Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022

Đập tan âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và công an của các thế lực thù địch

 

Hiện nay, Trên các phương tiện thông tin, nhất là mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị tung ra đủ mọi “lý lẽ”, “cơ sở” của việc đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Chúng kết hợp bên trong với bên ngoài, tập trung tiến công trực diện vào những quan điểm cơ bản của chúng ta về chính trị của lực lượng vũ trang, của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Chúng giương lên ngọn cờ: bảo vệ "nhân dân, Tổ quốc, lãnh thổ", yêu cầu cần phải "bỏ hẳn cách hiểu lực lượng vũ trang chỉ cần trung thành với Đảng Cộng sản và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa"!

Với những luận điệu ru ngủ, Các thế lực thù địch, phản động cho rằng: Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có một truyền thống oai hùng gắn với vận mệnh của dân tộc, của đất nước, đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân trong nhiều thập kỷ qua của lịch sử Việt Nam hiện đại; có quan hệ mật thiết với nhân dân, là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Từ đó, chúng đặt vấn đề lực lượng vũ trang “chỉ là của dân tộc”, “của đất nước”, “của nhân dân” là “phù hợp”, chứ không cần phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, một lực lượng chính trị nào! Trơ tráo hơn, chúng còn phủ nhận tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, hòng tạo cơ sở cho việc đòi “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an nhân dân. Chúng tập trung công kích nguyên tắc Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với LLVT; cho rằng nguyên tắc đó thể hiện Đảng tự cho mình quyền đứng trên xã hội, trên luật pháp, bởi LLVT là để “bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”, Đảng chỉ là một bộ phận của xã hội, sao lại giành “độc quyền lãnh đạo” cho riêng mình!

Luận điệu trên tưởng như là khách quan, không chính trị, không giai cấp, nhưng lại nằm trong âm mưu “phi chính trị hóa” QĐND và CAND của các thế lực thù địch, thực chất là nhằm lái chính trị của lực lượng vũ trang sang chính trị tư sản. Bằng quan điểm đó, chúng đã khéo léo đi đến nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với QĐND và CAND, xóa nhòa bản chất chính trị giai cấp, tiến tới làm biến chất Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam.

Thực chất của luận điệu xuyên tạc đó là nhằm tách QĐND và CAND ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, kích động tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, chúng ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới đất nước,… hòng làm cho cán bộ, chiến sĩ mất lòng tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo khoảng trống về tư tưởng – lý luận, để luồn lách quan điểm, lập trường giai cấp tư sản.

Đây là luận điệu đặc biệt nguy hiểm; thực sự phản động về chính trị và phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Nhưng lại rất dễ làm cho chúng ta lầm tưởng rằng, các quan điểm đó là phù hợp, cần thiết và những lý lẽ, lời “khuyên nhủ” của chúng là hợp lý, khách quan đúng với thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

Không thể nói rằng, lực lượng vũ trang là "của nhân dân, của dân tộc” một cách chung chung, không cần sự lãnh đạo của một đảng phái, lực lượng chính trị nào. Lịch sử phát triển của nhân loại từ khi có giai cấp, nhà nước đến nay cho thấy, không bao giờ có cái gọi là lực lượng vũ trang “trung lập về chính trị”, "đứng ngoài chính trị", "phi giai cấp", "không can dự vào chính trị"… Quân đội, công an luôn gắn chặt với giai cấp, nhà nước sinh ra nó và mang bản chất giai cấp sâu sắc. Vì thế, không thể có và không bao giờ có lực lượng vũ trang “phi giai cấp”, “siêu giai cấp”, “phi chính trị”, “đứng ngoài chính trị”. V.I.Lê-nin đã vạch rõ bản chất phản động của luận điệu lực lượng vũ trang “đứng ngoài chính trị”, coi đó là “cái giáo lý tầm thường”, “giả nhân, giả nghĩa và dối trá”; và Người đã khẳng định một cách dứt khoát: Không thể có quân đội, công an “trung lập về chính trị”. Vì thế, mọi luận điệu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang thực chất chỉ là chiêu trò lừa bịp những ai nhẹ dạ, cả tin, ấu trĩ về chính trị mà thôi.

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập, giáo dục, rèn luyện các Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, lấy QĐND và CAND làm nòng cốt. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với QĐND và CAND. Vì vậy, lực lượng vũ trang mang bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đảng ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng QĐND và CAND theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,” lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp của lực lượng QĐND, CAND, đủ sức hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ vững an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội trong mọi điều kiện, tình huống.

Tuy nhiên, đến nay vẫn có không ít người thiếu tỉnh táo đã cổ súy một cách mê muội cho những luận điệu đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang mà các thế lực thù địch rao giảng và được một số hãng truyền thông phương Tây như: VOA, BBC, RFA, RFI... cùng những kẻ cơ hội chính trị, phản bội Tổ quốc, những người có thâm thù với cách mạng tung hô, cổ vũ nhiệt thành đã ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp xây dựng QĐND và CAND, đến sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, cần phải bác bỏ.

Mọi luận điệu cổ súy cho quan điểm “lực lượng vũ trang phải trung lập về chính trị”, đòi bỏ quy định sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Đảng Cộng sản Việt Nam… Đó chính là những cái bẫy “phi chính trị hóa” hết sức tinh vi và thâm hiểm của các thế lực thù địch. Bài học đắt giá về sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu; và gần đây là những sự kiện ở bất ổn chính trị - xã hội liên miên, kéo dài làm suy yếu đất nước đang diễn ra ở một số nước châu Á, châu Âu và hàng loạt nước theo thể chế đa nguyên, đa đảng ở Trung Đông, Bắc Phi, khiến chúng ta phải hết sức cảnh giác, không mắc mưu trước những chiêu trò “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch, tập trung chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện lệch lạc về chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang; tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị 05CT/TW của Bộ chính trị khóa XII về: “Học tập tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”. Qua đó, xây dựng tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống./.


Những thách thức đối với Nato

Một trong những điểm nhấn quan trọng của hội nghị thượng đỉnh NATO vừa diễn ra chính là việc đưa ra "Khái niệm chiến lược" mới, đánh dấu sự chuyển đổi để thích ứng với bối cảnh địa chính trị mới. Đây là tài liệu quan trọng, xác định các giá trị và mục tiêu của liên minh quân sự, đồng thời định hướng các nhiệm vụ ưu tiên liên quan đến vấn đề an ninh và giải quyết những thách thức mà  NATO phải đối mặt

Được cập nhật khoảng 10 năm một lần, “Khái niệm chiến lược” của NATO là "kim chỉ nam" cho chính sách quốc phòng của từng nước thành viên. Trong “Khái niệm chiến lược” năm 2010, hiện đã hoàn toàn lỗi thời, NATO xác định "mở rộng vòng tay" với Nga, coi Moskva là “đối tác chiến lược”, trong khi kẻ thù giả định của khối này là chủ nghĩa khủng bố. Chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraine đã làm thay đổi tất cả, khiến các nước thành viên trở nên đồng thuận hơn trong việc định nghĩa “mối đe dọa Nga”.
Tuy nhiên, sau nhiều năm “hòa bình ở châu Âu”, xung đột tại Ukraine đã khiến khái niệm “phòng thủ tập thể” có cơ hội một lần nữa trở thành sứ mệnh tồn tại của NATO. Ngoài việc giữ nguyên mục tiêu chống khủng bố, NATO muốn một chiến lược phòng thủ và răn đe mới có tính đến các mối đe dọa hỗn hợp và không gian mạng như đã thấy tại chiến trường Ukraine.
Theo Khái niệm chiến lược mới, lần đầu tiên sau hơn 10 năm, NATO chính thức thay đổi quan điểm với Nga, chuyển từ xem Nga là "đối tác chiến lược" trở thành "mối đe dọa lớn nhất, trực tiếp nhất". Tuy nhiên NATO khẳng định không tìm kiếm sự đối đầu với Nga.
Còn đối với Trung Quốc, lần đầu tiên nước này cũng trở thành một chủ đề chính thức trong khái niệm Chiến lược mới của NATO. NATO coi Trung Quốc là “thách thức hệ thống” lâu dài đối với liên minh. Tổng Thư ký Stoltenberg đã từng khẳng định “ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc đang định hình lại thế giới". Việc NATO đề cập đến Trung Quốc trong chiến lược mới được coi là bước đi mang tính “thực tế”, thừa nhận rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc không còn có thể bị bỏ qua.
Và hội nghị lần này cũng lần đầu tiên đánh dấu việc các đối tác Australia, New Zealand, Hàn Quốc và Nhật Bản có mặt tại một hội nghị cấp cao nhất của NATO, cho thấy rõ sự thay đổi nhận thức của khối trong việc mở rộng ảnh hưởng về phía Đông để ứng phó với các thách thức mới.
Theo các nhà phân tích, việc NATO đưa ra chiến lược mới xuất phát từ những thay đổi lớn trong cấu trúc an ninh khu vực và thế giới thời gian gần đây, đòi hỏi NATO phải có những thay đổi tương ứng cả về định hướng chiến lược và tư duy hành động, thể hiện rõ qua việc kết nạp các thành viên mới và tạo lập mối liên kết với các quốc gia ở Châu Á-Thái Bình Dương như New Zealands, Nhật Bản, Hàn Quốc. Khái niệm Chiến lược mới cho thấy tham vọng của NATO trở thành một liên minh toàn cầu đối phó với các thách thức mới trong thế kỷ XXI.
  Tuy nhiên giới phân tích cũng nhận định thách thức sẽ ngày càng gia tăng đối với từng mục tiêu mà liên minh NATO đề ra.
Chẳng hạn như việc mở rộng của NATO được nhận định sẽ tạo thêm đối đầu và xung đột. Thực tế với 5 lần mở rộng về phía Đông của NATO trong lịch sử, đến nay đã gây ra sự phản đối từ phía Nga và là một phần nguồn cơn gây ra “cuộc chiến” trong lòng châu Âu. Một trong những căn nguyên khiến Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt nhằm vào Ukraine từ tháng 2/2022 đến nay là do Kiev mong muốn gia nhập NATO, dấy lên quan ngại làm mất bảo đảm an ninh của Moskva. Mặc dù cuộc xung đột Ukraine mang lại cho phương Tây động lực để gắn kết lợi ích nhưng gần đây đã có dấu hiệu cho thấy sự đoàn kết của các nước phương Tây đang đối mặt với thách thức lớn. Hơn 100 ngày sau chiến dịch quân sự của Nga, tình hình chiến trường thay đổi với việc Ukraine mất thêm nhiều vùng đất. Châu Âu phải gánh chịu hậu quả từ chính các lệnh trừng phạt của mình nhằm vào Nga, đã có nhiều tiếng nói trên truyền thông phương Tây thể hiện sự mệt mỏi với xung đột… Thậm chí, khi mà các nhà lãnh đạo NATO vẫn đang tham dự hôi nghị thượng đỉnh tại Madrid vào tuần trước thì ở bên ngoài, những cuộc biểu tình ở Tây Ban Nha, Đức và Canada đã diễn ra. Người biểu tình kêu gọi hòa bình và họ tin rằng, sự mở rộng của NATO sẽ không bao giờ mang lại hòa bình cho thế giới.

Xác định chiến lược mới của NaTo

  

Ngày 28 đến 30/6, Hội nghị thượng đỉnh Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) đã diễn ra tại Madrid, Tây Ban Nha với sự tham dự của lãnh đạo các nước thành viên. Hội nghị lần này được coi là sự kiện mang tính bước ngoặt của khối với nhiều quyết sách quan trọng được thông qua, trong đó thống nhất về khái niệm chiến lược mới, cải tổ lực lượng phản ứng nhanh và nhất trí mời Thụy Điển và Phần Lan gia nhập liên minh quân sự này.
Tuyên bố chung gồm 22 điều, nhấn mạnh mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương, vai trò của phòng thủ tập thể, củng cố liên minh và gia tăng tốc độ thích ứng với những thay đổi trong môi trường an ninh thế giới. 
Một số điểm quan trọng trong tuyên bố chung bao gồm việc xác nhận một Khái niệm chiến lược mới, trong đó xác định một số mối đe dọa đối với NATO, bao gồm cả đe dọa từ không gian vũ trụ và trên không gian mạng, khẳng định sẽ tăng cường khả năng răn đe và phòng thủ, khả năng tự cường của NATO thông qua các hoạt động như đảm bảo chi tiêu quốc phòng quy ước của các nước thành viên, tăng cường diễn tập phòng thủ tập thể, gia tăng khả năng tương tác và sử dụng hiệu quả các công cụ chính trị và quân sự và đảm bảo an ninh năng lượng của các nước thành viên.
Song song với đó, NATO quyết định tăng lực lượng ở trạng thái sẵn sàng cao lên mức hơn 300.000 quân. Lực lượng phản ứng nhanh của NATO là sự kết hợp của các khí tài trên bộ, trên biển và trên không được thiết kế để triển khai nhanh chóng trong trường hợp bị tấn công. Tổng Thư ký NATO Jens Stoltenberg cho biết “bản thiết kế quân sự mới” này sẽ “nâng cấp mạnh mẽ” hệ thống phòng thủ phía Đông của khối.  Theo đó, NATO sẽ nâng các nhóm tác chiến ở sườn phía Đông lên cấp độ lữ đoàn hoặc sư đoàn. Hiện tại, khối này đang duy trì 8 nhóm đồn trú tại Litva, Estonia, Latvia, Ba Lan, Romania, Hungary, Slovakia và Bulgaria cùng với nhiều vũ khí hạng nặng mới được bổ sung trong thời gian diễn ra xung đột Nga-Ukraine.
Ngoài ra, vấn đề mở rộng liên minh được dư luận quốc tế đặc biệt quan tâm trong hội nghị cấp cao lần này của NATO. Trong tuyên bố chính thức đưa ra tại hội nghị ở Madrid (Tây Ban Nha), các nhà lãnh đạo NATO quyết định mời Phần Lan và Thụy Ðiển gia nhập liên minh. NATO tái khẳng định cam kết đối với Chính sách mở cửa và quyết định mời hai quốc gia này trở thành thành viên của NATO và nhất trí ký các nghị định thư gia nhập vào ngày 5/7 tới. NATO cũng hoan nghênh việc ký kết biên bản ghi nhớ ba bên giữa Thổ Nhĩ Kỳ, Phần Lan và Thụy Điển. Tuy nhiên quyết định kết nạp Phần Lan và Thụy Điển vẫn cần được Quốc hội của 30 nước thành viên NATO thông qua và Tổng thư ký Jens Stoltenberg cho biết quá trình này sẽ được đẩy nhanh hơn bình thường.
Các nhà lãnh đạo các nước thành viên cũng đồng ý đầu tư nhiều hơn cho NATO và tăng nguồn tài trợ chung. Một quỹ đổi mới NATO trị giá 1 tỷ USD đã được nhất trí thành lập tại hội nghị. Tổng Thư ký NATO cho biết, 9 trong số 30 quốc gia thành viên đã đạt hoặc vượt mục tiêu chi 2% GDP hằng năm cho quốc phòng và các thành viên khác cũng xây dựng kế hoạch rõ ràng để đạt mục tiêu này vào năm 2024.
Cũng tại hội nghị thượng đỉnh lần này, NATO cam kết sẽ giúp đỡ Ukraine và đồng ý về một gói hỗ trợ mới nhằm hiện đại hóa lĩnh vực quốc phòng của nước này.
Trong buổi họp báo ngay sau lễ bế mạc hội nghị, Tổng Thư ký NATO Stoltenberg tuyên bố, NATO vừa kết thúc một hội nghị cấp cao lịch sử mang tính chuyển đổi, với những quyết định sâu rộng nhằm củng cố khối đồng minh. Tổng Thư ký Stoltenberg nhấn mạnh, các quyết định được đưa ra tại Madrid sẽ bảo đảm để NATO, liên minh quân sự 73 năm tuổi, tiếp tục giữ gìn hòa bình, ngăn ngừa xung đột, bảo vệ người dân và các giá trị của khối.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận

 Công tác lý luận bao gồm các hoạt động nghiên cứu, phát triển lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định và cụ thể hóa đường lối; và các hoạt động truyền bá lý luận, đưa lý luận và cuộc sống, nhằm nâng cao trình độ lý luận, giác ngộ chính trị, xây dựng phương pháp tư duy khoa học cho các đối tượng. Đây là mặt công tác quan trọng hàng đầu trong công tác tư tưởng, giữ vai trò quyết định trên mặt trận tư tưởng. Thực tế cho thấy, chỉ làm tốt công tác lý luận mới đảm bảo cho Đảng giữ vững và không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân (GCCN), tính tiền phong, năng lực lãnh đạo chính trị đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công tác lý luận là trách nhiệm và hoạt động của toàn Đảng, nhưng trước hết và chủ yếu thuộc về cấp chiến lược. Đảng tiên phong trước hết là tiên phong về lý luận.

Nhiệm vụ của công tác lý luận: Một là, tổng kết thực tiễn; Hai là, phát triển lý luận. Hai mặt này gắn liền với nhau và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng. Sự chậm trễ hoặc phạm sai lầm trong công tác lý luận là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng dao động, không thống nhất về chính trị, tư tưởng, dẫn Đảng tới nguy cơ sai lầm về đường lối, chủ trương, dẫn đến mất vai trò lãnh đạo. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng đòi hỏi công tác lý luận phải được tăng cường, đẩy mạnh. Đại hội IX của ĐCS Việt Nam đã chỉ ra: phải “đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng; đấu tranh với những khuynh hướng, tư tưởng sai trái”(2). Nghị quyết số 16/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới; Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17-4-2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, khóa X về tăng cường công tác đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; nghị quyết Đại hội Đảng qua các thời kỳ... Trong đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã khẳng định: “Đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị chống phá Ðảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, trong đó xác định một trong sáu quan điểm chỉ đạo là: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân”.  ĐCS Việt Nam luôn xác định công tác lý luận là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của Đảng, là một trong những nội dung quan trọng của công tác lãnh đạo và là phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng.

Mục tiêu của công tác lý luận là vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể hiện nay của Việt Nam để xây dựng cơ sở lý luận cho đường lối cách mạng của Đảng; phổ biến, truyền bá lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân; cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia công cuộc đổi mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng lãnh đạo.

Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, công tác lý luận là một nội dung trọng yếu, nhân tố quan trọng hàng đầu tạo nên sự thống nhất, đoàn kết trong Đảng. Công tác lý luận góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. ĐCS Việt Nam xác định công tác lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, đóng vai trò quyết định trong việc bảo vệ, phát triển và củng cố niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng; làm cho hệ tư tưởng của Đảng, lý tưởng XHCN giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; gìn giữ, kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới. Công tác lý luận giúp bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên lực lượng và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, tư tưởng, trí tuệ, văn hóa và đạo đức. Công tác lý luận có vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác lý luận phải góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, nhất là âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, củng cố và phát huy sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững đất nước. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, công tác lý luận luôn được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức về nội dung, con đường đi lên CNXH ở nước ta đã ngày càng rõ hơn, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của đất nước(3)...

Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác lý luận của Đảng. Từ khi thành lập đến nay, cùng với việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch; ngày càng chú trọng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện nhiệm vụ quan trọng này. Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.

Chủ thể, lực lượng tham gia: Công tác lý luận phải gắn bó chặt chẽ với công tác tổ chức, cán bộ và phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân; phải tiến hành đồng thời với việc thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng; nói đi đôi với làm. Cần hết sức coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu để bổ sung và phát triển lý luận, góp phần xây dựng, hoàn thiện đường lối, chính sách. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức tiến hành công tác tư tưởng, lý luận đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác lý luận là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả đảng viên, trước hết là cấp ủy, bí thư cấp ủy các cấp; của cả hệ thống chính trị với sự tham gia tích cực của nhân dân, trong đó lực lượng nòng cốt là đội ngũ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ quan trọng bảo vệ trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng, vì vậy, cần huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; việc tổ chức đấu tranh cần được chuẩn bị kỹ, chặt chẽ, khoa học và quyết tâm cao. Tất cả các cơ quan tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, báo chí là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ này. Người đứng đầu cấp ủy phải là người tổ chức cuộc đấu tranh. Cần huy động một đội ngũ chuyên gia giỏi, tâm huyết tham gia cuộc đấu tranh. Cần thường xuyên sơ kết, rút kinh nghiệm, biểu dương những cơ quan, những người làm tốt nhiệm vụ.

Tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phê phán, phản bác có hiệu quả các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị. Đa dạng hóa các hình thức đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc; mềm dẻo, linh hoạt trong phương pháp; công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận. Đối thoại, trao đổi với những người có ý kiến khác trên tinh thần khoa học, dân chủ, xây dựng và thuyết phục. Phát huy vai trò và trách nhiệm của các phương tiện truyền thông đại chúng, các diễn đàn khoa học vì sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước, vì lợi ích của nhân dân và sự vững vàng của chế độ.

Vai trò bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận:  Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và sự phát triển của đất nước. Cuộc đấu tranh đó không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ học thuyết cách mạng của giai cấp công nhân (GCCN) trước sự tấn công, chống phá của kẻ thù giai cấp, mà còn bảo vệ độc lập dân tộc. Đồng thời, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn có nhiệm vụ vô cùng quan trọng là góp phần bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý luận, học thuyết cách mạng của GCCN trước sự vận động, biến đổi của lịch sử nhân loại, cũng như của bản thân giai GCCN và các lực lượng xã hội khác. Bởi vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận là một sự phân tích, phê phán mácxít nghiêm túc luôn đòi hỏi công tác lý luận có một thái độ đối xử có phân biệt, thích hợp trong mọi trường hợp cụ thể, đối với các đại biểu cụ thể của các trường phái tư tưởng triết học, xã hội học tư sản hiện nay. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận còn có vai trò hết sức quan trọng là định hướng hệ giá trị tư tưởng cho các lực lượng, tầng lớp trong xã hội nước ta, đồng thời góp phần tập hợp lực lượng nhằm thực hiện mục tiêu là xây dựng thành công CNXH.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận hiện nay có một số đặc điểm mới. Một là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận trước sự thay đổi về tương quan giữa các đối thủ chủ yếu trong cuộc đấu tranh ý thức hệ hiện nay; Hai là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận trong kỷ nguyên toàn cầu hóa sôi động và Cách mạng công nghiệp 4.0;  Ba là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh hiện nay;  Bốn là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận ngày càng gay gắt, phức tạp với những hình thức biểu hiện mới.

Nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận phải kịp thời, kiên quyết, kiên trì, sắc bén, có căn cứ khoa học, có sức thuyết phục; không áp đặt, võ đoán, quy kết, định kiến. Cuộc đấu tranh này phải được triển khai sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với nội dung phong phú, phù hợp với từng đối tượng.  Để cuộc đấu tranh này có hiệu quả, cần nắm vững và thực hiện tốt các quan điểm. Một là, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng phải đi đôi với phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Hai là, kết hợp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch với đấu tranh chống suy thoái và tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phòng, chống tham nhũng, nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu; Ba là, kết hợp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc với đấu tranh chống bảo thủ, giáo điều, cực đoan, duy ý chí với khắc phục hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; Bốn là, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng làm công tác tư tưởng, lý luận, báo chí là nòng cốt, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy đảng, sự chỉ đạo của chính quyền các cấp, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội;  Năm là, giữ vững trận địa tư tưởng, nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Triển khai tích cực, kiên quyết, thường xuyên, liên tục với quyết tâm chính trị cao, phương pháp khoa học, có sức thuyết phục cao, sức lan tỏa sâu rộng.


Các tác động của thách thức an ninh phi truyền thống đến các quốc gia

 Các thách thức an ninh phi truyền thống, điển hình như vấn đề an ninh môi trường, tội phạm công nghệ cao, di cư bất hợp pháp... không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực…, mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Những thách thức này thường lan tỏa rất nhanh qua nhiều quốc gia và để lại những hậu quả lâu dài. Các mối đe doạ an ninh phi truyền thống không chỉ là vấn đề cấp bách, mà còn là vấn đề thường xuyên, lâu dài, liên quan tới toàn nhân loại.

Biến đổi khí hậu toàn cầu là một vấn đề quan trọng hàng đầu của an ninh môi trường và đã trở thành thách thức an ninh phi truyền thống lớn nhất mà thế giới đang phải đối mặt. Biến đổi khí hậu toàn cầu đã nổi lên như một yếu tố thách thức và tiềm ẩn nguy cơ cho sự tồn tại trong tương lai của các quốc gia. Biến đổi khí hậu gây ra các biến động không có lợi về môi trường, gây khủng hoảng sinh thái, từ đó đe dọa tới an ninh con người, an ninh quốc gia. Biểu hiện rõ nhất là sự nóng lên của trái đất, băng tan, nước biển dâng cao; các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lũ, sóng thần, động đất, hạn hán, tai biến và giá rét kéo dài… ảnh hưởng tới tính mạng con người, gây suy thoái kinh tế, xung đột và chiến tranh, mất đa dạng sinh học, phá huỷ hệ sinh thái, thiếu lương thực và xuất hiện hàng loạt dịch bệnh…

Biến đổi khí hậu đã gây ra hàng loạt các tác động tiêu cực đến con người và kinh tế. Theo hãng bảo hiểm Thụy sỹ Swiss Re, các hiện tượng thời tiết cực đoan trên thế giới năm 2015 đã gây thiệt hại 85 tỷ USD, 26.000 người chết do các hiện tượng thời tiết cực đoan. Năm 2015 đã đi vào lịch sử là năm nóng nhất từ trước tới nay, do hiện tượng ấm lên toàn cầu và ảnh hưởng của hiện tượng thời tiết El Nino. Năm 2015 cũng ghi nhận kỉ lục 9 trận siêu bão xuất hiện tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trận động đất mạnh 7,8 độ richter làm rung chuyển Nepal và các nước láng giềng, khiến nhiều người thiệt mạng, phá hủy nhiều công trình kiến trúc cổ và gây thiệt hại lớn về kinh tế.

Quản trị nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Thể chế, định chế nhà nước là sản phẩm của Nhà nước, của trí tuệ tập thể trong bối cảnh xã hội nhất định. Ở thời đại Hồ Chí Minh, dấu ấn của Người thể hiện ở quan điểm, mục tiêu xây dựng nhà nước kiểu mới, một nền hành chính của Nhân dân, lấy lợi ích của Nhân dân làm mục tiêu hoạt động.

Tư tưởng của Người về một nhà nước của dân, do dân, vì dân ở chỗ:

(1) Của dân, là: dân bầu ra Nhà nước, gồm những người được do dân tín nhiệm; dân kiểm soát Nhà nước; dân bãi miễn Nhà nước; dân biểu thị khen, chê Nhà nước.

(2) Do dân, là: dân tự làm, tự lo, tự giải quyết trong vòng pháp luật; Nhà nước chỉ can thiệp vừa, đủ, đúng theo pháp luật.

(3) Vì dân là: mọi quy định pháp luật đều vì dân; mọi lợi ích cho dân; mọi thuận tiện cho dân; xóa đặc quyền, đặc lợi; thân dân; gần dân.

Theo Người, nền hành chính nhà nước được thiết kế, tổ chức để phục vụ Nhân dân, chăm lo cho lợi ích của Nhân dân. Hiến pháp năm 1946 quy định: cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ (có nghĩa Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của Nhà nước), người đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, là người nắm tập quyền hành pháp trong bộ máy nhà nước. Chính phủ hoạt động dựa trên Hiến pháp và pháp luật, là trung tâm điều chỉnh mọi hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước.

Nhận diện về các thế lực thù địch và các quan điểm sai trái cần đấu tranh

 Các thế lực thù địch là tất cả những ai, cá nhân hay tổ chức, Nhà nước hay phi chính phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ở ngoài nước, người Việt Nam hay người nước ngoài... với mục đích chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hoạt động chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị đều là thành phần của “các thế lực thù địch”

Các thế lực thù địch trong việc tấn công vào nền tảng tư tưởng của đảng hiện nay có 3 nhóm chính: Nhóm thứ nhất, là các lực lượng thù địch, bao gồm cả những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn ở các nước trong cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa CNXH và chủ nghĩa tư bản. Cả những nhà hoạt động chính trị thuộc giới cầm quyền có tư tưởng tư bản theo kiểu truyền thống và một số người thuộc giới cầm quyền có tư tưởng XHCN cũng bị tấn công. Cuộc đấu tranh này không chỉ diễn ra ở đất nước chúng ta mà còn trên phạm vi thế giới; Nhóm thứ hai, là lực lượng cực đoan người Việt ở nước ngoài luôn lôi kéo, kết hợp với số chống đối, bất mãn ở trong nước lập ra các tổ chức như Việt Tân, Việt Nam phục quốc, Triều đại Việt...; Nhóm thứ ba, là một số cán bộ, đảng viên, có những đảng viên đã từng giữ chức vụ trung, cao cấp trong bộ máy, hệ thống chính trị của nước ta suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” Lực lượng này len lỏi, phức tạp, không khó để nhận ra nhưng lại rất khó để đấu tranh. Đây là những người phản bội lại quá khứ, phản bội lý tưởng và nguyên nhân của sự phản bội đó đôi khi lại bắt nguồn từ sự bất mãn, không đồng ý một số vấn đề cụ thể trong chính sách, ứng xử của những cơ quan, đơn vị.

Các thế lực thù địch đang sử dụng nhiều phương tiện, bằng nhiều con đường và với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS)  trên các hướng chính sau: Phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng: xuyên tạc, bài bác, phủ định Học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; Phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên CNXH của Việt Nam: Các thế lực thù địch phê phán triệt để, bôi đen CNXH hiện thực, bác bỏ con đường XHCN, công khai ca ngợi con đường TBCN; Phủ nhận sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo. Các thế lực thù địch công kích vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam; Các thế lực thù địch phản bác Cương lĩnh, quan điểm và nguyên tắc cơ bản của Đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng; Các thế lực thù địch bằng mọi cách tác động của nội bộ Việt Nam, dựng chuyện có phái này, phái nọ (phái bảo thủ, phái cấp tiến...), trong các cơ quan Đảng, Nhà nước nhằm tạo ra nghi ngờ nhau trong nội bộ, làm suy giảm đoàn kết trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân...Các thế lực thù địch tìm mọi cách bịa đặt, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước; Phủ định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; Các thế lực thù địch đã  xuyên tạc tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam, phủ nhận những thành tựu to lớn của nhân dân Việt Nam  trong quá trình đổi mới, đồng thời thổi phồng những yếu kém, khuyết điểm của Nhà nước Việt Nam trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, coi tệ quan liêu, tham nhũng là khuyết tật không thể khắc phục được trong xã hội XHCN, quy mọi yếu kém ở Việt Nam đều do ĐCS lãnh đạo; đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; Các thế lực thù địch đã xuyên tạc lịch sử, hạ bệ thần tượng, phủ nhận thắng lợi lịch sử có tính quốc tế của nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đó được dư luận quốc tế, loài người tiến bộ và được các tổ chức quốc tế như Liên Hợp quốc, UNESCO xác nhận và tôn vinh, ca ngợi; Vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ nhân quyền, cố tình đổi trắng thay đen, dựng chuyện Việt Nam đàn áp tôn giáo, kỳ thị, phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số v.v..

Mục tiêu của các thế lực thù địch: Sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực thù địch đang thay đổi chiến lược và phương thức chống phá. Mục tiêu nhất quán không thay đổi của chúng là chống phá tận gốc về tư tưởng chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, “phi chính trị hóa”, vô hiệu hóa quân đội và lực lượng công an, tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.

 Âm mưu của các thế lực thù địch: Âm mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch là xóa bỏ chế độ CNXH ở Việt Nam, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Để thực hiện âm mưu cơ bản đó, “Diễn biến hòa bình” là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng  của chủ nghĩa đế quốc.

Đối tượng mà các thế lực thù địch hướng  vào tác động, lôi kéo: Một là, tầng lớp văn nghệ sĩ, trí thức và thanh niên, học sinh, sinh viên; Hai là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Nhà nước các cấp, nhất là ở Trung ương và cấp tỉnh; Ba là, những người bất mãn với Nhà nước, nhất là những người có quan điểm sai trái, đối lập với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những người có hoạt động lôi kéo những người khác vào hoạt động chống đối Đảng, Nhà nước; Bốn là, những người Việt Nam ra nước ngoài công tác, học tập, lao động, trao đổi văn hóa, hội nghị, hội thảo, du lịch v.v..

Công cụ, phương thức, thủ đoạn: Một là, triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình, và mạng intemet từ nước ngoài để chuyển tải các quan điểm sai trái, thù địch để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam; Hai là, lợi dụng danh nghĩa công khai hợp pháp của những người có thân phận ngoại giao, những người sang Việt Nam để thực hiện các dự án hợp tác, hỗ trợ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, y tế... hoặc vào Việt Nam dự hội nghị, hội thảo, du lịch, thăm thân, thông qua các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc để truyền bá, phổ biến các quan điểm sai trái, thù địch; Ba là, thông qua hoạt động của các tổ chức phi chính phủ (NGO) của nước ngoài ở Việt Nam để truyền bá, phổ biến quan điểm sai trái thù địch;  Bốn là, tìm mọi cách tác động vào số cán bộ, công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ ra nước ngoài công tác, học tập, tham gia hội thảo, tham quan, du lịch để lôi kéo, gieo rắc tư tưởng hoài nghi con đường XHCN, hướng về phương Tây TBCN; Năm là, Mỹ và các nước phương Tây sử dụng các tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài vừa lôi kéo tập hợp lực lượng, vừa tiến hành các hoạt động bạo loạn hòng gây tình hình mất ổn định ở Việt Nam; Sáu là, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc” và “tôn giáo” để gây sức ép về chính trị, kích động, hình thành xu hướng ly khai đối lập với ĐCS Việt Nam; Bảy là, tăng cường móc nối với số đối tượng cơ hội chính trị, chống đối ở Việt Nam, tóm “ngọn cờ” để tập hợp lực lượng, hình thành phe phái tiến tới hình thành đảng đối lập ở Việt Nam; Tám là, làm cho xã hội Việt Nam  “tự diễn biến”.v.v..

Bên cạnh các luận điểm của các thế lực thù địch, hiện nay còn không ít những quan điểm sai trái của những kẻ thoái hóa, cơ hội chính trị, bất mãn: Một số đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn, mặc dù thụ hưởng những thành quả cách mạng do Đảng và nhân dân mang lại, nhưng lại tuyên truyền, tiếp nhận, tán phát tài liệu có nội dung xấu, móc nối viết bài nói xấu chế độ, Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam. Những bài viết được tung lên internet, thậm chí kích động tụ tập đông người, biểu tình gây áp lực với chính quyền, đòi thả tự do cho số “tù nhân lương tâm”. Họ có quan điểm tiêu cực với hầu hết các sự kiện, các thành tựu của đất nước, chẳng hạn nhân sự kiện Việt Nam đăng cai tổ chức APEC, phủ nhận sự thành công của Hội nghị, xuyên tạc bài diễn văn của Tổng thống Mỹ nhằm gây chia rẽ quan hệ Việt Nam - Trung Quốc v.v..

Khơi dậy và phát huy các nguồn tài nguyên văn hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững ở nước ta hiện nay

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã bồi đắp, kết tinh nên những trầm tích văn hóa - nguồn tài nguyên quý giá, nguồn lực nội sinh quan trọng của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh mới, để ứng phó linh hoạt, hiệu quả với những thách thức phức tạp, khó dự báo hiện nay, việc khơi dậy và phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa gắn kết với phát triển kinh tế - xã hội là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra, qua đó góp phần gia tăng sức mạnh mềm văn hóa, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.

   Tiềm năng và cơ hội khơi dậy, phát huy các nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam

Bề dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa

Việt Nam là quốc gia có bề dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa. Trong lịch sử phát triển, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm có ý thức tạo lập và phát huy sức mạnh văn hóa của đất nước. Việt Nam đã luôn đối mặt và chiến thắng những đội quân xâm lược có tiềm lực quân sự, kinh tế lớn hơn gấp nhiều lần. Có thể thấy, những nét đẹp của văn hóa Việt Nam là nguồn cội quan trọng tạo nên sức mạnh văn hóa Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã đề cập tới nhiều nguồn (tài nguyên) có tiềm năng phát triển văn hóa Việt Nam nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội, trong đó có bề dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa.

Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Một mặt, tính đa dạng là một đặc điểm lâu đời của nền văn hóa Việt Nam gắn với nông nghiệp trồng lúa nước, tính cộng đồng cao, trải qua quá trình lịch sử lâu dài đối phó với thiên nhiên cũng như kiên cường chống các thế lực ngoại xâm. Mặt khác, nằm trong khu vực ảnh hưởng của nhiều nền văn minh lớn trên thế giới là Ấn Độ, Trung Quốc và phương Tây, Việt Nam không chỉ tiếp thu, mà còn biến đổi những tinh hoa văn hóa thế giới cho phù hợp với điều kiện của mình. Do vậy, nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa dạng từ nguồn cội ban đầu. Giao lưu với văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Hoa diễn ra trong thời gian rất dài thông qua nhiều cách thức đã tạo nên dấu ấn khá đậm nét trong văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt vẫn giữ được bản sắc văn hóa của riêng mình. Điều này được thể hiện qua nhiều bình diện khác nhau trong đời sống người Việt, từ tôn giáo, tâm linh  đến thế giới quan, chuẩn mực đạo đức xã hội, kiến trúc, ngôn ngữ, đời sống sinh hoạt hằng ngày... Có thể nói, chúng ta có một nền văn hóa đa dạng và phong phú, đồng thời có một nền văn hóa chủ lưu làm cơ sở cho các cộng đồng văn hóa thiểu số, đó là văn hóa Việt. Điều này thúc đẩy sự phát triển yếu tố nội sinh của dân tộc, tạo nên sức mạnh đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc anh em trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo ra sức hấp dẫn, sự lôi cuốn, khả năng thuyết phục của văn hóa Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội trong quá khứ cũng như hiện tại.

Tính đa dạng văn hóa thể hiện trong chính hoạt động của nền kinh tế, từ kinh tế truyền thống tới kinh tế nông nghiệp, kinh tế ngư nghiệp, kinh tế ẩm thực, kinh tế du lịch và các ngành kinh tế khác được công nghiệp văn hóa khai thác. Từ đây, nền tảng của sự đa dạng văn hóa từ xưa của Việt Nam không chỉ cung cấp những điều kiện để phát triển kinh tế, mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế du lịch, công nghiệp văn hóa, tạo nên một hình ảnh Việt Nam mới phát triển mạnh về kinh tế, hấp dẫn về cơ hội đầu tư, thu hút sự khám phá đối với thế giới. Sự tồn tại đặc thù của các cộng đồng giúp giữ gìn nhiều ngành, nghề truyền thống. Khi kinh tế của các cộng đồng đó phát triển, năng lực sáng tạo độc đáo của các cộng đồng đó sẽ tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị. Các làng nghề truyền thống được bảo tồn và phát triển không chỉ bởi sinh kế của người dân, mà còn giúp giữ gìn những mạch nguồn văn hóa kết tinh và phát triển từ truyền thống tạo nên những sản phẩm độc đáo, có giá trị kinh tế và hàm lượng văn hóa cao. Trên cơ sở đó, các ngành du lịch sẽ có chất liệu để khai thác, tạo nên sự hấp dẫn với du khách đến từ những nền văn hóa khác. Nông thôn Việt Nam, đặc biệt là các làng nghề, không chỉ là những cộng đồng kinh tế, mà còn là những cộng đồng văn hóa, xã hội. Mỗi làng nghề truyền thống luôn có các hoạt động lễ hội, phường hội, những nét văn hóa mang đậm chất dân gian và chứa đựng bề dày lịch sử riêng biệt. Nhiều làng nghề còn là những làng văn hóa cổ với kiến trúc độc đáo. Chính vì vậy, sự đa dạng của các làng nghề truyền thống sẽ tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Những người nước ngoài tới các làng nghề không chỉ đơn thuần tham quan các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, mà còn để tận mắt ngắm nhìn những sản phẩm độc đáo và cách thức tạo ra chúng từ những bàn tay khéo léo, khối óc sáng tạo của các nghệ nhân, qua đó có thể tìm hiểu và khám phá những giá trị văn hóa, lịch sử. Nếu chúng ta có chiến lược đầu tư, khai thác sự đa dạng, phong phú của các nghề thủ công, các làng nghề truyền thống trong phát triển du lịch văn hóa, thì cùng với các sản vật phong phú, các sản phẩm thủ công độc đáo, các lễ hội, trò chơi dân gian và văn hóa ẩm thực dân gian, du lịch làng nghề sẽ là một sản phẩm du lịch thu hút được sự quan tâm của rất nhiều du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài.

Sự tồn tại đa dạng của các cộng đồng văn hóa cung cấp nét độc đáo cho sự gắn kết giữa các cộng đồng dân tộc Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam với bạn bè thế giới. Từ xưa tới nay, đối thoại giữa các nền văn hóa là điều kiện tiên quyết để từng cộng đồng, từng dân tộc bộc lộ và phát huy hết những năng lực sáng tạo độc đáo của mình trong quá trình tạo ra các giá trị mới về vật chất cũng như tinh thần. Trong bối cảnh hiện nay, đối thoại giữa các nền văn hóa đang là yêu cầu quan trọng bậc nhất để hướng tới sự phát triển bền vững của thế giới. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc giữa các nền văn hóa trên thế giới, nguy cơ đồng dạng hóa các giá trị văn hóa theo một khuôn mẫu. Sự đa dạng của các nền văn hóa, các cộng đồng văn hóa ở Việt Nam tạo ra môi trường để tăng cường tình đoàn kết, sự gắn bó giữa các cộng đồng. Mỗi tộc người có nền văn hóa, nét văn hóa riêng biệt, nhưng do yêu cầu chống thiên tai, bảo vệ cuộc sống và nhu cầu chống giặc ngoại xâm, và do cả sự giao lưu, hội nhập văn hóa, dân tộc Việt Nam vẫn hình thành nên một mẫu số chung, một hệ giá trị chung bền vững. Đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết, lối sống khoan hòa, lối ứng xử linh hoạt, cởi mở, dễ tiếp thu những giá trị mới, tinh thần hòa hiếu...

Sự đa dạng trong thống nhất, thống nhất mà vẫn đa dạng của nền văn hóa Việt Nam là một trong những yếu tố quan trọng tạo cơ hội để Việt Nam phát triển văn hóa theo hướng bền vững. Về mặt an ninh quốc phòng, đa dạng văn hóa tạo nên nguồn sức mạnh mềm hiệu quả để thúc đẩy và bảo đảm an ninh chính trị cũng như bảo vệ sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Các cộng đồng tộc người sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, vùng biên giới đa số là các cộng đồng dân tộc thiểu số. Mỗi cộng đồng khi bảo tồn được những giá trị văn hóa của cộng đồng mình sẽ tạo nên sự gắn kết bền chặt, phát triển bền vững. Việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số ở cùng khu vực với nhau sẽ tạo nên phương thức hiệu quả để bảo đảm an ninh chính trị, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.

Thế giới đang bước vào quá trình phát triển và hội nhập mạnh mẽ. Quá trình hội nhập tạo nên cơ hội cho việc giao lưu, quảng bá của các nền văn hóa trên thế giới. Điều này cũng khiến cho mỗi khu vực trên thế giới đều đang trở nên đa dạng về mặt văn hóa, đồng thời cũng tạo ra không ít xung đột do những va chạm và khác biệt giữa các nền văn hóa khác nhau. Các quốc gia đã nhận ra chìa khóa của sự phát triển hòa bình và ổn định trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng là sự thấu hiểu, tôn trọng và khoan dung với mọi khác biệt và đa dạng của các nền văn hóa khác. Do vậy, bảo tồn và phát huy tính đa dạng văn hóa vốn có của Việt Nam hiện nay sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế.

Di sản phong phú, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, giàu tiềm năng

Với bề dày hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam lưu giữ hệ thống di sản văn hóa và tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Đây chính là tiềm năng sẵn có để Việt Nam đa dạng hóa các sản phẩm, loại hình du lịch văn hóa, qua đó phát huy sức hấp dẫn, thu hút về sức mạnh mềm văn hóa. Tính đến hết năm 2018, Việt Nam có khoảng 3.500 di tích được xếp hạng quốc gia, 107 di tích quốc gia đặc biệt. Các di sản thiên nhiên thế giới (Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng), di sản thiên nhiên và văn hóa (như Quần thể danh thắng Tràng An, Công viên địa chất toàn cầu là Cao nguyên đá Đồng Văn), di sản văn hóa vật thể và phi vật thể (Cố đô Huế, Đô thị cổ Hội An, Khu đền tháp Mỹ Sơn, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ, Nhã nhạc - âm nhạc cung đình Việt Nam, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Hát xoan ở Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ Hùng Vương, Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ, Dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh, Nghệ thuật ca bài chòi Trung Bộ Việt Nam, Nghi lễ và trò chơi kéo co, Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, nghệ thuật Xòe Thái…); di sản tư liệu của thế giới (Mộc bản triều Nguyễn, Bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê và Mạc, Mộc bản Kinh Phật thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm, Châu bản triều Nguyễn, Thơ văn kiến trúc cung đình Huế) chính là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, giàu tiềm năng của nước ta.

Bên cạnh đó, với bề dày và sự đa dạng về văn hóa của 54 dân tộc, Việt Nam có hàng chục nghìn di sản văn hóa vật thể, hơn 3 triệu di vật, cổ vật có giá trị (đang được bảo quản, trưng bày tại hệ thống 166 bảo tàng)(1) và một hệ thống phong phú các lễ hội (7.966 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội quốc gia), phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn, làng nghề thủ công, văn hóa ẩm thực, trang phục,... phân bố khá đồng đều trên khắp các vùng, miền(2). Những số liệu nói trên đã minh chứng cho việc tài nguyên văn hóa là một yếu tố cốt lõi của quá trình chuyển hóa nguồn lực mềm văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa thông qua xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch và là mấu chốt quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của điểm đến du lịch.

Nền văn hóa mở và các giá trị văn hóa có sức hấp dẫn, thuyết phục thế giới

Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa mở.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, văn hóa Việt Nam luôn là nền văn hóa không khép kín, hẹp hòi, kỳ thị, mà luôn cởi mở, khoan dung, sẵn sàng tiếp thu, chọn lọc cái hay, cái đẹp của văn hóa nhân loại để nâng cao và làm giàu cho văn hóa dân tộc (tiếp biến tư tưởng, học thuật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, chữ viết từ văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây,... một cách sáng tạo). Chúng ta cũng luôn tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để nâng tầm, hoàn thiện văn hóa Việt Nam, tiếp nhận những giá trị phổ quát của nhân loại mà không cực đoan, chia rẽ. Đây là những nhân tố tích cực tạo tiền đề để chúng ta dễ dàng hòa nhập vào dòng chảy chung của văn hóa thế giới và được quốc tế công nhận.

Một số giá trị văn hóa của người Việt Nam có sức thuyết phục thế giới.

Từ xưa đến nay, nhân dân các nước trên thế giới biết đến và nể trọng Việt Nam vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc với những giá trị cốt lõi, như lòng yêu nước, anh hùng, quả cảm, quật cường, đồng thời luôn hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình, nhân ái, vị tha. Truyền thống nhân nghĩa “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo” của Nguyễn Trãi trước đây và tinh thần hòa hiếu, khoan dung của chúng ta là cơ sở, nền tảng để Việt Nam có quan hệ tốt đẹp với nhiều quốc gia trên thế giới. Thái độ thân thiện, mến khách của người Việt Nam cũng luôn được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đó là những giá trị tốt đẹp và bền vững, nếu chúng ta biết quảng bá và phát huy đúng cách, sẽ có khả năng lan tỏa và sức thuyết phục, chiếm được thiện cảm, sự yêu mến của cộng đồng thế giới.

Con người Việt Nam có tài năng sáng tạo và năng lực thích ứng cao.

Tài năng sáng tạo của các thế hệ tiền nhân đã được thể hiện rất rõ qua những thành tựu văn hóa vật thể và phi vật thể. Ngày nay, Việt Nam là đất nước có dân số trẻ, tăng trưởng nhanh, các thế hệ mới có chỉ số thông minh cao, hiếu học, năng động, có năng lực sáng tạo tốt. Ngày càng xuất hiện nhiều tài năng trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Con người Việt Nam vốn được tôi luyện qua bao biến thiên của lịch sử, nên có khả năng thích ứng cao, giao lưu, tiếp biến văn hóa tốt và đặc biệt rất nhanh nhạy trong kết nối toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam đang có những cải thiện vượt bậc về kết cấu hạ tầng thông tin - truyền thông. Mức độ sử dụng internet, số hóa ở Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng. Đây là những tiền đề quan trọng về cơ sở khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu và truyền thông văn hóa.

Những phân tích trên cho thấy, Việt Nam đã, đang sở hữu không ít lợi thế, cơ hội và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển văn hóa theo hướng hiện đại, bền vững, hội nhập quốc tế. 

Giải pháp phát huy tài nguyên văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội bền vững

Thực tế cho thấy, văn hóa hiện diện ở các cấp độ vô cùng đa dạng, các nền văn hóa khác nhau sẽ có những cách thức khác nhau nhằm đạt được mục tiêu khác nhau trong chiến lược phát triển văn hóa. Nhưng có một mẫu số chung trên bản đồ văn hóa thế giới là những quốc gia chuyển hóa tốt nhất nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa trong mối liên kết với các trụ cột phát triển luôn là các quốc gia có những tiền đề vững chắc cho sự phát triển và hội nhập quốc tế, đồng thời có khả năng ứng phó hiệu quả trước những thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống đặt ra trong quá trình phát triển.

Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc rõ ràng đang gặp phải nhiều thách thức trong tiến trình hiện thực hóa. Nhưng thách thức cũng chính là động lực để chúng ta nỗ lực tìm ra sự kết nối logic giữa nguồn tài nguyên văn hóa dồi dào với quyết tâm chính trị đã được khẳng định tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tìm ra các giải pháp mang tính chiến lược nhằm biến văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực khơi dậy khát vọng cống hiến vì một Việt Nam phồn vinh, bền vững, tự cường, tự chủ. Với cách tiếp cận thể chế, có thể thấy, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện rõ quan điểm phát huy nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam dựa trên việc khai thác các thành tố văn hóa nằm trong các trụ cột tài nguyên văn hóa để quảng bá hình ảnh quốc gia, bản sắc dân tộc, nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập quốc tế về văn hóa, từ đó góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia. Với cách tiếp cận này, Việt Nam đang nỗ lực vận dụng, phát huy nguồn tài nguyên văn hóa phong phú, các thành tố văn hóa giàu sức hấp dẫn, thu hút, thuyết phục để chuyển hóa thành sức mạnh mềm văn hóa. Hệ thống các quan điểm, chính sách, phân tích quá trình triển khai chính sách liên quan đến phát huy sức mạnh mềm văn hóa của Việt Nam đã chỉ ra điểm mạnh của Việt Nam chính là 8 trụ cột tài nguyên sức mạnh mềm văn hóa chính: 1- Di sản văn hóa phi vật thể (sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,... như nghệ thuật truyền thống, lễ hội truyền thống, bí quyết nghề thủ công truyền thống, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống...); 2- Di sản văn hóa vật thể; 3- Di sản thiên nhiên thế giới; 4- Lễ hội mới và sự kiện văn hóa; 5- Các sản phẩm và dịch vụ thuộc ngành công nghiệp văn hóa; 6- Các giá trị và danh nhân văn hóa; 7- Văn hóa cộng đồng cơ sở; 8- Các cơ sở vật chất và không gian văn hóa. Trong quá trình triển khai, các chiến lược quốc gia về ngoại giao văn hóa, thông tin, truyền thông, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đều đưa ra các mục tiêu, giải pháp có khả năng phối hợp đồng bộ các kênh truyền dẫn chính là ngoại giao văn hóa, truyền thông và các ngành công nghiệp văn hóa trong việc chuyển hóa các thành tố sức mạnh mềm văn hóa thành hiệu ứng tạo sức thu hút, lan tỏa, hấp dẫn của văn hóa Việt Nam ra thế giới và lôi cuốn, thuyết phục thế giới đến với Việt Nam. Trên thực tiễn, các kênh này đang tạo nên chuỗi liên kết theo hướng khai thác các thành tố văn hóa nằm trong hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, các giá trị văn hóa, con người có sức hấp dẫn, thu hút và thuyết phục của Việt Nam cùng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, từ đó hướng tới việc thu hút thế giới đến với Việt Nam thông qua du lịch văn hóa và đưa sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam ra thế giới thông qua quảng bá hình ảnh quốc gia, tăng cường giao lưu văn hóa và hình thành mạng lưới các trung tâm văn hóa, các dự án giới thiệu văn hóa Việt Nam, các danh nhân Việt Nam ra thế giới, đặc biệt là đề án “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài”. Đây là cách Việt Nam học tập kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới khi đưa hình ảnh của lãnh tụ thành biểu tượng thể hiện hoài bão, tâm thế, ý chí của cả một dân tộc ra thế giới.

Trong thời gian tới, để khơi dậy, phát huy hiệu quả hơn nữa tài nguyên văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam cần thực hiện các nhóm giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” và Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ngày 24-11-2021, trước hết là ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, để văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị; văn hóa vừa là trụ cột, vừa là nền tảng phát triển xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.

Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách, khung khổ pháp lý tạo cơ chế chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. Giai đoạn 2021 - 2025 và đến năm 2030 tập trung tham mưu, đề xuất xây dựng các dự án luật, nghị định thuộc lĩnh vực văn hóa(3).

Ba là, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.

Tập trung xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bảo đảm mọi thành viên của cộng đồng được phát triển các năng lực sáng tạo. Tập trung ưu tiên xây dựng văn hóa trong chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức thượng tôn pháp luật, xây dựng văn hóa trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, văn hóa doanh nghiệp và mỗi gia đình là những đơn vị văn hóa thực chất. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố bồi đắp giá trị chân - thiện - mỹ.

Khi nhiệm vụ xây dựng văn hóa trở thành thường trực, nền tảng văn hóa được hình thành tự nhiên, tự nguyện trong mỗi cộng đồng, trong mỗi người thì khả năng chọn lọc cái tinh tế, tốt đẹp, định vị bản thân, giá trị, bản sắc dân tộc gắn với khát vọng hội nhập, cống hiến sẽ trở thành “lá chắn mềm” loại trừ cái phản cảm, phi văn hóa.

Xây dựng thể chế theo hướng gắn văn hóa với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội chính là giải pháp căn cốt để hình thành hệ sinh thái có khả năng thúc đẩy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa, tạo sự chủ động hợp tác và quảng bá các giá trị văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam ra thế giới nhằm gia tăng sức mạnh mềm văn hóa, định vị “thương hiệu quốc gia”, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, tạo dựng môi trường hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.

Bốn là, hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa, từng bước đưa công nghiệp văn hóa thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần nâng cao đời sống xã hội.

Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 với 3 trụ cột tăng cường đầu tư, đổi mới sáng tạo và đột phá thể chế nhằm phát huy vai trò của trụ cột văn hóa gắn liền với trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội theo hướng phát triển bền vững. Chú trọng đổi mới sáng tạo nhằm khuyến khích, phát huy tối đa các nguồn tài nguyên văn hóa, năng lực sáng tạo của toàn dân, đặc biệt là sức sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để ngày càng có nhiều tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị cao nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam. Tôn trọng quy luật riêng của nghệ thuật, có chính sách phù hợp nhằm khích lệ, động viên, hỗ trợ các văn nghệ sĩ trong sáng tác, sáng tạo nghệ thuật để tạo ra những tác phẩm được sống mãi với thời gian.

Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm(4) để phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, dựa trên sự sáng tạo, khoa học - công nghệ và bản quyền trí tuệ, phấn đấu đạt mục tiêu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP vào năm 2030; gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.

Năm là, phát huy hiệu quả nguồn lực đầu tư phát triển trong lĩnh vực văn hóa, bao gồm nguồn ngân sách nhà nước chi cho văn hóa, đẩy mạnh hợp tác công - tư, xây dựng cơ chế ưu đãi, miễn, giảm thuế, phí phù hợp với thực tiễn và có khả năng thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Sáu là, chủ động hội nhập, tăng cường các hoạt động hợp tác, giao lưu quốc tế, xúc tiến thương mại trong lĩnh vực văn hóa.

Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông văn hóa để quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Đa dạng hóa các sản phẩm văn hóa, các hình thức truyền thông văn hóa ra thế giới bằng tiếng nước ngoài để phù hợp với nhiều thị trường khách quốc tế khác nhau. Đổi mới và nâng cao chất lượng việc tổ chức các “Ngày Văn hóa”, “Tuần Văn hóa”, các lễ hội văn hóa - du lịch Việt Nam, các sự kiện, chương trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật ở nước ngoài. Tăng cường sự hiện diện của Việt Nam tại các sự kiện văn hóa, nghệ thuật lớn của thế giới, như EXPO, các triển lãm mỹ thuật thế giới, liên hoan phim quốc tế, như liên hoan phim Cannes, Berlin, Busan, Oscar hay Tokyo... Phát triển hệ thống các trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài tại các địa bàn trọng điểm trên thế giới; qua đó, góp phần gia tăng “sức mạnh mềm” của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế.

Văn hóa hiện diện ở các cấp độ vô cùng đa dạng, các nền văn hóa khác nhau tương tác theo những cách thức khác nhau, nếu chuyển hóa hiệu quả tài nguyên văn hóa thông qua giải pháp phù hợp sẽ tạo được sự hấp dẫn, thu hút, lôi cuốn, thuyết phục về văn hóa của một quốc gia đối với quốc gia khác trong quan hệ quốc tế. Đối với Việt Nam - một quốc gia có lợi thế về nguồn tài nguyên văn hóa sẵn có, việc sử dụng và phát huy hiệu quả nguồn lực tài nguyên văn hóa thông qua các giải pháp chính sách là một yêu cầu cần thiết trong việc khơi dậy, phát huy nguồn tài nguyên văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù, ở cả thời điểm hiện tại lẫn tương lai, việc khơi dậy, phát huy tài nguyên văn hóa Việt Nam gắn với phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều thách thức, nhưng nếu sớm thực hiện các giải pháp chính sách gắn văn hóa với kinh tế - xã hội theo hướng vận dụng và chuyển hóa tốt nhất nguồn lực văn hóa, Việt Nam sẽ khơi dậy, phát huy hiệu quả sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm văn hóa trong mối liên kết sức mạnh tổng hợp quốc gia; qua đó, ứng phó hiệu quả với những thách thức phức tạp, khó dự báo hiện nay và góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước./.

-------------------

(1) Theo số liệu của Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, 2018
(2) Theo số liệu của Trung tâm thông tin du lịch, Tổng cục Du lịch, 2015
(3) Luật Điện ảnh (sửa đổi), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi), Luật Di sản văn hóa (sửa đổi),... nhất là những lĩnh vực chuyên môn đã có đủ cơ sở về lý luận và thực tiễn để xây dựng luật, như dự án Luật Nghệ thuật biểu diễn, Luật Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm
(4) Điện ảnh, thời trang, quảng cáo, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa

Đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái của thế lực thù địch trên không gian mạng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam

 Thời gian qua, hoạt động tấn công chính trị trên không gian mạng nhằm vào Việt Nam ngày càng nguy hiểm, khó lường với những phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi. Các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối trong nước cũng triệt để sử dụng không gian mạng, chủ yếu là mạng xã hội Facebook, Youtube để phá hoại tư tưởng, từng bước triển khai âm mưu “diễn biến hoà bình” và các cuộc cách mạng màu làm thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.

Trong kỷ nguyên số, không gian mạng ngày càng trở thành mặt trận chính trong cuộc đấu tranh ý thức hệ. Với những ưu thế nổi trội so với các phương tiện truyền thông, nhất là tính siêu kết nối, tính mở, khó kiểm soát, tính nặc danh…, các phương tiện truyền thông mới bị các thế lực thù địch triệt để lợi dụng để phát tán các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch trên không gian mạng, biến thành công cụ đắc lực chống phá Đảng, Nhà nước ta. Với lượng người dùng internet cao, những thông tin xấu độc có ảnh hưởng, tác động tiêu cực rất lớn tới xã hội. Hằng ngày, có hàng nghìn tin, bài chống phá được các thế lực thù địch tung lên không gian mạng, gây nhiễu loạn thông tin, hướng lái công chúng truyền thông hiểu sai lệch, gia tăng sự bất đồng thuận, kích động những tư tưởng bất mãn, phản kháng, chống đối với Đảng, Nhà nước. Nếu chủ quan, lơ là, mất cảnh giác hoặc thiếu những giải pháp đấu tranh hữu hiệu, để những thông tin xấu độc tràn lan trên không gian mạng sẽ gây nên những hệ lụy khôn lường.

Nội dung thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch hết sức đa dạng, phức tạp, trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, xây dựng Đảng, kinh tế, văn hóa, xã hội…, trong đó tập trung tấn công vào một số nội dung cốt lõi thuộc hệ tư tưởng, đường lối của Đảng ta:

Một là, các thế lực thù địch đòi Đảng ta từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Chúng bài bác chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tập trung tấn công vào những vấn đề nguyên tắc then chốt, luận điểm cơ bản nhất, như bác bỏ chủ nghĩa duy vật lịch sử; phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta; phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội và xuyên tạc mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta… Chúng công kích, xuyên tạc nhằm “hạ bệ” tư tưởng Hồ Chí Minh bằng phủ nhận nội dung, giá trị tư tưởng của Người; cắt rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Nói xấu, bôi nhọ đời tư, hình ảnh lãnh tụ cộng sản, lãnh tụ Đảng ta. Điển hình như, ngày 27-9-2018, Tòa án nhân dân quận Thốt Nốt (thành phố Cần Thơ) đã xét xử sơ thẩm bị cáo Bùi Mạnh Đồng (“tự” Beo, 40 tuổi, ngụ quận Thốt Nốt) về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Trước đó, từ năm 2017 đến tháng 7-2018, Bùi Mạnh Đồng đã lấy hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ trên mạng internet, sau đó chèn chữ vào hình ảnh, tạo nên nội dung xuyên tạc, vu khống, nhằm bôi nhọ lãnh tụ. Qua đó, đã tiếp tay cho các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước chống phá chế độ; gây khó khăn cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Hai là, chống phá, xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện nay, nhất là đường lối đổi mới của Đảng ta. Chúng đồng nhất đổi mới chính trị với thay đổi chế độ chính trị. Phủ nhận, bôi đen những thành tựu; cường điệu, thổi phồng, khoét sâu vào những tiêu cực, khuyết tật, tạo cái nhìn đen tối, bi quan về tình hình đất nước. Một trong những thủ đoạn xảo quyệt mà chúng thường áp dụng là lợi dụng các trang mạng xã hội và các blog cá nhân để tung tin xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, vu cáo, bịa đặt, bôi nhọ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, trước những sự kiện lớn, các ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước, cấp độ, mật độ và tần suất những thông tin xấu, độc trên các trang mạng xã hội và các blog cá nhân này ngày càng gia tăng…

Ba là, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi xóa bỏ sở hữu toàn dân, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân đồng nhất với tư nhân hóa nền kinh tế, xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Cổ xúy phi chính trị hóa lực lượng vũ trang; phủ nhận bản chất cách mạng và nhân dân của lực lượng vũ trang; chia rẽ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Tán dương nền tự do báo chí tư sản, vai trò “quyền lực thứ tư” của báo chí, nhân danh tự do sáng tạo để tách sự lãnh đạo của Đảng khỏi hoạt động báo chí, văn học, nghệ thuật. Thúc đẩy hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” trá hình, từ đó cho ra đời các tổ chức đối lập chính trị ở Việt Nam. Tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá…

Thực tế, các đối tượng phản động đã thành lập rất nhiều các trang web có nội dung chống phá nhà nước ta như: Việt Tân, VOA Tiếng Việt, RFI, RFA… Với hình thức trình bày sinh động, hướng dẫn các Website đã thu hút được một lượng lớn người sử dụng Internet truy cập hằng ngày. Chúng còn lập những tài khoản giả mạo, các Website các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phương, những người có uy tín, nhân vật nổi tiếng trong xã hội…, qua đó tung tin bịa đặt, gieo rắc sự hoài nghi trong xã hội, nhất là trước những vấn đề nhạy cảm.

Không gian mạng đã và đang trở thành công cụ hành đầu để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, chuyển hoá chính trị, khủng bố. Đây thật sự là một mặt trận quan trọng và không thể buông lỏng. Đấu tranh tư tưởng trên không gian mạng hiện nay là vấn đề khách quan, nhiệm vụ trọng yếu, đòi hỏi mọi người, mọi lực lượng thực thi nhiệm vụ này trên không gian mạng phải luôn nhận thức đầy đủ những thách thức và yêu cầu của nhiệm vụ, xây dựng bản lĩnh, trách nhiệm và quyết tâm cao, góp phần giữ vững nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng trước tình hình mới. Trước thực trạng này, để nâng cao hiệu quả, góp phần tăng cường công tác đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá, luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, nhất là trên không gian mạng, cần thực hiện tốt một vài giải pháp chủ yếu sau:

Một là, bổ sung, hoàn thiện nội dung, phương thức đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái trên không gian mạng trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Lợi dụng những thành tựu của thời đại 4.0, các thế lực thù địch có những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt. Do vậy, ta không chỉ cần kiểm soát chặt chẽ về mặt nội dung mà còn phải bổ sung, hoàn thiện về hình thức, không để xuất hiện sơ hở cho thế lực thù địch lợi dụng.

Hai là, thực hiện có hiệu quả các giải pháp công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài, xử lý nghiêm các vi phạm trên không gian mạng. Với chúng ta, song hành cùng các giải pháp tăng cường đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch trên không gian mạng, thì cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp công nghệ, như: bảo vệ tốt thông tin cá nhân; kỹ thuật phát tán thông tin trên không gian mạng; kỹ thuật phân tích điều tra, ngăn chặn, bóc gỡ, khóa tài khoản của đối phương… có vị trí vô cùng quan trọng, góp phần quyết định đến thắng lợi trong đấu tranh phòng, chố ng quan điểm sai trái trên không gian mạng hiện nay.

Ba là, giáo dục các quy định của pháp luật về quản lý không gian mạng. Phổ biến các điều khoản của Bộ luật Hình sự 2015 (Mục 2, Điều 285-294) liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15-7-2013 của Chính phủ và Thông tư số 09/2014/BTTTT ngày 19/8/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông về hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội, những hành vi bị nghiêm cấm trong sử dụng mạng xã hội. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật An ninh mạng năm 2018. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 16/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng, Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 17/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đảm bảo an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới và Thông báo số 17/TB-VPTW ngày 23/8/2016 của Thường trực Ban Bí thư về biện pháp cấp bách bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng; nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai thật tốt Nghị quyết này, xem đây là sự định hướng chiến lược quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các hình thức giáo dục cần được vận dụng đa dạng, phong phú và linh hoạt như: phối hợp giữa cơ quan chức năng với các cơ quan, địa phương, đơn vị, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục tổ chức nói chuyện chuyên đề, phổ biến pháp luật; tuyên tuyền Luật An ninh mạng; các cuộc thi tìm hiểu về an toàn thông tin; góp ý xây dựng chương trình giáo dục an toàn thông tin mạng của các cơ sở giáo dục hoặc tham gia biên soạn các tài liệu liên quan đến an toàn thông tin mạng.

Đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái của thế lực thù địch trên không gian mạng hiện nay là cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt, gay gắt, lâu dài và vô cùng phức tạp. Với vai trò là lực lượng xung kích, đi đầu, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh hiệu quả, thiết thực góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình’, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch.