu sắc quyền, nghĩa vụ đã được hiến pháp quy định. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít cán bộ, đảng viên và quần chúng có tư tưởng, hành động so đo, xét lại từ lối sống thực dụng. Coi chút thành tích, công trạng của mình là to lớn, hơn người mà tỏ ra huênh hoang; coi thường tổ chức, coi thường người khác. Thậm chí, vì những quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, quy chế của cơ quan, đơn vị mà tổ chức không thể đãi ngộ thỏa đáng thì tỏ ra tiêu cực, chống đối, coi thường, thù hằn và có những hành động nói, làm, viết trái với quan điểm, đường lối của Đảng. Đương nhiên, họ không tự biết mình đang nhiễm căn bệnh “công thần, kiêu ngạo” và tự đánh mất mình.

        Bệnh “công thần” là loại “siêu vi rút” ẩn nấp, luồn lách khắp nơi trong cuộc sống của chúng ta. Tuy vậy, những người “mắc bệnh” thường có những biểu hiện rất dễ nhận biết. Đối với cán bộ, đảng viên thì biểu hiện đầu tiên là kiêu ngạo, sa vào lối sống thực dụng, sa sút ý chí phấn đấu; giảm sút niềm tin vào Đảng; phai nhạt lý tưởng cộng sản, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Lâu dần trong quá trình tự thúc đẩy từ bên trong của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tiến đến viển vông chủ nghĩa, so đo, đố kị, không còn ý thức rèn luyện, phấn đấu, tách mình ra khỏi tổ chức, coi thường tổ chức, thực hiện nói, viết và làm trái với cương lĩnh, xa rời nền tảng tư tưởng của Đảng. Đấu tranh đòi hỏi quyền lợi, chế độ một cách vô lý, không có trong quyền và nghĩa vụ chính đáng mình được hưởng.

        Để đấu tranh, ngăn chặn, loại bỏ bệnh “công thần”, trước tiên, mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ trong Quân chủng cần tự soi, tự sửa để xem mình và những người xung quanh mình đã nhiễm “căn bệnh” đó chưa để có biện pháp kịp thời “chữa trị”. Đi đôi với đó, các cơ quan, đơn vị cần tăng cường quan tâm chăm lo xây dựng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Đây là một trong những nhiệm vụ, giải pháp cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Để làm được như vậy, cần đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”... Thông qua đó, tạo sự chuyển biến thành hành động cho mỗi cán bộ, đảng viên, tại mỗi tổ chức cơ sở đảng bằng cách gắn thực hành đạo đức cách mạng với phòng chống, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phát huy cái tích cực, đẩy lùi tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu,góp phần quan trọng xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.

        Điều không kém phần quan trọng để đẩy lùi, ngăn chặn bệnh “công thần” là cần kiên quyết đấu tranh phòng chống lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, lợi ích nhóm, nói không đi đôi với làm gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên trong thực hiện rèn luyện đạo đức cách mạng, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, chấp hành kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước...

Những sự thật lịch sử không thể đảo ngược và xuyên tạc

 Gần tới ngày kỷ niệm Cách mạng tháng 8, một số chiếc “loa rè” lại bắt đầu dàn đồng ca với điệp khúc cũ mèm là “Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim”. Trên Facebook của một người còn ngang nhiên phán rằng “sự kiện ngày 19/8/1945 chỉ là một cuộc đảo chính lật đổ chính quyền hợp pháp trước đó là Đế quốc Việt Nam, do Đức vua Bảo Đại lập nên với Thủ tướng đầu tiên là ông Trần Trọng Kim”. Và rằng, “với tuyên cáo độc lập vào ngày 11/3/1945 của Đức vua Bảo Đại,… thì Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, mà không phải cần đến cái gọi là “Tuyên ngôn độc lập” vào ngày 2/9/1945 của ông Hồ Chí Minh…”…(?).

Sự thật có phải như vậy? Câu trả lời dứt khoát là KHÔNG. Bởi vì:

Thứ nhất, Đúng là ngày 11/3/1945, vua Bảo Đại đã ký đạo dụ tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Giáp Thân ký với Pháp để người Pháp thiết lập nền đô hộ trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thế nhưng vì đâu có đạo dụ này? Đêm 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp và nắm quyền trên toàn cõi Đông Dương. Phát xít Nhật đã hứa với vua Bảo Đại sẽ giúp để trao trả nền độc lập cho Việt Nam. Mưu đồ của Phát xít Nhật là thành lập ra bộ máy cai trị để thiết lập nền cai trị lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam. Lịch sử đã đủ dài và đủ dữ liệu để thấy rằng thực chất trao trả độc lập chỉ là chiêu bài mua chuộc của phát xít Nhật đối với Bảo Đại khi ấy. Đó là lý do mà Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời. Chính phủ Trần Trọng Kim thành lập ngày 17/4/1945 và danh sách nội các được trình vua Bảo Đại phê chuẩn. Ngoài Tổng trưởng Nội các Trần Trọng Kim và Phó Tổng trưởng Nội các kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trần Văn Chương, nội các Trần Trọng Kim có 9 bộ khác gồm: Nội vụ (Trần Đình Nam), Tư pháp (Trịnh Đình Thảo), Giáo dục và Mỹ nghệ (Hoàng Xuân Hãn), Tài chính (Vũ Văn Hiền), Thanh niên (Phan Anh), Công chính (Lê Văn Lang), Y tế (Vũ Ngọc Ánh), Kinh tế (Hồ Tá Khanh), Tiếp tế (Nguyễn Hữu Thi). Như vậy, nhìn vào danh sách nội các này không thấy có Bộ Quốc phòng, An ninh. Một chính phủ không có quân đội, danh sách nội các phải trình xin ý kiến và được sự đồng ý của Đại sứ Nhật Bản tại Huế là Masayuki Yokoyama. Vậy nên nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định đó là chính phủ chuyển từ lệ thuộc thực dân Pháp sang Phát xít Nhật. Ngày 30/3/1945, trong một cuộc họp với công chức người Việt ở Long Xuyên, Toàn quyền Nhật Bản là Minoda đã không dấu giếm mà nói rằng: “Có một sự hiểu lầm lớn về sự độc lập ở Đông Dương. Sự độc lập này là hoàn toàn ở dưới sự kiểm soát quân sự của Nhật Bản. Sự độc lập của đế chế Trung kỳ và cũng như của Cao Miên đã được tuyên bố. Nam kỳ chẳng những ở dưới sự kiểm soát quân sự mà còn dưới cả sự cai trị quân sự của Nhật Bản. Vậy thì không có sự độc lập của Nam kỳ”. Chính vị Bộ trưởng Thanh niên trong Chính phủ là Phan Anh sau này đã viết: “Chúng tôi đã lầm rất lớn. Chúng tôi đã tưởng lợi dụng được một đế quốc chống một đế quốc khác, tranh thủ quyền lợi về ta, nhưng trái lại bọn Nhật đã lợi dụng chúng tôi, ít nhất cũng là về danh nghĩa. Đó là một bài học đau đớn!”. Có lẽ vì vậy mà mặc dù phải thoái vị ngày 25/8/1945 để trao quyền lại cho quốc dân, song vua Bảo Đại cũng đã nói lên được sự thực từ đáy lòng: “Trong hai mươi năm ở ngôi, trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm vua một nước bị trị. Từ nay trẫm lấy làm sung sướng được là dân tự do, trong một nước độc lập. Thủ tướng Trần Trọng Kim trong hồi ký Một cơn gió bụi” đã than phiền rằng mặc dù làm Thủ tướng nhưng ông cũng không có toàn quyền quyết định mà đều phải xin ý kiến quyết định từ người Nhật. Chính ông Trần Trọng Kim đã nhìn ra bản chất thật của Phát xít Nhật nên ông đã viết trong hồi ký “người Nhật tuy dùng khẩu hiệu “đồng minh cộng nhục” và lấy danh nghĩa “giải phóng các dân tộc bị hà hiếp nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình.”

Thứ hai, Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Kể từ khi người Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858, mấy thế hệ người Việt Nam đã lớp nối nhau ra pháp trường và vào nhà tù. Miền Nam nước Việt đã trở thành lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp và có thống đốc cai trị. Miền Bắc trở thành nửa thuộc địa, vừa có quan Pháp cai trị lại vừa có quan Nam triều, nhưng trên hết thảy là một Thống sứ người Pháp. Trung Kỳ được giao cho Nam triều và gọi là An Nam nhưng thực chất mọi việc đều do Khâm sứ người Pháp quyết định. Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, người Pháp sau đó đã thỏa hiệp với Phát xít Nhật quay lại đè đầu, cưỡi cổ dân Việt. Một cổ hai tròng nên cuối năm 1944 đầu năm 1945 hai kẻ chánh phạm và tòng phạm này đã gây ra cái chết cho 2 triệu đồng bào Việt Nam. Tháng 8/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ có vỏn vẹn 5.000 đảng viên, rất nhiều trong số những này còn bị giam cầm trong nhà tù của đế quốc, thực dân. 5.000 đảng viên đã lãnh đạo nhân dân làm nên một cuộc cách mạng Tháng Tám vĩ đại, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, kết thúc hơn 80 năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam. Thành công nhanh chóng và triệt để của cuộc cách mạng vĩ đại này chỉ có thể là lòng yêu nước thiết tha cháy bỏng của người dân Việt Nam khi ấy. Chỉ chưa đầy một tuần sau thắng lợi của cách mạng ở Hà Nội thì ngày 25/8, cách mạng Tháng Tám đã thành công ở Sài Gòn. Thành trì mấy chục năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và sau này của cả phát xít đã tiêu tan. Có một điều kỳ lạ diễn ra trong cách mạng Tháng Tám là nhiều quan lại cao cấp của chính quyền phong kiến, thực dân, nhiều nhà tư sản nổi tiếng, nhiều trí thức tên tuổi đã đi theo tiếng gọi của Nhân dân, của đất nước để cùng hòa mình trong dòng thác vĩ đại sục sôi này của dân tộc. Cuộc giành chính quyền ở Hà Nội sở dĩ thành công nhanh chóng cũng có phần công lao đóng góp quan trọng của vị Khâm sai Bắc Bộ Chính phủ Trần Trọng Kim là cụ Phan Kế Toại. Ngay trước khi cách mạng diễn ra, vị Khâm sai yêu nước này đã ra lệnh đóng cửa Phủ Bắc Bộ để giao quyền cho Việt Minh. Rất nhiều trí thức nổi tiếng là thành viên Chính phủ Trần Trọng Kim sau này đều đi theo cách mạng hoặc có những đóng góp bằng cách này hay cách khác cho cách mạng như Trịnh Đình Thảo, Phan Anh, Phan Kế Toạ… Nhiều quan lại của Nam Triều, tức chính quyền phong kiến của nhà vua Bảo Đại cũng đi theo cách mạng như: Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hòe, Đặng Văn Hướng. Nhiều nhà tư sản nổi tiếng không những đi theo cách mạng mà còn đóng góp phần lớn tài sản cho cách mạng như các gia đình ông Trịnh Văn Bô - Hoàng Thị Minh, đại điền chủ Nam Bộ Cao Triều Phát, Giáo chủ Nguyễn Ngọc Tương, Huỳnh Thiện Lộc,...

Thứ ba, Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, cho dù người Pháp có quay lại cộng tác với Phát xít Nhật thì thực chất cai trị Việt Nam lúc ấy chính là Phát xít Nhật. Vì vậy, cho đến trước ngày Ủy ban giải phóng và sau đó là Chính phủ lâm thời được lập ra, tại Việt Nam vẫn không có độc lập, tự do. Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Nhân dân Việt Nam giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng đồng minh thì Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Tác giả người Anh Thomas Hodgkin trong cuốn “Thế giới bàn về Việt Nam” đã đánh giá về Cách mạng Tháng Tám: “Đó là một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo, một Đảng chỉ mới ra đời được 15 năm. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên thành công trong việc lật đổ chính quyền của chế độ thuộc địa… Như vậy, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự bắt đầu của một thời kỳ mới, nó vạch đường ranh giới của thời đại thực dân bắt đầu nhường chỗ cho thời đại phi thực dân hóa”. Nhà sử học Na Uy S.Tonnesson trong cuốn sách viết về Việt Nam đã khẳng định: “Cuộc cách mạng ở Việt Nam năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, không chỉ có vậy, đó còn là một cuộc cách mạng chính trị chống lại nền quân chủ thối nát và là một cuộc cách mạng xã hội chống lại chủ đất và những người thu thuế”… Đó là những sự thật lịch sử không thể đảo ngược và xuyên tạc.

Lữ đoàn Công binh 28 hỗ trợ nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội bị ảnh hưởng của dịch COVID-19

        Sáng 16-8, Lữ đoàn Công binh 28 đã phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội để trao tặng 1,5 tấn gạo, 400kg bí đỏ (tổng trị giá trên 25 triệu đồng) cho nhân dân có hoàn cảnh khó khăn do bị ảnh hưởng của dịch COVID-19 trên địa bàn quận.

        Toàn bộ phần quà trên được trích từ nguồn vốn tăng gia sản xuất của đơn vị. Số quà này sẽ được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận Bắc Từ Liêm vận chuyển, giao trực tiếp các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19 tại các xã, phường trên địa bàn quận.

        Đây là việc thiết thực, thể hiện tình cảm, trách nhiệm sẻ chia cộng đồng của cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Công binh 28, chung tay cùng với chính quyền và nhân dân TP Hà Nội phòng chống, đẩy lùi dịch bệnh COVID-19.


Cơ quan, đơn vị phải chủ động phát hiện sớm, xử lý kịp thời các trường hợp mắc COVID-19

        Theo đó, trong hướng dẫn do Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên ký ban hành ngày 16/8, Bộ Y tế đề nghị các đơn vị phải chủ động phát hiện sớm và xử lý kịp thời các trường hợp mắc COVID-19 (F0), nghi ngờ mắc COVID-19, tiếp xúc gần (F1), tiếp xúc với người tiếp xúc gần (F2) tại cơ quan, đơn vị - đảm bảo an toàn và thực hiện mục tiêu kép; hạn chế tác động của dịch bệnh đến hoạt động của cơ quan/ đơn vị.
        Các cơ quan, đơn vị phải xác định nhiệm vụ phòng, chống COVID-19 là trọng tâm, cấp bách và thường xuyên. Thực hiện nguyên tắc người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về công tác phòng, chống dịch tại đơn vị. Chủ động phương án hậu cần, cách ly, xét nghiệm, điều trị để ứng phó kịp thời, khẩn trương, hiệu quả theo nguyên tắc 4 tại chỗ.
        Các cơ quan thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 do Thủ trưởng đơn vị làm Trưởng ban, có đầu mối tham mưu, tổ chức triển khai công tác phòng, chống dịch. Đồng thời thành lập các Tổ an toàn COVID của đơn vị gồm thành viên là đoàn viên công đoàn, Đoàn Thanh niên; mỗi Tổ an toàn COVID có từ 3-5 người, tổ trưởng là thủ trưởng công đoàn hoặc đoàn thanh niên.
        Xây dựng Kế hoạch và các phương án phòng, chống dịch COVID-19 của đơn vị phải bao gồm sơ đồ và bố trí phân luồng di chuyển trong đơn vị khi xuất hiện các trường hợp F0, F1, F2 và trường hợp nghi ngờ mắc bệnh.
        Quản lý người lao động về các thông tin gồm họ tên, năm sinh, số CMND/CCCD/hộ chiếu, địa chỉ nơi ở, địa chỉ nơi trọ, số điện thoại; yêu cầu người lao động thông báo khi có tiếp xúc với các trường hợp F0 hoặc F1.
        Trường hợp người lao động của đơn vị làm việc và lưu trú ở những địa phương khác nhau, thủ trưởng đơn vị phải có trách nhiệm thông báo cho Sở Y tế/Trung tâm kiểm soát bệnh tật cấp tỉnh của các địa phương liên quan để quản lý và theo dõi y tế đối với người lao động.
        Tổ chức theo dõi sức khỏe của người lao động hằng ngày; không được bố trí làm việc đối với người có một trong các triệu chứng như: mệt mỏi, sốt, ho, đau rát họng, khó thở... và người thuộc đối tượng F1, F2; yêu cầu người lao động đi làm nếu có các biểu hiện sốt, ho, đau họng, khó thở... và phải báo cho đơn vị quản lý, y tế địa phương để được tư vấn và xử trí theo qui định.

PHẢI HIỂU ĐÚNG VÀ TÔN TRỌNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ “CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945”

 

Một số thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Để biện hộ cho luận điệu đó, họ cho rằng: Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong bối cảnh xuất hiện “khoảng trống quyền lực”; cuộc cách mạng này không có đối tượng cụ thể, trực tiếp và những người làm cách mạng chỉ tiến công vào một cánh cửa chính trị khép hờ. Sự thật lịch sử đã cho thấy, những luận điệu nói trên là hoàn toàn bịa đặt. Chúng ta phải tôn trọng giá trị lịch sử đích thực của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Bài viết của TS. Trần Tăng Khởi,  Học viện Chính trị khu vực III “Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài, cùng những người bất mãn với chế độ, những kẻ cơ hội chính trị đã không ngừng xuyên tạc, công kích nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với việc tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phê phán Cương lĩnh, đường lối của Đảng, thì một trong những thủ đoạn thâm độc của họ là bóp méo sự thật lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khi thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm của Đảng, họ thường hạ thấp ý nghĩa của những thắng lợi to lớn của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Không thể phủ nhận là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi trong điều kiện khách quan có những yếu tố thuận lợi. Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tạo cho dân tộc ta một cơ hội hết sức thuận lợi: Kẻ thù của dân tộc ta lúc đó là thực dân Pháp và phát-xít Nhật đã tự loại nhau. Trên thực tế, từ sau đêm 9-3-1945, đối tượng chủ yếu của cách mạng Việt Nam là phát-xít Nhật. Khi đội quân Quan Đông mạnh nhất của phát-xít Nhật bị Hồng quân Liên Xô đánh bại ở Mãn Châu (Trung Quốc), giáng đòn quyết định buộc phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, thì ở Việt Nam lúc đó quân Nhật hoảng loạn, quân Pháp chưa đủ sức quay lại, chính quyền tay sai hoang mang cực độ, tạo điều kiện khách quan chín muồi cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi.

Tuy nhiên, dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu mà điều kiện chủ quan chưa chín muồi cho việc chớp thời cơ, phát động khởi nghĩa, thì cách mạng cũng không thể thành công. Thực tế đã cho thấy, cũng trong hoàn cảnh khách quan thuận lợi (thắng lợi của Đồng minh và thất bại của phát-xít Nhật), không phải nước nào cũng tiến hành được một cuộc khởi nghĩa để giành lại độc lập dân tộc. Tại thời điểm đó, chỉ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, toàn dân đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa lật đổ sự thống trị của phát-xít Nhật và bọn tay sai, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của một quá trình chuẩn bị đầy đủ lực lượng cách mạng của Đảng ta. Đồng thời, nó cũng là kết quả của việc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, tích cực theo dõi tình hình, dự đoán chính xác thời cơ và kiên quyết lãnh đạo nhân dân đứng lên chớp thời cơ để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Trong hai yếu tố chủ quan và khách quan thì yếu tố chủ quan là động lực chính quyết định đến sự thành, bại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thành quả đấu tranh lâu dài, gian khổ với biết bao máu xương của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng từ cuối thế kỷ XIX. Đảng Cộng sản Đông Dương - người kế tục vai trò lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước trước đó  - đã đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 lên một tầm cao mới với một cương lĩnh chính trị đúng đắn cùng trình độ tổ chức đường lối cách mạng sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của nước ta lúc bấy giờ. Trong đó, việc xác định chính xác đối tượng cần phải đánh đổ là thực dân Pháp cùng lực lượng tay sai của chúng được khẳng định từ sớm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (tháng 2-1930).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào giải phóng dân tộc trải qua nhiều chặng đường thăng trầm, quyết liệt, dẫn tới cao trào cách mạng mới sau khi Mặt trận Việt Minh được thành lập dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hai tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (năm 1939), Trung ương Đảng đã họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939. Hội nghị đã phân tích sâu sắc bản chất của cuộc chiến tranh, đặc điểm cơ bản của cách mạng Đông Dương và nhận định: “Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ bùng và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh rực rỡ”(1). Hội nghị còn chỉ rõ: Chiến tranh đã thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của xã hội thuộc địa - phong kiến lên đến đỉnh tột cùng, đòi hỏi phải được giải quyết, gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương; Hội nghị chủ trương đấu tranh chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát-xít, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và tất cả bọn tay sai của đế quốc, đòi hòa bình, cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn.

Ngày 22-9-1940, quân phát-xít Nhật tràn vào Việt Nam. Hội nghị Trung ương Đảng họp từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, chỉ rõ kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phát-xít Pháp - Nhật. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương mở rộng (tháng 5-1941) nhận định: Lúc này, ở Đông Dương, lực lượng phản cách mạng gồm có: “1. Thống trị Pháp ở Đông Dương và bọn tay sai của chúng. 2. Phát xít Nhật và bọn tay sai của chúng nó”(2). Nguyện vọng và mục đích của nhân dân Đông Dương hiện nay là đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập. Lực lượng cách mạng ở Đông Dương hiện nay là nhân dân Đông Dương, không phân biệt dân tộc, giai cấp. Đánh Pháp, đuổi Nhật là nhiệm vụ chung của nhân dân Đông Dương.

Sau ngày phát-xít Nhật đảo chính lật đổ quyền thống trị của thực dân Pháp (ngày 9-3-1945), tình hình chính trị ở Đông Dương có những thay đổi lớn. Chỉ thị ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương với nhan đề “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” chỉ rõ: “a, Đế quốc Pháp mất quyền thống trị ở Đông Dương, không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt ta nữa - mặc dầu ta vẫn phải đề phòng cuộc vận động của bọn Đờ Gôn định khôi phục quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương. b, Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương. c, Bọn Pháp kháng chiến đang đánh Nhật là đồng minh khách quan của nhân dân Đông Dương lúc này”(3).

Ngày 24-3-1945, Chính phủ Pháp ra tuyên bố với những lập luận hết sức xảo trá hòng che đậy và lừa dối dư luận nhưng vẫn để lộ dã tâm sẽ chiếm lại Đông Dương sau khi Nhật thất bại. Từ đó, Pháp ráo riết hoạt động, từ Pa-ri, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đờ Gôn, qua Bộ phận liên lạc của Pháp ở Viễn Đông (SLFEO) đặt ở Can-cút-ta (Ấn Độ), đến Phái bộ 5 do Xanh-tơ-ny đứng đầu đặt bản doanh tại Côn Minh (Trung Quốc). Đồng thời, Chính phủ Pháp chỉ thị cho Đại sứ của mình ở Trung Quốc và các viên tướng cầm đầu số lính Pháp bị Nhật đánh bại sang Hoa Nam (Trung Quốc) phối hợp với Phái bộ 5 thực hiện các âm mưu chuẩn bị tái xâm lược Đông Dương.

Ngay sau khi Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng ra mệnh lệnh khởi nghĩa (ngày 12-8-1945), thực dân Pháp càng đẩy mạnh các hoạt động nhằm nhanh chóng tái xâm lược Đông Dương. Ngày 13-8-1945, Đờ Gôn tuyên bố với Đác-giăng-li-ơ rằng sẽ cử ông ta làm Cao ủy ở Đông Dương, nắm toàn bộ quyền lực tại đây. Cùng ngày 13-8-1945, Bộ phận liên lạc của Pháp ở Viễn Đông tại Can-cút-ta quyết định cho máy bay thả dù xuống Đông Dương một bộ sậu chính trị gồm các ủy viên của nước Cộng hòa Pháp (việc này mãi đến ngày 22-8-1945 mới thực hiện được). Ngày 19-3-1945, tướng A-léc-xan-đri quyết định cử một đội tiền trạm gồm các sĩ quan tình báo (trước đây chạy trốn sang Trung Quốc) vào Hà Nội để chuẩn bị đón một phái đoàn đầy đủ của Pháp sẽ có mặt ở đây. Ngày 14-8-1945, Đờ Gôn cử Lơ-cléc làm Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang Pháp ở Đông Dương.

Thực dân Pháp tổ chức các toán biệt kích xâm nhập vào Việt Nam bằng hai đường: đường biển, do Phái bộ 5 chỉ huy, xuất phát từ một số đảo ở Hoa Nam (Trung Quốc); đường hàng không, xuất phát từ căn cứ quân sự ở Can-cút-ta, do máy bay của tình báo Anh đưa vào và nhảy dù xuống những địa điểm đã chọn.

Vào 18 giờ ngày 15-8-1945, hai ca-nô có vũ trang chở chừng 30 người cả Pháp và Việt đi qua Quảng Yên, hướng về cảng Hải Phòng. Cùng ngày 15-8-1945, một toán biệt kích đường biển gồm 5 tên do Blăng-sa cầm đầu đổ bộ vào Hải Phòng, định đi ngược sông Hồng lên Hà Nội. Đường sông bị cấm, cả 5 tên bị quân Nhật bắt giam, đến ngày 23-8-1945 mới đến được Hà Nội. Ngày 21-8-1945, một toán gồm 5 người Pháp và 1 người Việt nhảy dù xuống vùng tháp Mỹ Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, bị du kích ta tóm gọn. Ngày 22-8-1945, một toán biệt kích người Pháp do thiếu tá tình báo Xanh-tơ-ny - người phụ trách Phái bộ 5  - cầm đầu bám theo máy bay chở đoàn OSS của Mỹ từ Côn Minh đến Hà Nội. Đêm 22-8-1945, có 3 toán biệt kích nhảy dù: một toán do Mét-xme cầm đầu nhảy dù xuống Phúc Yên, bị dân quân ta tóm gọn (đến tháng 10-1945 mới được phóng thích); một toán do Xê-đin cầm đầu nhảy dù xuống Tây Ninh, bị quân Nhật bắt được và đưa đi Sài Gòn; một toán nhảy dù xuống vùng Hiền Sĩ (Nam Giao, tỉnh Thừa Thiên), định bắt liên lạc với Bảo Đại nhưng bị dân quân ta bắt gọn. Ngày 23-8-1945, một nhóm 4 tên dùng xuồng lớn đột nhập vào cửa Thuận An, bị dân quân ta bắt. Ngày 27-8-1945, một toán biệt kích nhảy dù xuống vùng Lai Bằng - cách Huế khoảng 20km, bị dân quân ta bắt. Tàu biển Cray-xắc đưa 16 tên đổ bộ lên đảo Cát Bà cũng bị quân ta tóm gọn. Ngày 28-8-1945, một toán biệt kích nhảy dù xuống vùng đường ven biển gần thị trấn La Gi và mấy ngày sau, một toán nữa nhảy dù xuống khu vực suối Kiết ở Tánh Linh (tỉnh Bình Thuận) đều bị dân quân ta bắt giữ...

Đấy là những kẻ thù từ nước ngoài thâm nhập vào nước ta để chống phá Cách mạng Tháng Tám. Dù chúng vào bằng đường hàng không hay đường thủy thì cũng cho thấy một điều là: Đây là những hành động không hề đơn độc, mà là có ý đồ móc nối với những tên tay sai cũ của thực dân Pháp hòng tổ chức lực lượng chống đối chính quyền cách mạng, chuẩn bị cơ sở cho quân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam sau khi phát-xít Nhật đầu hàng.

Quân Nhật tuy đã tuyên bố đầu hàng Đồng minh nhưng vẫn còn nguyên lực lượng và trang bị vũ khí, khí tài chiến tranh trong tay! Đảng ta chủ trương vận động sĩ quan và binh lính Nhật “án binh bất động”, trao vũ khí cho Việt Minh và Quân giải phóng Việt Nam để được bảo toàn tính mạng. Tuy nhiên, không phải ở đâu và lúc nào họ cũng đều hưởng ứng chủ trương đó của ta. Không ít nơi, quân Nhật vẫn có hành động quân sự chống phá ta. Ở huyện Lý Nhân (tỉnh Hà Nam), quân Nhật không những không giao kho thóc cho ta mà còn gọi viện binh từ Phủ Lý về, nổ súng chống lại lực lượng khởi nghĩa vào ngày 20-8-1945. Ở Hà Nội, quân ta tấn công vào trại bảo an binh, quân Nhật đưa xe tăng đến bao vây trại, hỗ trợ cho những phần tử bảo an ngoan cố và đòi tước vũ khí của tự vệ ta. Ta thuyết phục, quân Nhật mới chịu rút. Ở Lộc Ninh, sĩ quan Nhật ra lệnh bắn vào dân quân và đồng bào ta. Giao tranh đã nổ ra và chúng chỉ chịu đầu hàng sau khi một lực lượng của chúng bị quân ta tiêu diệt. Ở Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi), quân Nhật vẫn tiến hành các hoạt động khủng bố Việt Minh, bị dân quân ta đánh trả mới chịu co cụm về thị xã. Đặc biệt, trong cuộc chiến đấu chống quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên từ ngày 19 đến ngày 24-8-1945, lực lượng cách mạng tiêu diệt một số tên, buộc quân Nhật ở thị xã và các đồn lẻ trong tỉnh Thái Nguyên phải hạ vũ khí, bức hàng toàn bộ hệ thống chính quyền và quân đội tay sai của Nhật trong tỉnh. 

Với 82.260 quân phát-xít Nhật chờ ngày nộp vũ khí cho Đồng minh trong bối cảnh chính quyền cách mạng đang trong giai đoạn “trứng nước”, rõ ràng lực lượng này vẫn là một đối tượng mà ta phải tập trung đối phó.

Sau đêm Nhật đảo chính Pháp (ngày 9-3-1945), hệ thống chính quyền làm tay sai cho Nhật ở Việt Nam đã được dựng lên trên cơ sở hệ thống chính quyền của Pháp vừa sụp đổ. Trong cao trào kháng Nhật, cứu quốc, trước sự tiến công của Việt Minh, bộ máy chính quyền tay sai bị suy yếu, bất lực và đi đến tan rã từng bộ phận, trước hết là cấp xã, rồi đến cấp huyện. Đến Tổng khởi nghĩa, chính quyền ở nhiều huyện nhanh chóng thuộc về nhân dân, nhưng cũng ở nhiều nơi, chúng ta phải dùng áp lực của quần chúng kết hợp với trấn áp bằng bạo lực, trừng trị những tên ngoan cố để giành chính quyền. Ở cấp tỉnh và cấp kỳ, cuộc đấu tranh để xóa bỏ bộ máy chính quyền tay sai diễn ra gay go, phức tạp hơn. Dựa vào lực lượng bảo an, vào tổ chức phản động và hy vọng được quân Nhật bảo vệ, hầu hết thị trưởng, tỉnh trưởng và khâm sai đều có hành động phản kháng trước cao trào cách mạng của quần chúng. Đối với đối tượng này, ta đã phải kết hợp thuyết phục với dùng áp lực của quần chúng và lực lượng vũ trang. Ngày 23-8-1945, cuộc khởi nghĩa ở Huế đã nổ ra với sức mạnh của lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế có ý nghĩa hết sức to lớn, vì Huế là dinh lũy của chế độ phong kiến, trung tâm đầu não của chính quyền bù nhìn cả nước, nơi đóng quân và bộ máy tối cao của cố vấn Nhật.

Cùng với việc đánh đổ bộ máy chính quyền tay sai, cuộc đấu tranh với các lực lượng vũ trang do Nhật tổ chức và các đảng phái chính trị phản động cũng diễn ra hết sức gay go, phức tạp.

Hàng chục vạn lính bảo an và cảnh sát do Nhật tổ chức, trang bị và huấn luyện đã được giao cho những tên tay sai người Việt chỉ huy. Bọn này vốn là thành viên của các tổ chức chính trị phản cách mạng hoặc sĩ quan của Pháp chuyển sang làm tay sai cho Nhật. Bằng công tác binh vận, Việt Minh đã xây dựng cơ sở bí mật trong lực lượng vũ trang của địch. Đến ngày Tổng khởi nghĩa, nghe theo lời hiệu triệu cứu nước của Việt Minh, cùng với hoạt động của các cơ sở cách mạng ở bên trong cũng như sức ép của lực lượng chính trị quần chúng nổi dậy, nhiều đơn vị vũ trang của địch tự nộp vũ khí đầu hàng. Tuy vậy, ở rất nhiều nơi, để đập tan sự kháng cự của những tên cầm đầu ngoan cố, chúng ta phải sử dụng sức mạnh quân sự để trấn áp, giành chính quyền.

Ở miền Nam, hai triệu tín đồ đạo Cao Đài có vũ trang do Trần Quang Vinh cầm đầu theo Nhật chống lại cách mạng.

Cả nước lúc bấy giờ có đến mấy chục tổ chức chính trị phản động có hoặc không có vũ trang, do Pháp, Nhật hoặc Quốc dân Đảng Trung Hoa dựng nên. Trong đó, một số tổ chức từng theo Pháp, sau chuyển sang làm tay sai cho Nhật; một số tổ chức theo Nhật bị Pháp đàn áp và giam cầm, sau khi Nhật đảo chính Pháp thì được Nhật “hà hơi tiếp sức”, tiến hành chống phá cách mạng. Các cá nhân và tổ chức từng làm tay sai cho Pháp và phải nằm im sau ngày Nhật đảo chính Pháp, trước tình hình mới, bắt đầu ngóc đầu dậy với hy vọng Pháp quay trở lại. Các tổ chức phản động khác từng được bọn quân phiệt phản động Trung Hoa Dân quốc nuôi dưỡng thì trong bối cảnh quân đội Trung Hoa Dân quốc tràn vào Việt Nam với danh nghĩa quân đồng minh giải giáp quân Nhật, cho rằng đây là cơ hội thuận lợi để nhảy ra cướp thành quả cách mạng của nhân dân ta. Điều cực kỳ nguy hiểm là dù mỗi tổ chức phản động đó có những mưu đồ, tính toán riêng nhưng đều có chung mục tiêu là lật đổ chính quyền cách mạng!

Trong hoàn cảnh như vậy, để giành thắng lợi, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 phải làm tê liệt và tan rã tất cả các tổ chức chính trị phản động đó. Rõ ràng, đây là công việc không hề đơn giản trong điều kiện lực lượng vũ trang của ta còn chưa đủ mạnh. Để đập tan sự chống đối của các thế lực phản động, bóp chết ngay từ trong “trứng nước” những âm mưu, hành động xâm lược của thực dân Pháp sau khi bị Nhật đảo chính, đạp tung cánh cửa cản trở con đường tiến lên giành thắng lợi, Đảng ta phải sử dụng rất nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh. Không chỉ tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh, không chỉ biết phân hóa kẻ thù, mà Đảng ta còn kiên quyết lãnh đạo quần chúng nổi dậy trừng trị những tên ác ôn ngoan cố, sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp, đè bẹp sự phản kháng của các lực lượng quân đội phát-xít Nhật cũng như làm thất bại ngay từ đầu âm mưu trở lại thống trị Đông Dương của thực dân Pháp dù phải hy sinh xương máu.

Trong khi lực lượng chống cộng hay định kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam cố tình xuyên tạc lịch sử, thì không ít người vẫn tôn trọng sự thật khách quan khi nghiên cứu, đánh giá về Cách mạng Tháng Tám. William J. Duiker, một nhà sử học Mỹ có khá nhiều nghiên cứu về Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tách biệt rõ những “hoàn cảnh ngẫu nhiên” thuận lợi cho Cách mạng Tháng Tám với nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định thuộc về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. William J. Duiker cho rằng: “Nhưng chỉ riêng các điều kiện khách quan thì không làm nên một cuộc cách mạng, và ở đây công lao thuộc về những người Cộng sản. Họ đã có thể chớp lấy thời cơ được mở ra vô cùng thuận lợi vào lúc kết thúc cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương. Ở các xứ thuộc địa khác, khoảng trống ấy (tức thời cơ - TG) có thể được lấp đầy bởi lực lượng dân tộc chủ nghĩa không Cộng sản. Nhưng ở Việt Nam, các phần tử dân tộc chủ nghĩa đã không thể đứng lên chấp nhận thách thức (...). Chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương sở hữu ý thức về sự kịp thời và thấu hiểu được sự tinh tế có tính chiến lược của hoàn cảnh để vùng lên đúng lúc. Điểm cuối cùng này mới là quan trọng”(4).

Thực tế lịch sử nêu trên hoàn toàn bác bỏ luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không có đối tượng, Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi của Đảng ta lúc bấy giờ) chỉ biết lợi dụng thời cơ, và thắng lợi của cuộc cách mạng này “là sự ăn may của lịch sử!”./.

--------------------

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 535
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 118
(3) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 366
(4) William J. Duiker: The Communist  Road to Power in Vietnam, Boulder Co., Westview Press, 1981, tr.  100 - 101

Nước mắt thầm lặng của những y bác sĩ tuyến đầu chống dịch

        Thứ dễ nhìn thấy nhất ở bệnh viện dã chiến là nước mắt của F0 và khó thấy nhất là nước mắt của những y bác sĩ.
        Sư cô Thích nữ Nhuận Bình (sư cô), Phó Thư ký Ban văn hóa Giáo hội Phật giáo Việt Nam TP.HCM, là một trong 80 tăng ni, Phật tử được chọn phục vụ hỗ trợ ở các bệnh viện (BV) dã chiến, điều trị F0 từ ngày 22-7.
        Sư cô được phân công về BV dã chiến thu dung số 12 (BV số 12), TP Thủ Đức hỗ trợ tuyến đầu chống dịch. Trong suốt thời gian phục vụ, hỗ trợ cho các bệnh nhân tại đây, sư cô đã ghi nhận được rất nhiều câu chuyện cảm động không chỉ của bệnh nhân mà của cả những y bác sĩ ở BV.
        Trước mặt bệnh nhân phải luôn mạnh mẽ
        Đều nhận được những tin dữ, tin buồn từ người thân nhưng những ca F0 có thể gào khóc trong sự chăm sóc, động viên của đội ngũ nhân viên y tế, còn đội ngũ y tế tuyến đầu khi nhận tin chỉ biết lặng lẽ buồn, lo lắng và khóc một mình.
        Ở BV số 12, chuyện F0 khóc diễn ra hằng ngày. Họ mệt nên khóc, buồn cũng khóc và nhận tin dữ ở nhà thì càng khóc nhiều hơn.
        Đặc biệt, bệnh nhân nhận tin người thân mất thường rất sốc, quỵ ngã. Họ gào khóc, lúc đó chỉ số SpO2 (nồng độ ôxy trong máu) xuống thấp vô cùng.
        Ngay lập tức, họ được đưa xuống phòng cấp cứu để chăm sóc đặc biệt. Trên giường bệnh, họ vẫn nằm khóc. Điện thoại gọi liên tục, nước ngoài gọi về, dưới quê gọi lên hỏi tình hình. Những người chăm sóc, hỗ trợ như chúng tôi phải đứng cạnh bên trông chừng và khuyên nhủ. Chúng tôi thường khuyên bệnh nhân: Có những cuộc điện thoại không nên nghe, có những cuộc điện thoại chỉ nghe và trả lời có hay không, đúng hay sai.
        Thực ra, nếu là mình nhận tin dữ thì cũng sốc như họ nhưng ở thời điểm này, mình phải tự nhủ bản thân phải bình tĩnh để còn chăm sóc bệnh nhân. Nhìn lại trong hoàn cảnh này, mình còn may mắn hơn nhiều người khác rồi.
        Đội ngũ y tế ở tuyến đầu cũng có người thân bị nhiễm COVID-19. Tôi nhớ, có lần một nhân viên y tế đang chuẩn bị lấy thuốc tiêm cho bệnh nhân thì nhận tin người nhà dương tính và phải đi điều trị ở một nơi khác. Họ bần thần, run tay run chân, không thể tiếp tục làm việc.
        Thế là họ ra ghế ngồi thẫn thờ. Trong bộ đồ bảo hộ kín mít, nhân viên y tế có khóc cũng đâu ai biết. Giọt nước mắt có chảy ra cũng không ai nhìn thấy.
F0 mệt mỏi gục ngã thì có đội ngũ y tế, tình nguyện viên bên cạnh, làm điểm tựa. Còn với vai trò của mình, nhân viên y tế có khóc thì quay lưng đi mà khóc, đứng trước mặt bệnh nhân phải luôn mạnh mẽ.
        Lúc nào chúng tôi cũng động viên các F0: Đã ở đây rồi thì mình phải hiểu rằng mình có phước, may mắn hơn nhiều F0 ngoài kia. Bây giờ nhiều F0 không đến BV, không nhận được sự chăm sóc của bác sĩ. Mọi người được đến đây rồi thì lo tĩnh dưỡng. Tất cả để cho tuyến đầu lo, bác sĩ lo.
        Tôi nghĩ lời mình đủ tính thuyết phục, cho nên họ nghe và tin để có tinh thần tiếp tục chiến đấu với dịch bệnh.
        Lâu lâu một số ca F0 lại hỏi tôi: Hôm nay con đỡ chưa sư cô, các chỉ số của con có ổn không, con sắp khỏe chưa, con sắp lành bệnh chưa, con nhớ gia đình lắm rồi. Con muốn về nhà!.
        Ở tuyến đầu nhiều tâm sự trái ngang, những nỗi buồn không tên tuổi. Người ta phải tự trấn an nhau bằng cách nói rằng họ sắp khỏe rồi, các chỉ số sắp ổn định rồi, chỉ cần cố gắng thêm chút nữa, ăn nhiều, ngủ đủ giấc, uống đủ nước, tinh thần thoải mái, không lo toan thì ngày tạm biệt BV sắp đến.
        Có nhiều ca khi trấn an xong, chúng tôi vội quay đi để giấu giọt nước mắt của mình, giấu sự nghẹn ngào thương cảm...
        Trả ơn thành phố, Tổ quốc
        Đội ngũ những người làm việc ở tuyến đầu cũng bằng xương, bằng thịt, ai cũng sợ dịch bệnh tấn công mình, tấn công người thân. Thế nhưng, ai cũng sợ chết thì sẽ không có hàng trăm người đã và đang ngày đêm ở tuyến đầu chống dịch, bất chấp mọi rủi ro, thậm chí cả hy sinh.
        Mấy chục năm nay, tôi được sống trong một đất nước rất bình yên. Tôi mang ơn Tổ quốc và TP.HCM - nơi nuôi dưỡng tôi khôn lớn. Bây giờ TP cần, người dân cần thì tôi không từ chối.
        Là một tu sĩ, tôi mang ơn những thí chủ cơm áo gạo tiền. Đây là lúc tôi trả ơn quốc gia, trả ơn TP, trả ơn những thí chủ đã bảo bọc, nuôi dưỡng mình.
Chỉ cần còn sức khỏe, mọi người cần đến tôi thì tôi không bao giờ từ chối việc phục vụ ở tuyến đầu. Tôi cũng đã kêu gọi một số tình nguyện viên đến phục vụ BV dã chiến điều trị COVID-19 quận Bình Thạnh. Qua đó đã có nhiều trái tim thiện nguyện đã chấp nhận dấn thân vào tuyến đầu, hỗ trợ đội ngũ y bác sĩ để cùng tuyến đầu chống dịch.

Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

1. Bối cảnh lịch sử và diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.

Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.

Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.

2. Nguyên nhân thắng lợi

- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

- Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.

- Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.

3. Ý nghĩa lịch sử

- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền.

- Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.

4. Một số bài học kinh nghiệm

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:

Bài học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.

Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.

Nguồn tin: Ban Tuyên giáo Trung ương

“CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN” ĐÃ BÀO MÒN NHÂN CÁCH

 

Trước đại hội XIII của Đảng, vấn đề nhân sự được thảo luận sôi nổi ở các ngành, các cấp. Đặc biệt ở cấp Trung ương, hai chữ “tài”, “đức” lại được đưa ra làm thước đó để lựa chọn cán bộ. Cả hai vế đều được coi trọng nhưng có lẽ, thực tế công cuộc phòng chống tiêu cực, tham nhũng, suy thoái vừa qua cho thấy, “đức” phải là gốc, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và các học trò của Người đã để lại tiếng thơm cho đời cũng chính bởi đề cao chữ “đức”, chữ “liêm”.

Qua vụ việc sai phạm mà cơ quan điều tra kết luận về ông Nguyễn Đức Chung, không thể định nghĩa chính xác hơn trong 4 chữ mà người đứng đầu Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhắc tới. Đó là “chủ nghĩa cá nhân”. Chủ nghĩa cá nhân đã bào mòn nhân cách khiến con người ta sa ngã một lần thì tiếp tục “nhúng chàm” ở lần tiếp theo. Sai phạm nọ nối tiếp sai phạm kia, cuối cùng cũng chỉ chung quy hai chữ “quyền” và “tiền”. Hơn một lần, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng phát biểu: “Tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất!”. Với ông Nguyễn Đức Chung từng là tiến sĩ luật, từng là cán bộ hình sự, được phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang khi mới 37 tuổi, được phong tướng khi mới 46 tuổi, rồi lần lượt giữ các chức vụ lãnh đạo ở đơn vị bảo vệ trật tự an toàn cho thủ đô, ông Chung được kỳ vọng sẽ là một nhà lãnh đạo quyết liệt, xông xáo, dám nghĩ dám làm…Nhưng hiện tượng đôi khi không phản ánh hết bản chất, đúng như Tổng Bí thư nói: Đừng thấy “đỏ” mà tưởng là “chín” và  trong một hội nghị kín, mang tính tâm tình, Tổng Bí thư chia sẻ “Tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu”. Nhưng nay, nó đã chính thức đi vào bài diễn văn tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ mới, đủ thấy ông trăn trở thế nào đối với danh dự của người cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ vị trí lãnh đạo.

Không tham lam, không lóa mắt bởi đồng tiền, không dùng mọi thủ đoạn để đạt được địa vị; đề cao danh dự, đề cao phẩm chất đạo đức, đề cao sự liêm chính, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên lợi ích cá nhân thì có lẽ, đã bớt đi những cán bộ lãnh đạo bị kỷ luật và xử lý hình sự. Cán bộ mà sa vào “chủ nghĩa cá nhân” sẽ dẫn đến thân bại danh liệt./.

MỘT BÀI THƠ BẤT HỦ VỀ ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP

 



Những dòng chia sẻ đầy xúc động của Nhà thơ Anh Ngọc về Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngay sau khi hay tin Đại tướng từ trần

VĨNH BIỆT ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP - VỊ TỔNG TƯ LỆNH VÀ NGƯỜI ANH CẢ CỦA TOÀN THỂ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - VỊ TƯỚNG HUYỀN THOẠI CỦA LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM!

CẦU CHÚC ANH LINH CỦA ĐẠI TƯỚNG THANH THẢN PHIÊU DU TRÊN THẾ GIỚI CỦA NHỮNG NGƯỜI HIỀN THIÊN CỔ!

MẶT TRẬN CÓ TRÁCH NHIỆM VẺ VANG TRONG XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

 



Sáng 16/8, tại Hà Nội, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

ĐỪNG SO SÁNH TALIBAN VỚI QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM!


     Xung quanh câu chuyện Taliban sắp đưa quân vào Kabul, giành quyền kiểm soát hoàn toàn Afghanistan, có một vài chuyện đáng nói và đáng bàn ở đây.

Một chính quyền thân Mỹ và đồng minh bị sụp đổ, một hệ thống mục rỗng được hậu thuẫn từ A đến X sắp tan nát, một thất bại khá rõ ràng của phía Mỹ, nhiều người hả hê về chiến thắng này của phía Taliban. Thực ra sự hả hê này có nguyên do, vì không phải ai cũng ưa Mỹ và những việc Mỹ làm ở Trung Đông hay bất cứ nơi nào trên thế giới.

Tuy nhiên, nhiều người “vui không đúng nơi, đùa không đúng lúc”, khi so sánh quân đội Taliban với Quân Giải phóng Miền Nam, với những chiến sĩ cộng sản trung kiên chiến đấu vì sự thống nhất Tổ Quốc… Họ chế nhạo những ca từ của bài hát cách mạng như: Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Tiến về Sài Gòn... và đánh đồng hai cuộc chiến với nhau.

Đúng là có nhiều điểm trùng hợp tại hai cuộc chiến 1975 và 2021, giữa đoàn người tháo chạy khỏi Kabul và Sài Gòn, về những đoàn cơ giới chuẩn bị tiến vào thủ đô, về những chiếc trực thăng vận… Nhưng, hình ảnh là hình ảnh, hình ảnh phản ánh sự việc diễn ra, nhưng không phản ánh đầy đủ bản chất sự vật, sự việc. Chỉ có những kẻ khờ ngốc mới cho rằng bản chất cuộc chiến của Taliban tại Afghanistan giống cuộc chiến thống nhất tại Việt Nam.

Về mặt bản chất, các chiến sĩ thuộc lực lượng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc không phải là những kẻ khủng bố. Không một lực lượng khủng bố nào được người dân Mỹ ủng hộ qua các phong trào phản chiến, không một lực lượng khủng bố nào được đa phần người dân thế giới ủng hộ - từ phương Tây đến phương Đông, từ châu Mỹ đến châu Á, từ những quốc gia giàu có nhất đến các quốc gia nghèo khó nhất. Không một kẻ khủng bố nào được đường hoàng đàm phán tại Paris. Và trong bản hiệp định Paris được kí kết vào 1973, không có một từ “khủng bố” nào được ghi nhắm vào Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay Cộng hòa miền Nam Việt Nam, không một tờ báo chính thống thế giới nào nhắc về việc: “Mỹ kí kết với quân đội khủng bố”. 


Thực tế trước 1975, không ít lần quân đội giải phóng bị cáo buộc là quân khủng bố bởi truyền thông phương Tây. Nhưng, cáo buộc này chỉ đến từ phía truyền thông, không phải là lời cáo buộc chính thức đến từ các chính phủ hợp pháp của các quốc gia trên thế giới. Nghĩ một cách đơn giản như thế này, không một quốc gia nào muốn bị mang tiếng là hỗ trợ khủng bố công khai cả, họ hỗ trợ Việt Nam công khai, tức là tin tưởng vào cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam.

Các bạn đem Taliban ra so sánh với quân Quân Giải phóng Miền Nam, tức là nói thế hệ cha ông vĩ đại của chúng ta là những kẻ khủng bố hay cực đoan? Hả hê vào một chiến thắng của Taliban là quyền của các bạn, vui vì Mỹ thua cũng mặc các bạn, nhưng đừng dùng sự hả hê đó ra rồi lấy thế hệ cha ông của chúng tôi ra để so sánh.


Chủ nghĩa ái quốc khác với chủ nghĩa cực đoan! Chiến đấu vì Tổ Quốc khác với chiến đấu vì tôn giáo hay tranh đoạt quyền lực!

Xét về mặt tổ chức quân đội, chính Tổng thống Joe Biden từng khẳng định rằng quân đội Taliban không có cửa gì so sánh với quân đội Bắc Việt - chỗ này xin đính chính lại, không phải quân đội Bắc Việt mà là quân đội giải phóng miền Nam, là lực lượng từ các vùng miền Tổ Quốc. Thiệt hại nhân mạng của Mỹ trong 20 năm tại Afghanistan là khoảng 2400 binh lính thiệt mạng, 20 ngàn binh lính bị thương, chỉ bằng 1/25 so với những thiệt hại tại chiến trường Việt Nam, với khoảng 58 ngàn binh lính thiệt mạng 305 ngàn lính bị thương. Trong khi đó, số lượng bom mìn mà Mỹ ném xuống Afghanistan chỉ bằng 1/70 so với những gì đã ném xuống Việt Nam. Thiệt hại nhân mạng dân thưởng tại Afghanistan vào khoảng 50 ngàn người, còn tại Việt Nam là vào khoảng 2 triệu người.

Tức là sao? Việt Nam chịu tổn thất nhiều hơn, bị phá hủy nhiều hơn, nhưng vẫn gây ra cho Mỹ và đồng minh nhiều thiệt hại hơn. Mà hơn không phải hơn một vài lần, mà từ hàng chục lần trở nên. Vì vậy, so sánh hai cuộc chiến với nhau rất là khập khiễng. Đó là một hành vi hạ thấp sức nặng chiến thắng của dân tộc ta, hạ thấp những gì mà nhân dân ta đã phải chịu đựng trong chiến tranh.


Cuộc chiến của chúng ta là cuộc chiến thống nhất, không phải là một cuộc chiến tranh giành quyền lực hay sức ảnh hưởng, không phải là một cuộc chiến vì tôn giáo. Hiệp định Paris ghi rõ ràng các nước phải tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam, không can thiệp vào quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Ngay khi tuyên bố thành lập, có tới 23 quốc gia công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và khoảng 50 quốc gia khác đặt những liên hệ ngoại giao. Tính chính nghĩa chúng ta có, sự ủng hộ quốc tế chúng ta có, sự thừa nhận quốc tế chúng ta có. Hà cớ gì mà đem ra so sánh với Taliban, một tổ chức mà chưa có bất cứ một quốc gia nào công khai ủng hộ hay công nhận tính chính danh?

Mục tiêu tối thượng của Quân Giải phóng miền Nam, hay của quân đội nhân dân Việt Nam, là thống nhất và bảo vệ Tổ Quốc, giúp nhân dân có áo mặc, cơm ăn, mọi người bình đẳng. Quân Giải phóng miền Nam không buôn bán ma túy, không bị cáo buộc các tội ác diệt chủng, có cương lĩnh chính trị rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ.


Yêu nước, phải bằng một thái độ tôn trọng lịch sử và tiền nhân. Yêu nước phải dựa trên những suy nghĩ chín chắn, rõ ràng, rành mạch. Yêu nước, không được xây dựng dựa trên những khó khăn của một quốc gia khác.

Yêu nước, không phải dựa trên sự hả hê về việc thất bại của một quốc gia cựu thù./.


Yêu nước ST.