Thứ Năm, 2 tháng 3, 2023

Chủ động phê phán, đập tan các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở nước ta

Trước các luận điệu xuyên tạc, chống phá, vu cáo, phủ nhận thành quả dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, để tăng cường phản bác một cách hệ thống, có lý lẽ cả về lý luận và thực tiễn, cần tập trung thực hiện một số công việc sau: Một là, xem xét, nhận diện, đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện âm mưu, thủ đoạn và xác định rõ bản chất của các luận điệu xuyên tạc, nền tảng, mục tiêu, phương thức, chủ trương, công cụ chống phá của các thế lực thù địch(1). Về mặt bản chất, các luận điệu đó phản ánh cuộc đấu tranh về tư tưởng chính trị - pháp lý giữa giá trị tư tưởng XHCN và tư sản trên lĩnh vực dân chủ và nhân quyền. Đây là đặc điểm có tính bản chất chi phối trong cuộc đấu tranh này, không chỉ hiện hữu ở những đối tượng phân định rõ thành chiến tuyến địch - ta, mà còn nằm ngay trong nhận thức của mỗi người và mỗi tổ chức. Vì thế, các tầng lớp nhân dân, trước tiên là mỗi cán bộ, đảng viên đều là chủ thể đấu tranh với các thế lực thù địch trên lĩnh vực này. Trong phương thức đối thoại, đấu tranh cần coi trọng biện pháp tư tưởng chính trị, như tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức, tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và coi trọng cách thức kết hợp đối thoại với đấu tranh và ngược lại. Về nền tảng tư tưởng: Là hệ tư tưởng tư sản với nội dung cơ bản là quan niệm một cách phiến diện, có khi tuyệt đối hóa quyền cá nhân và các quyền dân sự, chính trị đến mức đồng nhất chúng với quyền con người nói chung; coi nhẹ quyền của tập thể, của dân tộc và chủ quyền quốc gia; coi nhẹ tính bình đẳng của các chủ thể quyền và các nội dung quyền, nhất là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa vốn chiếm vị trí cơ bản và là yêu cầu có tính bức thiết đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Về mặt chính trị, đây là biểu hiện của chủ nghĩa đế quốc về văn hóa, coi tư tưởng nhân quyền phương Tây mang tính phổ quát toàn nhân loại, thậm chí cao hơn chủ quyền quốc gia. Về mục tiêu và phương thức hoạt động: Tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận các giá trị lý luận - thực tiễn về dân chủ, nhân quyền để chống phá nền tảng tư tưởng XHCN ở Việt Nam. Tiến hành các hoạt động chống phá thực tiễn bảo đảm dân chủ, nhân quyền trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, dân tộc, thông tin, báo chí, truyền thông, giáo dục - đào tạo, văn hóa - nghệ thuật, tư pháp,... kể cả hợp tác quốc tế, nhằm thúc đẩy sự chệch hướng XHCN của công cuộc đổi mới ở nước ta. Tuyên truyền, ca ngợi các giá trị của nhân quyền tư sản nhằm kích động, cổ vũ việc phân hóa, chuyển hóa tư tưởng chính trị XHCN đồng thời thúc đẩy “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” sang tư tưởng nhân quyền tư sản - mà hiện nay thường được gọi là “giá trị phương Tây” - trước tiên trong nội bộ Đảng, Nhà nước. Tạo dựng “ngọn cờ” về dân chủ, nhân quyền thông qua việc tuyên truyền, ca ngợi, trao giải thưởng cho nhiều nhân vật chống đối nhằm kích động hình thành các tổ chức chính trị đối lập trong, ngoài nước và tìm cách xác lập cơ chế “đa nguyên, đa đảng” trong thực tế ở nước ta. Về chủ trương chống phá: Lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ; dùng ngoại giao, đầu tư kinh tế để hỗ trợ, hậu thuẫn. Về công cụ chống phá: Các thế lực thù địch sử dụng truyền thông đại chúng, đặc biệt là in-tơ-nét, xuất bản, báo chí ở nước ngoài, sản xuất băng, đĩa hình chuyển về trong nước; tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chuyên chống phá Việt Nam để xuyên tạc, kích động về tư tưởng, chính trị. Họ lợi dụng một số sai sót trong hoạt động quản lý của Nhà nước để xuyên tạc, kích động khiếu kiện, biểu tình trái phép. Họ tổ chức các hội thảo để xem xét lại các vấn đề liên quan đến lịch sử, tuy âm thầm nhưng tác hại lâu dài thực sự rất thâm độc. Các thế lực thù địch dùng chiêu bài “mớm lời”, “rắc thính”, kích động để gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, suy thoái về tư tưởng, chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chẳng hạn, tổ chức khủng bố “Việt Tân”, “Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam”, “Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tại Hà Lan”, “Liên hội người Việt tỵ nạn tại Đức”,... với sự phụ họa của một số cơ quan báo chí nước ngoài tập trung công kích, xuyên tạc cái gọi là: Nhân quyền gắn với xã hội tư sản, còn quyền con người là quyền tập thể gắn với CNXH. Hai là, vạch rõ tính hạn chế và mâu thuẫn của các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Thực tế cho thấy, các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở trong nước thường nhại lại những luận điệu của một số tổ chức quốc tế và một số nước phương Tây. Các luận điệu đó, như “Phúc trình Toàn cầu 2021” của HRW có hạn chế lớn là dựa trên những thông tin được thu thập theo kiểu cóp nhặt, cắt xén rời rạc, nghiên cứu không sâu nên phiến diện và xuyên tạc. Tính vô lý và mâu thuẫn của các luận điệu này là xuất phát từ ý thức hệ chính trị phương Tây, “coi nhân quyền cao hơn chủ quyền” và bị chi phối bởi nguồn kinh phí hoạt động của những cá nhân, tổ chức dân sự nước ngoài không thiện chí với Việt Nam và theo cơ chế thị trường, nên chúng mang màu sắc chính trị thực dụng, vụ lợi, nhiều khi chống đối công khai, trắng trợn và quyết liệt. Vì thế, chúng dễ gây ra phản ứng tiêu cực trong dư luận Việt Nam và cả thế giới. Ba là, các luận điệu từ phía các tổ chức quốc tế và một số nước phương Tây xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng điều ước và nguyên tắc quốc tế về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Cụ thể là vi phạm nghiêm trọng công ước và nguyên tắc quốc tế về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác theo Điều 2, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 và Nghị quyết số 2625 năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng như trong nhiều điều ước quốc tế về nhân quyền. Theo Nghị quyết số 2625: Không quốc gia nào hay nhóm quốc gia nào có quyền can thiệp, trực tiếp hay gián tiếp, vì bất kỳ lý do gì vào công việc đối nội và đối ngoại của bất kỳ quốc gia nào khác. Can thiệp vũ trang và tất cả các hình thức can thiệp hay đe dọa chống lại tư cách của quốc gia hay chống lại các đặc trưng chính trị, kinh tế và văn hóa của quốc gia đó - đều là vi phạm luật pháp quốc tế(2). Mâu thuẫn nội tại của các luận điệu đó là nhân danh nhân quyền phổ quát nhưng lại không tuân theo nguyên tắc điều chỉnh của luật nhân quyền quốc tế đối với chủ quyền quốc gia và trách nhiệm quốc gia. Chẳng hạn, theo Điều 1 của hai công ước quốc tế năm 1966 về các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như theo “Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế, điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc” (năm 1970) như: Tôn trọng chủ quyền quốc gia về lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và chính sách đối ngoại; sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia; bình đẳng chủ quyền của các quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc; không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình; các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau;.... Xuất phát từ những nguyên tắc đó, Nhà nước Việt Nam, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, quy định rõ các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam và thành viên của những cơ quan đó phải tôn trọng pháp luật và phong tục, tập quán của Việt Nam; không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam và Nhà nước Việt Nam cũng luôn và không ngừng hành xử như vậy trong quan hệ quốc tế cả quan hệ song phương và đa phương. Một yêu cầu pháp lý cơ bản của các nguyên tắc này của Liên hợp quốc là các nước, các tổ chức quốc tế có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền lãnh thổ và toàn vẹn chính trị của một quốc gia. Thế nhưng, chẳng hạn trong bản “Phúc trình nhân quyền năm 2021”, HRW vẫn cáo buộc vô căn cứ về cái gọi là “Việt Nam lo sợ dân chủ, truyền thông độc lập và các quyền tự do”. Thực tế qua những phiên tòa xét xử công khai đối với Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy hay Phạm Chí Thành, Trần Đức Thạch thì họ đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật cụ thể và việc cơ quan chức năng thi hành lệnh khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử công khai là việc làm cần thiết của một quốc gia có chủ quyền, nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm của họ gây ra đối với xã hội. Tại tòa án, những người này đều thừa nhận các kết luận của hội đồng xét xử về những tội danh của mình. Vậy mà tổ chức này vẫn tiếp tục bao che, dung túng cho những kẻ lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, sử dụng mạng xã hội vi phạm an ninh con người, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, cổ xúy tuyên truyền cho những hành động chống phá đất nước và con người Việt Nam. Nhiều luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam nhất mực xuất phát từ lăng kính ý thức hệ chính trị phương Tây để cho rằng, “những vụ bắt xử lý nói trên là để bảo đảm Đại hội Đảng lần thứ XIII diễn ra suôn sẻ và không bị các tiếng nói bất đồng chống đối” thì chúng tự mâu thuẫn với nguyên tắc pháp quyền mà họ rao giảng. Tại Việt Nam, để thực thi công lý, không phải đợi đến thời gian gần Đại hội Đảng, mà bất kỳ ai vi phạm pháp luật hình sự, có hoạt động chống phá đất nước, đều bị cơ quan bảo vệ pháp luật truy tố, điều tra, xét xử công khai, nghiêm minh tại tòa án theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Bốn là, các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền không phản ánh đúng thực tế khách quan về tình hình nhân quyền của Việt Nam. Nguyên nhân cơ bản của hạn chế và mâu thuẫn trong các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là nhân danh nhân quyền phổ quát toàn cầu với cách tiếp cận mang đẫm màu sắc ý thức hệ chính trị của phương Tây cùng hành động thực dụng và động cơ chống đối công cuộc đổi mới ở nước ta. Trái với những luận điệu cáo buộc ngụy biện, trơ trẽn đó, thực tế Việt Nam đã và đang chứng thực sinh động sự tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy dân chủ, nhân quyền trong điều kiện tác động của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Trong năm 2020, 2021 ngay trong khi đại dịch COVID-19 hoành hành trên thế giới và ở Việt Nam, hàng loạt chính sách an ninh con người, an sinh xã hội được Chính phủ Việt Nam ban hành nhằm bảo đảm an ninh lương thực và ổn định cuộc sống tối thiểu cho người dân, đặc biệt là người nghèo. Chẳng hạn như gói hỗ trợ 26.000 tỷ đồng(3) là giải pháp cấp bách, kịp thời, không chỉ giảm thiểu tối đa tác động của đại dịch COVID-19 đối với quyền sống, quyền được chăm sóc y tế và mưu sinh của người dân, mà còn một lần nữa khẳng định mạnh mẽ tinh thần “đặt lợi ích của người dân lên trên hết”. Trong hoàn cảnh khó khăn của dịch bệnh và thiên tai, những chính sách hỗ trợ trực tiếp, kịp thời đối với người dân là nền tảng để bảo vệ các quyền con người, đồng thời cho thấy nỗ lực và quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy dân chủ, nhân quyền.

Đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hiện nay

Các đối tượng thù địch xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hiện nay gồm: lực lượng cực hữu, một số nghị sĩ cực đoan tại một số nước phương Tây, các nhóm phản động người Việt Nam ở nước ngoài và những cá nhân người Việt ở trong nước bị các thế lực cực hữu nước ngoài mua chuộc, lợi dụng, núp bóng “ngọn cờ dân chủ”, “nhân quyền” chống phá nền tảng tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội tại Việt Nam. Một số tổ chức phi chính phủ quốc tế, như Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá quốc tế (AI), Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF), Tổ chức Ngôi nhà Tự do (FH)... thường xuyên vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam, bằng việc ra bản phúc trình hằng năm về nhân quyền. Tham dự vào lực lượng này còn có những người theo các trào lưu tư tưởng và đường lối chính trị trái ngược với giá trị của chủ nghĩa xã hội tại các nước phương Tây và những người cơ hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng, chính trị tại Việt Nam. Hiện nay, cuộc đấu tranh về ý thức hệ giữa chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa tư bản không chỉ diễn ra trên phạm vi thế giới, mà ngay tại Việt Nam. Đây thực chất là những đối tượng “giấu mặt” đóng vai “phái giữa” nên có sức nguy hại rất lớn, vì họ “đánh từ trong đánh ra” theo kiểu “người của ta”, gián tiếp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hòng làm “chệch hướng” nền tảng tư tưởng của Đảng ngay từ trong nội bộ. Luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch thường tập trung chính vào một số lĩnh vực: Thứ nhất, phủ nhận thành tựu, thực tiễn về các giá trị lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng về dân chủ, nhân quyền; lợi dụng các hiệp định, dự án hợp tác với nước ngoài, nhằm phá hoại và làm chệch định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thứ hai, kích động vấn đề dân tộc thiểu số và xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo, như Việt Nam có “hai chính sách tôn giáo”: Chính sách bảo đảm trên hình thức và “chính sách” không bảo vệ, không bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong thực tế thông qua “cơ chế xin - cho” và tạo lập các “tôn giáo quốc doanh”; chỉ trích các văn bản, chính sách, pháp luật về tôn giáo và lợi dụng các vụ việc và việc Nhà nước xử lý các đối tượng, vụ việc phức tạp liên quan tới tôn giáo để xuyên tạc, vu cáo. Các thế lực phản động xuyên tạc rằng: nhiều văn bản pháp luật Việt Nam về dân tộc không tương đồng với các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thứ ba, phê phán, xuyên tạc Nhà nước Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, tự do hội họp. Chỉ trích chính quyền “trì hoãn” việc ban hành Luật Biểu tình để tiếp tục dung túng bạo lực, đàn áp, bắt giam những nhà hoạt động nhân quyền, có ý kiến “phản biện” Đảng, Nhà nước. Hơn thế, chúng còn kích động khuynh hướng cực đoan nhằm “hạ bệ thần tượng”, đòi “giải thiêng” các giá trị lịch sử dân tộc, phủ nhận thành quả cách mạng, bôi nhọ, xúc phạm lãnh tụ và lãnh đạo Đảng, Nhà nước; đòi khơi thông dòng văn chương của những cây bút chống cộng trước năm 1975. Thành lập nhóm thơ tục, thơ rác, thơ bụi để “đẩy thơ vào ngõ cụt” nhằm thúc đẩy “lề trái” (phi chính thức) thay thế “lề phải” (chính thống), tạo tiền đề cho việc chuyển sang hệ tư tưởng tư sản, không chỉ trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền. Thứ tư, xuyên tạc cái gọi là “việc áp dụng một cách bất công Bộ luật Hình sự”, nhất là các Điều 19, 79, 87, 88 và 258 của Bộ luật Hình sự năm 1999, kể cả khi Bộ luật này đã được sửa đổi năm 2015, 2017. Các luận điệu xuyên tạc Việt Nam có chính sách hai mặt trong việc giam giữ tù nhân chính trị: Công khai thì khép vào tội “vi phạm luật pháp” nhưng thực tế là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị”; hay các luận điệu xuyên tạc về sử dụng cách tra tấn, bức cung, nhục hình đối với những người bị tạm giữ, tạm giam; phân biệt đối xử giữa tù nhân chính trị với tù nhân khác, ngăn cản thân nhân vào thăm; bắt giữ và xét xử tùy tiện; duy trì án tử hình; cáo buộc tình trạng đàn áp, ngăn chặn, cản trở hoạt động của luật sư;.... Thứ năm, xuyên tạc, kích động trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo, văn hóa - nghệ thuật, đạo đức, lối sống. Ngoài việc triệt để lợi dụng “con bài” tôn giáo, dân tộc, các quỹ, trường đại học theo tư tưởng cánh hữu, chống cộng ưu tiên cấp học bổng để thu hút học sinh, sinh viên tham gia tìm hiểu “nền dân chủ đa nguyên”, “nghiên cứu nhân quyền”, đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức hội, nhóm tôn giáo... nhằm “thay máu” giới trẻ. Đặc biệt, chúng tăng cường tung “tin giả” đủ loại với sự phụ họa một cách có chủ ý hoặc vô ý thức của truyền thông đại chúng theo cơ chế thị trường và dựa trên nền tảng in-tơ-nét, nhằm phá hoại kỷ cương, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy sự suy đồi, rối loạn tư tưởng, đạo đức, lối sống trong xã hội. Thứ sáu, xâm nhập, kích động nhằm thúc đẩy “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” sang tư tưởng nhân quyền tư sản. Đồng thời, các thế lực thù địch tăng cường tác động “từ bên ngoài”, như đòi Nhà nước Việt Nam phải đáp ứng ngay tiêu chuẩn về các quyền dân sự, chính trị (tự do lập hội, tự do xuất bản báo chí tư nhân, hoạt động tôn giáo không cần sự quản lý của Nhà nước,...) tương tự các quốc gia phát triển phương Tây. Họ gắn dân chủ, nhân quyền với các vấn đề hợp tác phát triển về dân chủ, tôn giáo, tiếp cận thông tin, và các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp,... đặc biệt đòi dân sự hóa hoạt động lĩnh vực quốc phòng, an ninh, nhằm thúc đẩy phát triển tối đa cái gọi là xã hội dân sự theo kiểu phương Tây. Họ móc nối và tìm cách mua chuộc bằng tiền, hiện vật có giá trị để làm thay đổi tư tưởng, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một số cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược và cơ quan trọng yếu nhằm thay đổi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo hướng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, làm chệch hướng XHCN trong bảo đảm dân chủ, nhân quyền và quá trình đổi mới đất nước nói chung. Thứ bảy, kích động các cá nhân, tổ chức trong nước tổ chức bạo động, bạo loạn và nhờ nước ngoài can thiệp, quốc tế hóa vấn đề để mưu toan gây mất uy tín cho Việt Nam. Thí dụ, trong UPR chu kỳ I (2009), II (2014) và III (2019), một số tổ chức phi chính phủ thù địch người Việt và người nước ngoài có quy chế quan sát viên tại Hội đồng Kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC), như Ủy ban bảo vệ quyền con người cho người Việt Nam - VCHR, Tổ chức Đảng cấp tiến xuyên quốc gia - TRP,... lợi dụng diễn đàn của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc vu cáo Việt Nam vi phạm quyền con người. Tăng cường trao giải cho các đối tượng chống đối để tạo dựng “ngọn cờ” chống phá Nhà nước Việt Nam. Thông qua những “ngọn cờ” này, họ kích động, lôi cuốn, tập hợp và phát triển lực lượng chính trị đối lập theo kiểu “đa nguyên, đa đảng” ở nước ta. Chẳng hạn một biểu hiện cho những luận điệu, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là những báo cáo của chính quyền Mỹ (Báo cáo về tự do tôn giáo, về buôn người và về nhân quyền) và của một số tổ chức quốc tế, nhất là của HRW. Ngày 13-1-2021, HRW công bố Báo cáo hằng năm với tiêu đề: “Phúc trình Toàn cầu 2021”, dài 761 trang, về đánh giá việc thực hành nhân quyền tại hơn 100 quốc gia. Trong đó bản phúc trình này phê phán Việt Nam trong năm 2020 “tiếp tục vi phạm các quyền dân sự và chính trị cơ bản một cách có hệ thống”, qua việc siết chặt quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội, tự do tôn giáo, chặn truy cập nhiều trang mạng, gây sức ép buộc các công ty viễn thông phải gỡ bỏ các nội dung phê phán Đảng Cộng sản và chính quyền... Thực tế thì đây không phải là lần đầu tiên HRW đưa ra những thông tin sai trái như vậy để công khai chỉ trích Việt Nam và nhiều quốc gia có chủ quyền khác.

Luận điệu xuyên tạc việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, công an

Có bài viết chỉ trích, hiện nay, trong khi các nước quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì “chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi nghĩa vụ quân sự, Công an”. Một số trang web còn đăng tải các cảnh bạo lực trong quân đội nước ngoài, cảnh quân đội tham chiến ở một số khu vực trên thế giới rồi cài lời bình xuyên tạc là “chuyện ở trong quân ngũ Việt Nam Nguy hiểm hơn, có những hình ảnh, video được cắt ghép, dàn dựng để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội, Công an nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề. Tung tin thất thiệt về cảnh bạo lực hay “cái chết oan ức” rồi đưa ra những câu hỏi khả nghi, cho rằng “có sự lấp liếm, giấu nhẹm”! Mục đích của họ là nhằm bôi nhọ hình ảnh, bản chất, truyền thống, uy tín của lực lượng Công an, Quân đội, gây ngờ vực trong nhân dân. Từ đó, tạo luồng tư tưởng khiến cho thanh niên nhập ngũ “tự diễn biến”, buông lỏng về trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân với Tổ quốc, làm người dân hoang mang, không muốn cho con em mình thực hiện nghĩa vụ quân sự, Công an. Đó còn là mưu đồ hòng gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội khi các đối tượng phản động kích động người dân biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc… Thực tiễn lịch sử cho thấy, dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc, đó chính là truyền thống quý báu của tổ tiên ta. Ðảng ta đã vận dụng, phát triển thành hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam đã có chính sách “ngụ binh ư nông”. Chính sách này ra đời trong bối cảnh một đất nước đất không rộng, người không đông, lại thường bị các thế lực nước ngoài xâm lược. Chính sách “ngụ binh ư nông” là sự kết hợp nhiệm vụ duy trì lực lượng quốc phòng với sản xuất, sẵn sàng chuyển hóa lực lượng quân sự từ sản xuất sang chiến đấu khi cần thiết và ngược lại, chuyển lực lượng chiến đấu về sản xuất trong thời bình. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ hiểu theo nghĩa hẹp là bảo vệ bên ngoài biên giới, lãnh thổ, mà cần hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả bên trong. Không chỉ chiến đấu bảo vệ khi có kẻ thù xâm lược mà phải tổ chức phòng thủ, phòng ngừa từ trước, từ sớm, từ xa; chủ động chuẩn bị về mọi mặt, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… ngay từ thời bình. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” (Điều 45, Chương II) và “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sự nghiệp của toàn dân… Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh” (Điều 64, Chương IV). Thể chế hóa Hiến pháp, Luật Nghĩa vụ quân sự và Luật CAND quy định rõ việc công dân tham gia nghĩa vụ quân sự, Công an. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó QĐND và CAND là nòng cốt”. Chính sách và chiến lược quốc phòng của Đảng ta là tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc… Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Thực hiện nghĩa vụ quân sự, Công an không chỉ đơn thuần là chấp hành pháp luật của Nhà nước, đó còn là nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của công dân đối với dân tộc, với Tổ quốc. Lịch sử minh chứng, dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành quy luật trường tồn của dân tộc ta. Biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, ý chí “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong lên đường chiến đấu, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất. Ngày nay, trong thời bình, ổn định và hợp tác quốc tế, hình ảnh chiến sĩ Quân đội, Công an lại càng sống động hơn khi sát cánh cùng nhân dân vượt qua thiên tai, dịch bệnh để bảo vệ tính mạng, tài sản của người dân. Các chiến sĩ bộ đội, Công an đồng hành cùng người dân ở những khu vực biên giới, núi cao, vùng sâu vùng xa trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xóa đói nghèo, lạc hậu, chung tay xây dựng nông thôn mới… Các nước trên thế giới cũng đều có những quy định về nghĩa vụ quân sự, tuỳ từng điều kiện cụ thể mỗi nước. Tại Thụy Sĩ, luật pháp nước này quy định tất cả đàn ông từ 19 đến 26 tuổi đều phải đăng ký nhập ngũ và phục vụ trong quân đội ít nhất 260 ngày, trong đó có 18 tuần huấn luyện và 7 lần gọi tái nhập ngũ, mỗi lần kéo dài 3 tuần trong suốt 10 năm tiếp theo. Tuy nhiên, họ có thể chọn phục vụ cộng đồng 390 ngày thay vì thi hành nghĩa vụ quân sự. Đối với Hàn Quốc, là một trong những nước có luật nghĩa vụ quân sự nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Gần như tất cả các nam công dân tuổi từ 18-35 của nước này đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự trong khoảng thời gian 21 tháng. Không một ai được miễn trừ dù là người có địa vị cao hay nhân vật của công chúng như diễn viên, ca sĩ nổi tiếng. Hiến pháp Hàn Quốc quy định rõ, việc tôn trọng lệnh nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ quân sự là trách nhiệm và nghĩa vụ bắt buộc đối với toàn bộ các công dân nam có đủ sức khỏe. Những trường hợp được miễn giảm chủ yếu có vấn đề về sức khỏe, tàn tật, tâm thần, mắc bệnh truyền nhiễm và không có khả năng lao động. Những ai đủ tiêu chuẩn mà từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự thì sẽ bị phạt tù. Tại quốc gia Đông Nam Á Singapore, nghĩa vụ quân sự được biết đến với tên nghĩa vụ quốc gia (NS), là nghĩa vụ bắt buộc mà mọi công dân nam phải thực hiện khi đủ 18 tuổi. Công dân đi nghĩa vụ quân sự có thể phục vụ trong lực lượng Vũ trang Singapore (SAF), lực lượng Phòng vệ dân sự Singapore (SCDF) hoặc lực lượng Cảnh sát Singapore (SPF). Theo quy định của đảo quốc, tất cả những người vi phạm nghĩa vụ quốc gia đều phải đối mặt án phạt tiền tới 10.000 đô la Singapore, án tù với thời hạn không quá ba năm hoặc cả hai. Ở Thái Lan, nghĩa vụ quân sự bắt đầu được thực hiện vào năm 1905. Theo Hiến pháp Thái Lan, việc phục vụ trong lực lượng vũ trang được coi là nghĩa vụ quốc gia của công dân Thái Lan. Trên thực tế, chỉ những nam giới trên 21 tuổi chưa trải qua khóa huấn luyện dự bị mới phải nhập ngũ. Theo quy định của pháp luật Trung Quốc thì nghĩa vụ quân sự được coi là nghĩa vụ bắt buộc. Tuy nhiên trên thực tế, do dân số đông, nguồn nhân lực cho quân đội dồi dào nên gần như quy định này được thực hiện theo cách tự nguyện. Công dân Trung Quốc không phân biệt nam hay nữ đều phải tham gia khoá huấn luyện quân sự kéo dài 20 ngày, là một phần của hệ thống giáo dục. “Đó là nhiệm vụ thiêng liêng của mọi công dân Trung Quốc để bảo vệ quê hương, chống lại kẻ thù xâm lược. Đó còn là sự tự hào được phục vụ, đứng trong hàng ngũ quân đội” – Điều 55, Hiến pháp Trung Quốc quy định. Như vậy, tùy theo tình hình chính trị, quân sự của mỗi nước, chế độ nghĩa vụ quân sự được thực hiện một cách phù hợp chứ không phải như luận điệu của các thế lực xấu cho rằng, chỉ Việt Nam đưa ra quy định nghĩa vụ quân sự, Công an nhằm “o ép người dân”. Hiện nay, bên cạnh các nước thực hiện quy định nghĩa vụ quân sự bắt buộc thì một số nước châu Âu cùng với Hoa Kỳ đã không còn duy trì hình thức nghĩa vụ quân sự mà hướng tới xây dựng quân đội gồm hoàn toàn các quân nhân chuyên nghiệp, tự nguyện phục vụ trong quân đội. Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng, cao quý nhất của mỗi công dân. Lên đường làm nghĩa vụ quân sự không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm, mà trên hết đó còn là niềm tự hào của tuổi trẻ và trách nhiệm của thanh niên Việt Nam để góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Được sống trong hòa bình, độc lập, tự do mà ai đó nếu chỉ biết đến vun vén, hưởng thụ cho bản thân, nghe theo luận điệu xấu rồi thoái thác, trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm công dân tham gia bảo vệ Tổ quốc thì không những vi phạm pháp luật mà còn có tội với các thế hệ ông cha, với truyền thống lịch sử dân tộc.

Thủ đoạn lợi dụng ChatGPT để xuyên tạc, chống phá

Dùng ngay ChatGPT đặt những câu hỏi về Bác và Đảng” là những bài đăng gần đây được các trang mạng của các tổ chức như Đài Á châu Tự do, BBC News Tiếng Việt, Việt Tân… liên tiếp đăng tải, chia sẻ với mục đích dắt mũi dư luận, hướng lái người dân hiểu sai về Đảng, về hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những câu hỏi được chúng cố tình đặt ra để hỏi ChatGPT như: “Ai là cha già dân tộc của chúng ta?”; “Ai sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta?”; “Ai đã cho ta một mùa Xuân đầy ước vọng?”… Với những câu hỏi bị thêm, bớt câu từ hay thiếu địa danh như trên thì câu trả lời của “trí tuệ nhân tạo” ChatGPT đưa ra thường là: “Không có người được chỉ định là cha già dân tộc Việt Nam”; “Không có ai sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”; “Không có một người hoặc tổ chức nào cung cấp cho chúng ta một mùa Xuân đầy ước vọng”… Từ đó, các thế lực thù địch tuyên truyền rằng, ChatGPT là trí tuệ, hiện đại nên đã đưa ra những câu trả lời khách quan, chính xác và “cần phải tin ChatGPT trả lời quá đúng”! Các đối tượng cũng thừa cơ viết bài miệt thị, nói rằng ở Việt Nam không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền tự do báo chí, người dân không dám bày tỏ quan điểm của mình mà phải bắt buộc sử dụng các nguồn dữ liệu duy nhất của Việt Nam đang quy định. Trong các trang viết lịch sử, thước phim quay về Bác, Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ tự nhận mình là “Cha già dân tộc” mà nhân dân vì kính yêu Bác đã trìu mến gọi Bác là “Cha già dân tộc”. Hình tượng “người Cha” của Bác đã đi vào thi ca, âm nhạc, vào văn hóa dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu viết: “Người là Cha, là Bác, là Anh/ Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ” (Sáng tháng Năm) hay “Người Cha mái tóc bạc/ Đốt lửa cho anh nằm” (Đêm nay Bác không ngủ – Minh Huệ)… “Vị Cha già dân tộc” trở thành cái tên thể hiện sự kính trọng, đi vào trong tâm thức mà nhân dân Việt Nam nói về Bác. Cũng giống như hình tượng ẩn dụ Đảng chính là mùa xuân của đất nước, thể hiện niềm tin và hy vọng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tương lai của đất nước. Rõ ràng, với những câu hỏi mang tính so sánh, ẩn dụ nghệ thuật, tính văn hóa hay những cảm xúc trong thơ ca, văn chương như vậy, “trí tuệ nhân tạo” như ChatGPT chưa đủ dữ kiện, tài liệu đối chứng để trả lời. ChatGPT nhiều khi trả lời có tính ngẫu nhiên như toán học, mang tính lập trình mà không thể trả lời được chính xác, đầy đủ dưới góc độ văn học, văn hóa, tư tưởng. Chưa kể, đặt câu hỏi “của chúng ta” mà không ghi rõ ở đâu thì ChatGPT cũng không “định vị” được là ở nước nào để đảm bảo rằng câu trả lời chuẩn xác nhưng các đối tượng lại dựa vào phần trả lời để áp đặt đó là ChatGPT nói về Việt Nam. Vì thế, nó vẫn không thể thay thế con người trong việc tư duy, sáng tạo và đưa ra những nội dung chính xác. Điều đáng nói là những bài viết bằng cách đưa ra câu hỏi đáp với ChatGPT dạng này đã lôi kéo các thành phần xấu vào bình luận, chia sẻ, một số tài khoản cá nhân người dùng còn sử dụng những hình ảnh mang tính chất giải trí, đùa cợt mà không nhận thức hành động đó đã tiếp tay cho các thế lực xấu. Gần đây tổ chức khủng bố, phản động Việt Tân còn tung ra thông tin thất thiệt, sai trái về thân thế, sự nghiệp để bôi lem, hạ bệ uy tín, hình ảnh của Bác, cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải biết nhiều ngoại ngữ mà Bác chỉ thuộc… 29 chữ cái tiếng Việt, từ đó chúng rêu rao rằng, đây là cách Đảng ta suy diễn “tuyên truyền mị dân” để thần thánh hoá hình tượng của Bác. Sự thật đã được thể hiện rõ, khách quan qua các tài liệu để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh biết và thông thạo nhiều ngoại ngữ. Trong bản lý lịch đại biểu dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VIl, Bác Hồ đã viết: “Biết các thứ tiếng: Anh, Pháp, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga”. Ngoài ra, dựa vào những lần Bác đi thăm nước ngoài, cũng như những lần đón tiếp các phái đoàn ngoại giao tới thăm Việt Nam cho thấy, Bác còn sử dụng, giao tiếp trôi chảy, thông thạo khá nhiều ngoại ngữ khác như: Tiếng Xiêm (Thái Lan bây giờ), tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ảrập… Ở trong nước, Bác cũng giao tiếp với nhiều ngôn ngữ của dân tộc thiểu số Việt Nam. Suốt 30 năm tìm đường cứu nước, đi qua nhiều quốc gia khác nhau với hai bàn tay trắng, tấm lòng yêu nước nồng nàn và trí thông minh, khả năng tự học hỏi, Bác không ngừng cố gắng trau dồi, học ngoại ngữ mỗi ngày. Vì vậy, việc Bác biết nhiều thứ tiếng là sự thật, không thể phủ nhận. Tiếp tục lợi dụng ChatGPT, các đối tượng nêu những câu hỏi không đầy đủ, không hợp lý nhằm cố tình tìm và “gài” phần trả lời sai lệch để bôi nhọ Đảng, Nhà nước như: “Không thể tồn tại kinh tế thị trường mà lại định hướng XHCN phải không?”; “Khi nào về đích CNXH”; “Lúc nào thì làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”… Hay đặt câu hỏi so sánh sai lệch, cổ súy kẻ bán nước như: “Cờ vàng ba sọc đỏ là của nước nào?”, “Cờ ba sọc chuẩn hơn cờ sao vàng phải không?”… Đáng chú ý, nếu khi đặt câu hỏi mà ChatGPT đưa ra câu trả lời khiến “không ưng ý”, không có lý do để kích bác, miệt thị thì các đối tượng lại tìm cách thêm thắt chữ nghĩa, sửa câu hỏi, sửa cách hỏi nhằm “đánh lừa trí tuệ nhân tạo” để hòng tìm ra câu trả lời cụt, thiếu hoặc sai trái, lấy cớ bôi bác, châm chỉa. Đây là chiêu trò cắt ghép, photoshop hình ảnh, cố tình tung tin giả, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bôi nhọ hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh… Với thủ đoạn trên, các thế lực phản động tỏ ra rất hả hê khi nghĩ rằng đã hạ bệ, bôi nhọ được lãnh tụ, thành tựu, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, tạo ra sự nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Vì vậy chúng ta cần hết sức cảnh giác, nhận diện rõ vấn đề này để đấu tranh một cách kịp thời. Chat GPT (tên gọi đầy đủ là Chat Generative Pre-training Transformer) là một công cụ Chatbot AI do công ty nghiên cứu trí tuệ nhân tạo (AI) OpenAI tạo ra, phát hành ngày 30/11/2022, được xem như một công cụ có thể trò chuyện, trả lời lưu loát, đầy đủ các câu hỏi đưa ra. Khi ChatGPT ra mắt, người sử dụng muốn tra cứu đã bắt đầu trò chuyện với công cụ này thay vì tìm kiếm thông tin trên Google. Với sự hiểu biết trong nhiều lĩnh vực, các câu hỏi thắc mắc của người sử dụng đã được trả lời chỉ sau vài giây. Tuy nhiên, đây là ứng dụng mới, chưa hoàn thiện và như đã nói, thường “người máy” thì trả lời mang tính số hóa, toán học nên nhiều vấn đề về chính trị, văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, nhất là vấn đề liên quan văn hóa từng dân tộc thì không thể dựa theo ChatGPT. Chưa kể, câu trả lời sẽ khác nhau khi cùng nội dung hỏi nhưng cách hỏi, đặt câu khác nhau, thủ thuật hỏi nhằm “đánh lừa” ChatGPT. Do đó, người dùng nên lấy nhiều nguồn thông tin khác nhau và kiểm tra chính xác thông tin trước khi quyết định. Hiện nay, trí tuệ nhân tạo thông minh này đang thu hút rất nhiều người dùng trên thế giới quan tâm và sử dụng bởi những tiện ích và thuận lợi mà ứng dụng này mang lại. Ứng dụng được phát minh, sáng chế ra là để phục vụ cuộc sống con người tốt đẹp. Tuy nhiên, lợi dụng sức hút của ứng dụng ChatGPT, các tổ chức, thế lực xấu đã biến “trí tuệ nhân tạo” trở thành công cụ để lan truyền những thông tin sai lệch, thực hiện cho mục đích chính trị chống phá đất nước, bôi xấu lãnh tụ dân tộc, lãnh đạo. Đây là những thủ đoạn cần phải lên án để tránh gây những ảnh hưởng đến người dùng, gây ra những suy nghĩ xấu, những thông tin không đúng sự thật. Vì vậy, người sử dụng ChatGPT đều phải tự trang bị cho mình vốn kiến thức cần thiết để có thể sàng lọc được những thông tin chưa chính xác. Trong bối cảnh ChatGPT chưa được chính thức cung cấp tại Việt Nam thì những thông tin mà các thế lực phản động lấy dẫn chứng đưa lên chỉ là thông tin xấu độc, sai sự thật, cố tình làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và văn hóa trên không gian mạng.

Thứ Tư, 1 tháng 3, 2023

Cần đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII đã chỉ ra

Chưa bao giờ các thế lực thù địch thôi ngừng chống phá, công kích chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục tiêu của các thế lực thù địch là muốn gây nhiễu và tạo những khoảng trống ý thức hệ trong cán bộ, đảng viên, kích động, thúc đẩy quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" hòng làm lung lạc niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Về những âm mưu, chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch chống phá Đảng và Nhà nước ta như: lợi dụng triệt để sự phát triển của in-tơ-nét, mạng xã hội nhằm tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu độc, bịa đặt, thật giả lẫn lộn hòng gây nhiễu loạn thông tin, gieo rắc tư tưởng hoài nghi làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, cố gắng công kích, bôi bác chủ nghĩa xã hội, ngợi ca một chiều chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xuyên tạc về những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau 35 năm đổi mới. Tiếp tục âm mưu “diễn biến hòa bình” mà chúng đã thực hiện hàng chục thập niên nay. Đó là đẩy mạnh phá hoại từ bên trong, tạo mâu thuẫn chia rẽ nội bộ, đặc biệt là phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự gắn bó của Nhân dân với Đảng. Và khi có thời cơ, chúng sẽ kích động người dân biểu tình, bạo loạn, gây bất ổn chính trị, tạo ra những cuộc cách mạng đường phố hay còn gọi là "cách mạng màu" để lật đổ chính quyền. Chúng đưa ra các “kiến nghị” nhằm hướng lái dư luận theo ý đồ xấu của chúng; triệt để lợi dụng tâm lý hiếu kỳ của một số người dân, tung ra những thông tin lập lờ giữa đúng và sai để gây hoài nghi cho nhân dân; cổ xúy cho cái gọi là “nhận thức đa chiều” hay “nhìn nhận đa chiều” để bới móc, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trước tình hình đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong thời gian tới, đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền và mỗi cán bộ, đảng viên cần phải: Thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nhất là nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, tự giác nêu gương để khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiền phong, gương mẫu, trên trước dưới sau, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới đã xác định rõ, một trong những nhiệm vụ, giải pháp được đề ra là: Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đảng lãnh đạo bằng tấm gương của đội ngũ đảng viên là sự lãnh đạo bền vững nhất, thuyết phục nhất trong suốt quá trình ra đời đến nay, đặc biệt là những tấm gương hy sinh của đảng viên trong cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày nay khi Đảng cầm quyền, tấm gương liêm khiết, tận tụy phục vụ nhân dân của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là trong các cơ quan nhà nước vẫn là yếu tố có sức thuyết phục cao nhất tạo nên uy tín của Đảng. Vì vậy, tổ chức đảng, đảng viên vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực tế thời gian qua cho thấy, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, căn bệnh "nói nhiều làm ít, nói hay làm dở" vẫn tồn tại đã góp phần làm giảm lòng tin của nhân dân, làm tích tụ trong họ những bất mãn, hoài nghi không đáng có đối với sự lãnh đạo của Đảng. Để khắc phục và đẩy lùi căn bệnh này, cần phải có những biện pháp mạnh mẽ và quyết liệt trong đó có nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng bằng hành động nêu gương theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII đã chỉ ra. Để cán bộ, đảng viên luôn thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, thực hành nêu gương, nói đi đôi với làm, khắc phục bệnh kinh nghiệm, thì trước hết họ cần phải khắc phục bệnh kém về lý luận, bệnh coi khinh lý luận. Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Hơn bao giờ hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên không những cần phải thấm nhuần về nhận thức mà còn phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nêu gương tốt để “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu” nhằm lãnh đạo Nhân dân, phục vụ Nhân dân.

Chúng ta phải có nhận thức đúng đắn về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng ta hiện nay

Những năm gần đây, những hiện tượng cán bộ, đảng viên sa sút phẩm chất, thoái hóa, hư hỏng có chiều hướng tăng lên và ngày càng nghiêm trọng. Qua những vụ kỷ luật công bố gần đây trên báo chí cũng thấy rõ điều đó. Không ít đảng viên vào Đảng không phải để phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng, cho hạnh phúc của nhân dân, mà là để mưu cầu danh lợi. Xét cho cùng, nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế nêu trên là do một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc tính chất nghiêm trọng của tình hình tham nhũng ở địa phương, cơ quan, đơn vị, lĩnh vực mình quản lý; chưa thực sự gương mẫu, quyết liệt, nói chưa đi đôi với làm; thiếu bản lĩnh, dĩ hòa vi quý, nể nang, né tránh, thậm chí còn bao che cho người vi phạm. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thậm chí suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Cơ chế kiểm soát quyền lực, công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm đúng mức; luật pháp, cơ chế, chính sách còn nhiều kẽ hở, dễ bị lợi dụng; việc thực thi pháp luật nói chung và các quy định của Đảng, Nhà nước về phòng, chống tham nhũng nói riêng ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa nghiêm. Tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn, phương tiện, điều kiện làm việc của các cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng vẫn còn hạn chế, bất cập; năng lực, trình độ của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu; thậm chí có trường hợp còn sa vào suy thoái, mắc vào tiêu cực, tay đã nhúng chàm, không dám đấu tranh hoặc tiếp tục tiếp tay cho tham nhũng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ: “Trước đây chỉ nói “chống tham nhũng, lãng phí’; điều đó không sai; nhưng dẫu sao lãng phí cũng chỉ là một việc cụ thể; còn tiêu cực có nội dung và phạm vi rộng hơn, căn cốt hơn, nhất là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đây mới là cái gốc, cái nguy hiểm nhất, dẫn đến tham nhũng, hư hỏng; không chỉ làm mất tiền, mất của, mà còn mất người, thậm chí mất cả chế độ”.Tổng Bí thư nhấn mạnh: Hàng loạt cán bộ cấp cao, sĩ quan cấp tướng, tá bị khởi tố trong các vụ án vừa qua là tại ai, tại cái gì? Tại cơ chế hay tại mình không chịu tu dưỡng, rèn luyện? Đây là bài học rất đau xót, cho nên mọi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn tự soi, tự sửa, giữ gìn phẩm chất đạo đức, đừng vướng vào những chuyện tiêu cực, bất luận hoàn cảnh nào cũng không động lòng tham, không ham hố vật chất, quyền lực; danh dự mới là điều thiêng liêng cao quý nhất, tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Nếu ai chẳng may đã “nhúng chàm” thì cần tự giác báo cáo với tổ chức, chủ động khắc phục hậu quả gây ra để được khoan hồng. Kể từ sau khi thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng chống tham nhũng đến nay, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự “đã trở thành phong trào, xu thế”, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được quốc tế ghi nhận. Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Theo kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành mới đây, tuyệt đại đa số ý kiến người dân (93%) bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; khiến cho mọi sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch đều trở nên trơ trẽn, nực cười. Đó là thành công lớn trong công tác phòng, chống tham nhũng của chúng ta. Chống lại những quan điểm cho rằng: Nếu quá tập trung vào chống tham nhũng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng sẽ làm giảm sự đổi mới, sáng tạo, làm “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung và làm “chậm” sự phát triển đất nước, mà ngược lại, chính nhờ làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Do vậy, nhận diện và làm rõ nguồn gốc của tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên chính là hướng đến mục tiêu quan trọng có ý nghĩa quyết định là: Nhận thức phải chín; tư tưởng phải thông; quyết tâm phải lớn, và phương pháp phải đúng; góp phần từng bước làm chuyển biến tình hình, thực sự có kết quả rõ ràng, cụ thể”.

 VIỆT NAM KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ TRONG CÁC CƠ CHẾ HỢP TÁC ĐA PHƯƠNG VỀ GÌN GIỮ HÒA BÌNH

Công tác chuẩn bị cho Diễn tập thực địa cuối kỳ Nhóm chuyên gia Gìn giữ hòa bình Chu kỳ 4 (2021 - 2023) trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), tổ chức tại Việt Nam vào tháng 9 năm nay đang diễn ra tích cực và bước vào công đoạn cuối cùng.

Ngày 1-3, tại Hà Nội, Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam đã tổ chức Hội nghị lập kế hoạch lần cuối cho Diễn tập thực địa cuối kỳ Nhóm chuyên gia Gìn giữ hòa bình Chu kỳ 4 (2021 - 2023) trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+).

Đại tá Nguyễn Như Cảnh, Phó cục trưởng Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam, Trưởng nhóm chuyên gia gìn giữ hòa bình Việt Nam và bà Matsuzawa Tomoko, Giám đốc Hợp tác Quốc phòng khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, Bộ Quốc phòng Nhật Bản, Trưởng Nhóm chuyên gia Gìn giữ hòa bình Nhật Bản, đồng chủ trì hội nghị.

Hội nghị có sự tham dự của đại biểu từ các cơ quan, đơn vị liên quan của Bộ Quốc phòng, đại diện Ban Thư ký ASEAN, đại diện Nhóm chuyên gia gìn giữ hòa bình các nước ADMM+ và đoàn chuyên gia gìn giữ hòa bình Nhật Bản. 

Tại hội nghị, đại biểu các nước đã thảo luận các nội dung chuyên môn, kỹ thuật liên quan đến việc lập kế hoạch lần cuối cho Diễn tập cuối kỳ Nhóm chuyên gia Gìn giữ hòa bình Chu kỳ 4 (2021-2023) trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng dự kiến được tổ chức vào tháng 9-2023 tại Việt Nam.

Hội nghị đã thống nhất các nội dung chính trong Tài liệu khái niệm và Chương trình diễn tập, kịch bản tình huống, công tác bảo đảm hành chính, hậu cần, kỹ thuật, trang thiết bị… của Diễn tập cuối kỳ. Nhân dịp này, các đại biểu đã tham quan địa điểm tổ chức Diễn tập cuối kỳ. 

Tại hội nghị, bà Matsuzawa Tomoko đánh giá cao vai trò của Chính phủ và Bộ Quốc phòng Việt Nam đăng cai tổ chức sự kiện; cùng sự tham gia tích cực của các đại biểu thông qua việc chia sẻ các ý tưởng, đề xuất, góp phần chuẩn bị cho cuộc Diễn tập cuối kỳ vào tháng 9 tới. 

Việc chủ động phối hợp với Nhật Bản đồng chủ trì Nhóm chuyên gia Gìn giữ hòa bình Chu kỳ 4 trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng tiếp tục khẳng định vai trò, uy tín, vị thế và đóng góp của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác đa phương về gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc trong khu vực, góp phần tăng cường hợp tác giữa các quốc gia thành viên ADMM+.

Các hoạt động dịp này cũng góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng song phương nói chung và hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình nói riêng giữa Việt Nam - Nhật Bản. 

Ngày 15-9-2015, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Nhật Bản đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, đặt nền móng cho việc thúc đẩy, mở rộng hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này. Nhật Bản là một thành viên tích cực, tham gia từ sớm và có nhiều đóng góp về tài chính cũng như nhân sự cho các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, chủ yếu dưới dạng hỗ trợ hậu cần, bảo đảm.

 CÁC DOANH NGHIỆP PHÁP RẤT QUAN TÂM ĐẦU TƯ VÀO VIỆT NAM

Bộ trưởng đặc trách Ngoại thương Pháp khẳng định, các doanh nghiệp Pháp rất quan tâm đầu tư vào Việt Nam và mong muốn thúc đẩy việc triển khai các dự án hợp tác kinh tế trọng điểm giữa 2 nước

Chiều ngày 1/3 tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tiếp ông Olivier Becht, Bộ trưởng đặc trách Ngoại thương, Thu hút kinh tế và người Pháp ở nước ngoài.

Tại buổi tiếp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chuyển lời thăm hỏi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và của cá nhân Thủ tướng đến lãnh đạo cấp cao Pháp; bày tỏ mong muốn sớm đón Tổng thống Emmanuel Macron và Thủ tướng Elisabeth Borne sang thăm Việt Nam trong năm 2023 nhân dịp 2 nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Thủ tướng đồng thời khẳng định Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng quan hệ đối tác chiến lược với Pháp, đất nước có nhiều mối "lương duyên" với Việt Nam thông qua các gắn kết về lịch sử, văn hóa, con người và quan hệ chính trị, kinh tế, giáo dục…

Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính gửi lời cảm ơn tới chính phủ và nhân dân Pháp đã viện trợ 5,5 triệu liều vaccine cho Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vừa qua. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính bày tỏ vui mừng trước những bước phát triển toàn diện trong quan hệ Việt Nam - Pháp và tin tưởng chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Olivier Becht sẽ góp phần làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ Đối tác chiến lược giữa 2 nước, nhất là trong lĩnh vực thương mại, đầu tư.

Bộ trưởng Olivier Becht bày tỏ vui mừng đến Việt Nam và cảm ơn Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã dành thời gian tiếp đoàn; chuyển lời thăm hỏi của Tổng thống, Thủ tướng và Chủ tịch Thượng viện và Hạ viện Pháp tới lãnh đạo cấp cao Việt Nam; bày tỏ ấn tượng trước những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian qua.

Bộ trưởng đánh giá cao hợp tác kinh tế, đầu tư, thương mại giữa 2 nước, coi đây là trụ cột trong quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Pháp; khẳng định các doanh nghiệp Pháp rất quan tâm đầu tư vào Việt Nam và mong muốn thúc đẩy việc triển khai các dự án hợp tác kinh tế trọng điểm giữa 2 nước trong đó có dự án Tuyến đường sắt đô thị đoạn Nhổn - ga Hà Nội.

Hai bên ghi nhận những thành tựu hợp tác quan trọng đạt được trong thời gian qua, đặc biệt là thương mại song phương tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 5,3 tỷ USD năm 2022, tăng 10% so với năm 2021. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị Pháp tạo thuận lợi cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, nhất là hàng nông thủy sản Việt Nam tiếp cận thị trường Pháp; mong muốn 2 bên tiếp tục hợp tác chặt chẽ, tận dụng các cơ hội to lớn từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU nhằm tăng cường trao đổi thương mại song phương.

Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Pháp sớm phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA) để tạo thuận lợi cho quan hệ đầu tư bình đẳng, cùng có lợi giữa 2 nước; thúc đẩy Ủy ban châu Âu (EC) sớm gỡ bỏ thẻ vàng IUU đối với hàng thủy sản Việt Nam, đáp ứng lợi ích người tiêu dùng Pháp và EU cũng như bảo đảm sinh kế cho hàng trăm nghìn lao động trong ngành ngư nghiệp Việt Nam.

Bộ trưởng Olivier Becht nhất trí tiềm năng hợp tác kinh tế giữa 2 nước còn rất lớn; khẳng định sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác với Việt Nam trong các lĩnh vực Pháp có thế mạnh như ứng phó chống biến đổi khí hậu, hạ tầng giao thông đô thị, y tế, năng lượng, hàng không, chính phủ điện tử… Bộ trưởng Pháp Olivier Becht đánh giá cao vai trò cộng đồng người Việt Nam tại Pháp, coi đây là cầu nối quan trọng giữa 2 nước và khẳng định Chính phủ Pháp sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng Việt Nam sinh sống và làm việc tại Pháp.

Hai bên cũng chia sẻ quan điểm về tình hình Biển Đông, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không tại Biển Đông, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Đảng ta vận dụng sáng tạo tư duy đổi mới là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và đất nước hiện nay

Đường lối đổi mới của Đảng là sự vận dụng sáng tạo với tư duy độc lập trên cơ sở Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Đó là sự kết tinh của nhu cầu nội tại trong nước với xu thế phát triển của thời đại. Đổi mới thực sự là công cuộc giải phóng mình khỏi tư duy cũ về nhận thức, về hành động cũng như về mô hình của chủ nghĩa xã hội đã lỗi thời nhằm thoát khỏi cơ chế bao cấp trì trệ, để đổi lại nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội như nó cần phải có, đó là chủ nghĩa xã hội khoa học. Đảng đã nhận thức được đổi mới là vấn đề sống còn của đất nước, nhưng đổi mới không thể đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa. Đổi mới là tìm ra mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp, xuất phát từ thực tiễn cách mạng nước ta đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nhân loại phù hợp với đặc thù của Việt Nam. Khi nhấn mạnh việc tuân thủ những quy luật phổ biến của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng đã cân nhắc đặc điểm của dân tộc để xác lập hình thức, bước đi cụ thể trên cơ sở những đặc trưng cơ bản về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế diễn ra phức tạp. Thực tế qua hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết đổi mới. Đó là đổi mới nhưng phải giữ vững ổn định chính trị. Ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết của sự đổi mới và phát triển. Quá trình thực hiện đổi mới là quá trình tìm tòi để phát triển, quá trình phát huy dân chủ để có sáng tạo, nhưng phải kiên định mục tiêu xây dựng và bảo vệ đất nước gắn với chăm lo hạnh phúc cho con người. Mục tiêu này phù hợp với xu thế tiến bộ của xã hội, của thế giới hiện nay. Đó là sự hài hoà giữa nhu cầu của con người với thiên nhiên, với cộng đồng, giữa lợi ích của từng dân tộc với các dân tộc. Chính vì vậy mở cửa và hội nhập đã trở thành một trong những vấn đề cơ bản của lý thuyết đổi mới ở Việt Nam. Đó cũng là quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang và sẽ tiếp tục tiến hành trong quá trình đổi mới. Trước tình hình trong nước cũng như quốc tế đang diễn ra phức tạp, trong quá trình đổi mới đã xuất hiện nhiều quan điểm sai trái đòi xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Lý thuyết đổi mới của Đảng bao hàm một hệ thống mở, với các luận điểm luôn phát triển và với phương pháp luận biện chứng, nhưng điều “bất biến” cần phải giữ đó là không để chệch hướng chủ nghĩa xã hội. tư duy là xử lý mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo với kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào, chứ không phải đổi mới để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Việc khắc phục những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình tìm tòi cũng như tổ chức thực hiện sự nghiệp đổi mới không đồng nghĩa với việc để mất phương hướng và rời bỏ nguyên tắc, đây là mối quan hệ nghiệt ngã mà nếu không kiên định vững vàng thì sẽ chuốc lấy hậu quả nghiêm trọng đó là mất ổn định chính trị và dẫn đến mất luôn chế độ. Sự kiên định chính là giữ vững, kế thừa và bảo vệ các nguyên tắc lí luận và phương pháp cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những nguyên tắc đã trở thành chân lý phổ biến mà Đảng ta đang vận dụng vào sự nghiệp đổi mới. Trong quá trình đổi mới, Đảng đã xác định mô hình xã hội chủ nghĩa gồm 6 đặc trưng, rồi bổ sung phát triển thành 8 đặc trưng mà vẫn chưa dừng lại, cần phải tiếp tục bổ sung và phát triển. Nhưng sự bổ sung và phát triển không thể tách rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, không thể tách rời hiện thực của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Nói cách khác, đổi mới chính là một tiến trình thúc đẩy sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách phù hợp và hiệu quả chứ không phải giáo điều, rập khuôn, hay thực dụng, cơ hội, đều đã phải trả giá từ thực tế cải tổ đi đến sụp đổ và đánh mất chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá trình tìm tòi và phát triển. Qua mỗi giai đoạn, từng chặng đường đều kịp thời rút ra những bài học kinh nghiệm thành công và chưa thành công để phát huy, để bổ cứu, để vượt qua. Có thể nói chúng ta đã chủ động vừa làm vừa rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lí luận, bổ sung, điều chỉnh kịp thời nhằm đưa đất nước phát triển đúng hướng và mang lại hiệu quả cao.

ÔNG VÕ VĂN THƯỞNG ĐƯỢC QUỐC HỘI BẦU GIỮ CHỨC CHỦ TỊCH NƯỚC!

         Ông Võ Văn Thưởng vừa được Quốc hội khóa XV bầu giữ chức vụ Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, nhiệm kỳ 2021-2026!
     Sáng 2/3, Quốc hội khóa XV họp kỳ bất thường lần thứ 4 tại Hà Nội để kiện toàn nhân sự Chủ tịch nước, nhiệm kỳ 2021-2026.
     Tại kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có Tờ trình đề nghị Quốc hội xem xét bầu ông Võ Văn Thưởng - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư khóa XIII, đại biểu Quốc hội khóa XV thuộc Đoàn đại biểu Quốc hội TP Đà Nẵng giữ chức vụ Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, nhiệm kỳ 2021-2026.
     Các đại biểu Quốc hội đã tiến hành biểu quyết thông qua danh sách và bầu Chủ tịch nước bằng hình thức bỏ phiếu kín. Kết quả kiểm phiếu cho thấy ông Võ Văn Thưởng đã trúng cử Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, nhiệm kỳ 2021-2026.
     Sau khi được bầu, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tuyên thệ nhậm chức trước Quốc hội theo quy định.
     Việc kiện toàn vị trí nhân sự cấp cao này được tiến hành sau khi Quốc hội khóa XV miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam nhiệm kỳ 2021-2026 và cho thôi làm đại biểu Quốc hội khóa XV đối với ông Nguyễn Xuân Phúc, tại kỳ họp bất thường lần thứ 3, diễn ra ngày 18/1/2023.
     Bà Võ Thị Ánh Xuân giữ Quyền Chủ tịch nước cho đến khi Quốc hội bầu ông Võ Văn Thưởng giữ trọng trách Chủ tịch nước.
     Ông Võ Văn Thưởng sinh ngày 13/12/1970; vào Đảng ngày: 18/11/1993; quê quán: xã An Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long; là cán bộ cấp cao của Đảng được đào tạo, có năng lực, uy tín và kinh nghiệm công tác tương đối toàn diện, đã kinh qua nhiều vị trí lãnh đạo quan trọng của Trung ương và địa phương.
     Ông là Ủy viên Bộ Chính trị: khóa XII, XIII; Thường trực Ban Bí thư khóa XIII, Bí thư Trung ương Đảng khóa XII, Ủy viên Trung ương Đảng: Khóa X (dự khuyết), XI, XII, XIII; Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương: Khóa XII; Đại biểu Quốc hội: Khóa XII, XIV, XV; Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
     Từ tháng 1/2007, ông là Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
     Từ tháng 8/2011-4/2014, ông được Bộ Chính trị phân công giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi.
     Từ tháng 4/2014-10/2015, ông được Bộ Chính trị phân công giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP.HCM.
    Từ tháng 10/2015-2/2016, ông Võ Văn Thưởng tái cử giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP.HCM; được Bộ Chính trị phân công điều hành công tác Thành ủy TP.HCM.
     Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sau đó được bầu vào Bộ Chính trị.
     Tháng 2/2016, ông được Bộ Chính trị phân công tham gia Ban Bí thư Trung ương Đảng, giữ chức vụ Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương.
     Tháng 1/2021, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ông Võ Văn Thưởng được bầu là Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị.
     Một tháng sau đó, ông được Bộ Chính trị phân công giữ chức Thường trực Ban Bí thư. Đến tháng 6 cùng năm, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV./.


Yêu nước ST!

Vị trí, ý nghĩa của phòng, chống tham nhũng, tiêu cực góp phần làm trong sạch Đảng, bộ máy Nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện nay

Công tác phòng, chống tham nhũng ngày càng quyết liệt, bài bản, Nhân dân đồng tình, ủng hộ rất cao. Chúng ta xử lý để giữ cho được sự trong sạch, lành mạnh, vững vàng của Đảng ta, chế độ ta; xử lý những trường hợp sai lầm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, sự tồn vong của chế độ, "không có vùng cấm, không có ngoại lệ", vì sự tiến bộ chung, bất kể đó là ai. Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN), tiêu cực, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Tham nhũng trên một số lĩnh vực vẫn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, xảo trá, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng, tiêu cực vẫn là “kẻ thù hung ác”, nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”. Sau 10 năm qua, công tác PCTN, tiêu cực được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, đạt nhiều kết quả rõ rệt, đột phá, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Tuy đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, nhưng công cuộc PCTN, tiêu cực vẫn còn rất nhiều việc phải làm và phải làm ngay. Sự thật còn là tình trạng “tham nhũng vặt” đã kéo dài và hoành hành ở cơ sở nhưng chưa có “thuốc” đặc trị. “Tham nhũng vặt” rất nguy hiểm, vì nó là thứ mà người dân chứng kiến, nhìn thấy hằng ngày; nó như “ghẻ ruồi’, từng ngày, từng giờ gặm nhấm, bào mòn niềm tin của người dân với cấp ủy, chính quyền. Nó tạo ra một thứ bệnh dịch nguy hiểm trong nhân dân là dù khinh ghét tham nhũng nhưng sẵn sàng chấp nhận “sống chung với lũ”, chấp nhận hối lộ “vặt” để được việc khi đến các cơ quan công quyền. Không phải ngẫu nhiên, mà trong số các bài học quý rút ra, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại đặt vấn đề: “Trước hết, cần phải nhận thức thật đầy đủ, sâu sắc vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác PCTN, tiêu cực để từ đó có quyết tâm chính trị rất cao, biện pháp rất trúng và phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng” và “Phải biến quyết tâm chính trị thành hành động thực tế của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt, nói đi đôi với làm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCTN”. Tham nhũng, tiêu cực là thứ “giặc” ai cũng biết nhưng không thấy. Không thấy ở đây là không có bằng chứng để phát hiện, xử lý. Thành công của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực là dám nhìn thẳng vào sự thật, khi dám nhìn thẳng vào sự thật, sử dụng các công cụ, bộ máy PCTN, tiêu cực vào cuộc thì nhất định sẽ nhìn rõ sự thật, tìm ra bằng chứng. Có một tình trạng chung ở nhiều cấp ủy địa phương là thừa nhận tham nhũng, tiêu cực diễn biến phức tạp, nhưng đó là tình trạng chung, tồn tại ở đâu đó chứ không phải trong nội bộ cấp ủy, tổ chức của mình. Vì lẽ đó mà tình trạng “dưới lạnh” vẫn tồn tại. Hy vọng rằng, với việc thành lập ban chỉ đạo PCTN, tiêu cực cấp tỉnh và sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực do đồng chí Tổng Bí thư đứng đầu, “ngọn lửa” sẽ tạo ra bước đột phá mạnh mẽ từ cơ sở, giúp cấp ủy từ cấp cơ sở đến cấp trực thuộc Trung ương củng cố quyết tâm “nhìn rõ sự thật” ở cấp mình. Trong tình hình hiện nay, ở bất kỳ ngành, lĩnh vực nào đều cần người giỏi việc; nên cần phải đề cao việc “dám đầu tư con người” vào các cơ quan PCTN, tiêu cực để công cuộc chiến đấu chống “kẻ thù hung ác” trong nội bộ đạt hiệu quả. Có thể nói, cho đến nay, thể chế PCTN, tiêu cực của nước ta, từ các chủ trương, quy định của Đảng đến các văn bản pháp luật và bộ máy PCTN, tiêu cực tương đối đầy đủ. Ở đâu có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tốt, giỏi nghiệp vụ, đặc biệt là người đứng đầu có quyết tâm PCTN, tiêu cực thì ở đó, tình trạng “dưới lạnh” được khắc phục. Đầu tư vào con người và bộ máy PCTN, tiêu cực thì phải chăm lo xây dựng và dưỡng liêm bộ phận này. Chế độ chính sách, tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan PCTN, tiêu cực nhìn chung còn thấp so với khu vực sản xuất kinh doanh, tư nhân. Hệ thống lương công vụ vẫn nặng tính “cào bằng”, nếu chỉ dùng lương thì mức sống thấp, điều đó vẫn đang là bài toán khó của cả hệ thống chính trị. Đội ngũ những người làm công tác PCTN, tiêu cực là những “Bao Công” của chế độ, nếu không dưỡng liêm, để họ sa vào suy thoái, vi phạm là lỗi của cấp ủy, tổ chức đảng. Và cũng chính những “Bao Công” này, nếu rơi vào suy thoái, vi phạm thì họ rất biết cách vô hiệu hóa các cơ quan PCTN, tiêu cực; việc phát hiện, điều tra, xử lý họ vô cùng khó khăn.

Tự phê bình và phê bình chính là vũ khí sắc bén nhằm phòng ngừa suy thoái, ngăn chặn “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Đảng

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó, như thế là một Đảng tiến bộ, chân chính”. Thực tế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi nhận thấy sai lầm, khuyết điểm, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận và kiên quyết sửa chữa. Tự nhận thấy khuyết điểm của mình, Bộ Chính trị đã thực hiện tự phê bình trung thực, nghiêm túc, tự nhận khuyết điểm và hình thức kỷ luật. Vậy việc đấu tranh tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng hiện nay có được thắng thắn, thực chất và hiệu quả như vậy chưa? Các vụ việc tham ô, tham nhũng, vi phạm nguyên tắc, Điều lệ Đảng đều không do tổ chức chi bộ phát hiện, tố giác mà đều do thanh tra, kiểm tra, báo chí - truyền thông và quần chúng nhân dân phát hiện. Theo thống kê trong nhiệm kỳ Đại hội XII đã có 161 tổ chức đảng bị cảnh cáo, hơn 7.800 đảng viên bị khai trừ ra khỏi Đảng, cho thấy, việc sinh hoạt và thực hành tự phê bình, phê bình trong nhiều tổ chức Đảng hiện nay chỉ mang tính hình thức và chưa hiệu quả. Vì hình thức nên tự phê bình và phê bình bị biến tướng thành diễn đàn khen ngợi, tâng bốc nhau, thậm chí nhiều nơi còn lợi dụng tự phê bình và phê bình để chỉ trích, vu khống, phê phán người khác với động cơ không trong sáng, gây mất đoàn kết trong chi bộ. Nhiều người đứng đầu, người có chức, có quyền, không nhận rõ được hạn chế, khuyết điểm của mình. Họ bị bao phủ bởi một lớp hào quang, mà đó là hào quang hình thức, do một số người cấp dưới nịnh bợ mà anh ta không thấy được. Tính hình thức của tự phê bình và phê bình ở đây chính là: Cuộc sống của người cán bộ, đảng viên phụ thuộc rất nhiều vào người chỉ huy. Cơm ăn, áo mặc, học hành, con cái… đều phụ thuộc vào cơ quan, mà cơ quan lại phụ thuộc vào người chỉ huy, người đứng đầu đó. Cho nên nếu một người thủ trưởng có khuyết điểm, người ta biết nhưng cũng không dám nói, nên tự phê bình và phê bình khiến cho đảng viên trượt dài trên con đường “tự diễn biến, tự chuyển hóa”. Như vậy, khi thực hiện tự phê bình và phê bình cần nhất những lời nói thẳng, nói thật, nói đúng, làm thế nào để tự phê bình và phê bình có hiệu quả. Việc thực hiện tự phê bình và phê bình, đó là cùng nhau tiến bộ, cùng nhau phấn đấu vì nhiệm vụ chung của cơ quan, đơn vị. Sau khi phê bình, người đó tốt hơn lên, nhận rõ khuyết điểm của mình và sửa chữa tốt hơn. Vì thế tự phê bình và phê bình phải trung thực, thẳng thắn, không bỏ qua, không đặt điều và rất độ lượng. Phê bình cốt là để sửa chữa sai lầm, khuyết điểm tốt hơn, phê bình kiểu đao to, búa lớn, vùi dập người ta thì người ta không thực hiện. Phê bình trước hết bản thân mình tự kiểm điểm, tự phê bình việc mình đã làm, thế rồi kiểm điểm, phê bình đồng chí, đồng đội mình. Có làm được như vậy mới sửa được. Ai dám phê bình mới có khả năng sửa. Ai không nhận khuyết điểm, không dám phê bình chắc chắn sẽ không sửa được. Để tự phê bình và phê bình không rơi vào tình trạng dĩ hòa vi quý, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, không rơi vào tình trạng đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, bản thân mỗi cán bộ, đảng viên cần thấu suốt quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật. Đặc biệt là chỉ phê bình việc chứ không phê bình người. Tự phê bình và phê bình chính là cuộc chiến đấu ngay trong cơ thể Đảng. Để cuộc chiến đấu này giành được chiến thắng, trước hết cơ thể Đảng phải có được một thể lực tốt, được trang bị những tấm khiên, áo giáp bảo vệ chắc chắn, đủ năng lực tự vệ để đương đầu, đối phó thắng lợi với những tác nhân gây bệnh đến từ nhiều phía.

Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cần nêu cao tự phê bình và phê bình theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến tự phê bình và phê bình trong Đảng. Theo Người, tự phê bình và phê bình giúp xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Theo người tự phê bình và phê bình phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Vì vậy, phải kiên trì, thường xuyên, liên tục, mạnh dạn thừa nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, khắc phục. Bác đã dạy: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Mỗi người cần phải có thái độ, phương pháp đúng, trên tình thương yêu giai cấp, tự phê bình mình cũng như phê bình người, phải triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt, đồng thời không dùng những lời mỉa mai, chua cay, thâm độc. Phê bình việc chứ không phê bình người, kiên quyết chống bệnh tự mãn, kiêu ngạo, ba hoa, phải thực hành khẩu hiệu “chí công vô tư”. Người được phê bình phải cầu thị, nghiêm túc tiếp thu ý kiến phê bình của đồng chí mình, phải có ý chí quyết tâm khắc phục sai lầm, khuyết điểm. Tự phê bình và phê bình vừa là nguyên tắc, vừa là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hoạt động tự phê bình và phê bình là làm rõ ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm của tổ chức đảng, cấp ủy và cán bộ, đảng viên, qua đó tìm biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, tăng cường đoàn kết thống nhất, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo trong từng giai đoạn cách mạng. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, thời gian qua, các cấp ủy Đảng đã thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, trong đó có lãnh đạo, chỉ đạo và thường xuyên tiến hành bồi dưỡng các nội dung liên quan đến tự phê bình và phê bình, nhất là việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Kết luận 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII tự phê bình và phê bình trở thành hoạt động thường xuyên góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai trái nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, công tác tự phê bình và phê bình ở các tổ chức cơ sở đảng trên thực tế hiện nay còn nhiều bất cập, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đánh giá: “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn thấp”… “Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao”. Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, thoái hóa phẩm chất, đạo đức, lối sống; nhiều cấp ủy đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về tự phê bình và phê bình; tính chiến đấu kém, còn biểu hiện ngại va chạm, né tránh, cơ hội hữu khuynh trong tự phê bình và phê bình. Cá biệt một số cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền lực, địa vị, dẫn đến tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm và ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ở các tổ chức đảng. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ; có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu”. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác tự phê bình và phê bình, chúng ta cần tiếp tục giáo dục nâng cao kiến thức toàn diện cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; mở rộng dân chủ, thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt của các tổ chức đảng; phát huy vai trò trách nhiệm của cấp ủy nhằm nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình; phát huy tốt vai trò của quần chúng trong đơn vị tham gia phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên; đồng thời phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình. tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa XII. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt” và đóng góp phê bình đồng chí, đồng đội mình “một cách thiết thực mà thân ái”, nâng cao một bước nhận thức tư tưởng, lập trường cách mạng, bản lĩnh chính trị, niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Thường xuyên đấu tranh, tẩy sạch chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, bảo thủ giáo điều... Rèn luyện đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, xây dựng lối sống lành mạnh của cán bộ, đảng viên; khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Những biểu hiện bác bỏ công tác bảo tồn nền văn hóa ở nước ta

Một là, đánh phá nền tảng tư tưởng, xuyên tạc quá khứ, bôi đen lãnh đạo để phá rã niềm tin của quần chúng vào Đảng và chế độ, làm cho toàn xã hội hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị của quần chúng đòi thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai là, với chiến thuật “mưa dầm thấm lâu”, bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với những luận điểm mị dân, lừa bịp, dễ làm cho chúng ta mất cảnh giác, dễ bị cám dỗ, mất phương hướng chính trị, không phân biệt đúng sai, thật giả, tạo ra “khoảng trống” về chính trị, tinh thần để dễ dàng truyền bá các quan điểm tư sản và đánh thẳng vào nội bộ ta, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kích động lật đổ và bạo loạn chính trị. Ba là, với nhiều thủ đoạn khác nhau, chúng làm mê muội con người, đặc biệt là thế hệ trẻ bằng các loại văn hóa phẩm độc hại, cổ xúy lối sống hưởng lạc, thực dụng, quên quá khứ, bàng quan chính trị, xa rời lý tưởng; tạo ra được một tầng lớp đông đảo “phi chính trị hóa”, để khi có điều kiện thì tập hợp lực lượng xấu, gây áp lực chính trị, dùng bạo loạn lật đổ và cướp chính quyền. Bốn là, mua chuộc cán bộ, chuyển hóa tư tưởng, cài cắm người vào các tổ chức của ta, móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá Đảng và Nhà nước ta. Năm là, với hình thức tung tin đồn nhảm, tạo dư luận và áp lực xã hội, dưới chiêu bài “chống tham nhũng”, “bảo vệ tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, chúng đưa ra những lời hứa mị dân để gây tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác, cả tin của một số người; từ đó cô lập các lực lượng cách mạng trung kiên, phân hóa những người dao động, thiếu chính kiến, thiếu thông tin; lôi kéo, kích động những người có tâm trạng bất mãn, những lực lượng xấu trong xã hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền. Đảng ta xác định, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là chống sự “xâm lăng văn hóa” là hoàn toàn đúng đắn, khách quan, kế thừa truyền thống của tổ tiên (văn hóa còn thì dân tộc còn), đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó khẳng định, chúng ta không hề bảo thủ, khép kín, chống lại tinh hoa văn hóa nhân loại, càng không coi đó là công cụ để củng cố, bảo vệ “chế độ độc tài” như các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc.

Bác bỏ luận điệu xuyên tạc công tác bảo tồn văn hóa ở nước ta

Văn hóa là lĩnh vực trọng điểm các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam, trong đó tán phát các tài liệu xuyên tạc quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về văn hóa là thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc của chúng. Trong thời gian qua, các trang mạng phản động đã đăng tải nhiều bài viết xuyên tạc về công tác bảo tồn văn hóa ở nước ta. Các thế lực thù địch, phản động cho rằng, bảo tồn văn hóa là “chống lại bành trướng các giá trị tự do dân chủ của văn hóa phương Tây thông qua thị trường trong quá trình toàn cầu hóa”. Chính sách bảo tồn văn hóa của Việt Nam là “phiên bản đặc thù theo “chủ nghĩa tân bảo thủ” có nguồn gốc Trung Quốc, để theo đuổi tăng trưởng kinh tế nhanh nhờ thị trường”. Đảng Cộng sản Việt Nam nỗ lực thực hành bảo tồn văn hóa như một công cụ để củng cố “chủ quyền chính trị” của mình, nhấn mạnh tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin chống lại sự bành trướng của các giá trị tự do dân chủ phương Tây…. Đây là sự xuyên tạc quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về văn hóa, đặc biệt là bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam. Như chúng ta đã biết, nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, tinh hoa văn hóa của thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Trong đó, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc là bảo tồn, giữ gìn thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường của dân tộc Việt Nam, đó là: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý; cần cù sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống…Đây là những tinh hoa, giá trị bền vững được hun đúc, vun đắp trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những giá trị ấy đã tạo nên nét đặc sắc riêng chỉ có ở dân tộc, con người Việt Nam. Hơn nữa, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này nhằm nâng cao sức mạnh nội sinh của dân tộc, tạo động lực để phát triển đất nước bền vững. Giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc giúp giữ được tính độc đáo, bảo đảm tính thống nhất, khơi dậy, phát triển tự hào dân tộc tạo nên sự gắn bó, đoàn kết - sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển. Sự kết nối quá khứ và hiện tại chính là cơ sở, nền tảng, hành trang cho tương lai của dân tộc, đất nước. Hiện nay, việc phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp trên cơ sở những yêu cầu, chuẩn mực mới của thời đại chính là nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững. Đi đôi với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, Đảng ta cũng chủ trương tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại: “cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại”. Quan điểm trên chỉ ra bên cạnh tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, với tinh thần hội nhập nhưng không hòa tan, chúng ta cũng luôn cảnh giác, nhận diện và đấu tranh chống sự “xâm lăng văn hóa”, đặc biệt thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chúng lợi dụng lĩnh vực văn hóa thông qua toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hủy hoại bản sắc, văn hóa của con người, dân tộc Việt Nam.

Phương hướng, giải pháp đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người

Trên cơ sở kiên định đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, các cơ quan quản lý nhà nước cần thường xuyên nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, trong đó có lĩnh vực dân chủ, nhân quyền. Đổi mới nội dung, phương pháp đối thoại, đấu tranh. Thực hiện nguyên tắc trong đấu tranh có đối thoại, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh, chủ động, tích cực nhận diện, phê phán, xử lý công khai, minh bạch bằng pháp luật, trước hết đối với những kẻ cầm đầu, đồng thời phù hợp với các quan hệ liên quan trực tiếp đến vấn đề đấu tranh và đối tượng đấu tranh. Đối thoại, đấu tranh với các tổ chức, cá nhân quốc tế và nước ngoài, cần tiến hành theo cách thức sau: Đối thoại, đấu tranh theo cơ chế dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc tại Hội đồng Nhân quyền và tại Ủy ban của các tổ chức phi chính phủ (NGOs) thuộc ECOSOC: Theo cách thức bảo đảm chủ quyền quốc gia và nghĩa vụ là thành viên Liên hợp quốc. Trên cơ sở đó, lựa chọn và tiến hành các phương pháp, biện pháp đối thoại, đấu tranh thích hợp với từng vụ việc cụ thể. Đối thoại, đấu tranh theo cơ chế dựa trên công ước tại các ủy ban (tiểu ban) về QCN của Liên hợp quốc, phù hợp với quy chế của mỗi ủy ban công ước. Đối thoại, đấu tranh tại các tổ chức như Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)...: Theo cách thức bảo đảm chủ quyền quốc gia và hợp tác với thể chế của các tổ chức mà Việt Nam đã tham gia. Việc lựa chọn và tiến hành các phương pháp, biện pháp đối thoại, đấu tranh phải phù hợp với thể chế của mỗi tổ chức quốc tế, hệ thống công pháp quốc tế và với mỗi loại quyền (lao động, nghiệp đoàn, an sinh xã hội, kinh doanh, thương mại, môi trường,...). Đối thoại, đấu tranh với các tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động chống phá chế độ chính trị - xã hội tại Việt Nam: Theo cách thức bảo đảm chủ quyền quốc gia và trên cơ sở các văn kiện hợp tác với các nước, các tổ chức này. Việc xác định phương pháp, biện pháp đối thoại, đấu tranh nên phù hợp với hệ thống công pháp quốc tế và quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với quốc gia đó. Chẳng hạn, đấu tranh với sự không khách quan, xuyên tạc về tình hình tôn giáo, buôn người và nhân quyền ở Việt Nam trong các báo cáo về tự do tôn giáo của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), báo cáo về nạn buôn người và về nhân quyền của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ,... chứ không phải đấu tranh với nhân dân Hoa Kỳ hay phương Tây nói chung. Điều này đồng thời chỉ rõ trong phương thức đấu tranh phải coi trọng hợp tác, đối thoại theo nguyên tắc giữ vững chủ quyền quốc gia và tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân, kể cả một bộ phận chính quyền tại phương Tây. Đối thoại, đấu tranh với một số tổ chức phi chính phủ quốc tế như Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá quốc tế, Tổ chức Phóng viên không biên giới... về những báo cáo phiến diện, xuyên tạc, không khách quan đối với tình hình nhân quyền tại Việt Nam, theo cách thức bảo đảm chủ quyền quốc gia và trên cơ sở hệ thống công pháp quốc tế. Việc xác định phương pháp, biện pháp đối thoại, đấu tranh phải phù hợp với vị trí, tính chất của mỗi tổ chức và mỗi vụ, việc cụ thể. Cách thức tiến hành đối thoại, đấu tranh với các tổ chức, cá nhân người Việt thù địch ở trong và ngoài nước: Cách thức chung là tuân thủ hệ thống pháp luật Việt Nam. Đối với các lực lượng chống phá là người Việt sống ở nước ngoài cần phải tính đến mức độ phù hợp với hệ thống công pháp quốc tế và pháp luật của nước sở tại. Việc xác định phương pháp, biện pháp đối thoại, đấu tranh về dân chủ, nhân quyền phải thích hợp với tính chất của các phần tử chống đối ở trong nước ở ngoài nước, nhất là phải phù hợp với mức độ, tính chất chống đối của mỗi vụ việc cụ thể. Trong phương thức đối thoại, đấu tranh cần coi trọng cách thức, phương pháp, biện pháp tư tưởng chính trị như truyền thông, vận động nhằm nâng cao nhận thức, tích cực phòng - chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; coi trọng cách thức kết hợp đối thoại với đấu tranh hay ngược lại.

Đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người

Trong thời gian qua, hoạt động đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền của Việt Nam đã góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, thúc đẩy quan hệ với các đối tác, bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Bài viết làm rõ quan niệm, đối tượng, đặc điểm đối thoại, đấu tranh về nhân quyền; nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực này. Từ đó, đề xuất cách thức tiến hành đối thoại, đấu tranh với các tổ chức quốc tế, các tổ chức và cá nhân thù địch trong và ngoài nước. 1. Những nhận thức cơ bản về đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người Đối thoại trên lĩnh vực quyền con người (QCN) là sự trao đổi, thương lượng một cách bình đẳng giữa những người tham gia đối thoại trên cơ sở pháp lý nhất định, hướng vào một chủ đề cụ thể, nhằm nhận thức sâu hơn về đối phương và đạt tới chân lý cao hơn cho cả hai bên, tiến đến giải quyết được một hoặc một số vấn đề cụ thể liên quan đến danh dự, nhân phẩm hay quyền lợi của các bên đối thoại. Đấu tranh trên lĩnh vực QCN là sự chủ động, tích cực nhận diện, phê phán và kiên quyết xử lý nghiêm minh bằng pháp luật nhằm làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề QCN như một công cụ chống phá chế độ chính trị - xã hội Việt Nam. Đối tượng đối thoại, đấu tranh là các lực lượng thù địch, phản động, các tổ chức và cá nhân. Các lực lượng thù địch: Gồm lực lượng cực hữu ở một số nước phương Tây (chủ yếu tại Mỹ), lực lượng người Việt ở ngoài nước và những cá nhân ở trong nước bị các thế lực cực hữu nước ngoài mua chuộc, lợi dụng để chống phá chế độ chính trị - xã hội Việt Nam. Các lực lượng cạnh tranh về tư tưởng, chính trị: Gồm những người nghiên cứu lý luận, hoạt động chính trị tại một số nước phương Tây và những người cơ hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng chính trị tại Việt Nam. Đến nay, cuộc đối thoại, đấu tranh giữa ý thức hệ CNXH và CNTB vẫn diễn ra trên phạm vi thế giới. Những người cơ hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng chính trị, thực chất là những đối tượng thù địch “giấu mặt” đóng vai “phái giữa” nên có sức nguy hại rất lớn, vì họ “đánh từ trong đánh ra”, gián tiếp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “chệch hướng” nền tảng tư tưởng của Đảng ngay từ trong nội bộ. Đối thoại, đấu tranh về tư tưởng chính trị - pháp lý giữa hai loại hình giá trị tư tưởng XHCN và tư sản về dân chủ, nhân quyền: là đặc điểm có tính bản chất của đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực QCN. Nó cho thấy, đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền không có giới tuyến địch - ta rõ ràng, mà nằm ngay trong nhận thức của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức. Vì thế, nhân dân - trước tiên là mỗi cán bộ, đảng viên, đều là chủ thể đối thoại, đấu tranh với các thế lực thù địch trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền. Về nội dung đấu tranh: trước hết là nhận diện rõ các âm mưu, thủ đoạn chống phá về nhân quyền. Các lực lượng thù địch ra sức truyền bá hệ tư tưởng tư sản với nội dung cơ bản là: Quan niệm một cách phiến diện, có khi tuyệt đối hóa quyền cá nhân và các quyền dân sự, chính trị đến mức đồng nhất chúng với quyền con người nói chung; coi nhẹ quyền của tập thể, của dân tộc và chủ quyền quốc gia; coi tư tưởng nhân quyền phương Tây mang tính phổ quát toàn nhân loại, thậm chí cao hơn chủ quyền quốc gia; coi nhẹ tính bình đẳng của các chủ thể quyền và các nội dung quyền, nhất là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, vốn chiếm vị trí cơ bản và là yêu cầu có tính bức thiết đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Về mặt chính trị, đây là biểu hiện của chủ nghĩa đế quốc về văn hóa. Chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận các giá trị lý luận - thực tiễn về QCN; tiến hành các hoạt động chống phá thực tiễn bảo đảm QCN ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, dân tộc, thông tin, truyền thông, giáo dục, đào tạo, văn hóa nghệ thuật, tư pháp,... kể cả hợp tác quốc tế; tuyên truyền, ca ngợi các giá trị nhân quyền tư sản nhằm kích động, cổ vũ việc phân hóa, chuyển hóa tư tưởng chính trị XHCN, đồng thời thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sang tư tưởng nhân quyền tư sản, trước tiên trong nội bộ Đảng, Nhà nước; tạo dựng “ngọn cờ” về nhân quyền thông qua tuyên truyền, ca ngợi, trao giải thưởng cho nhiều nhân vật chống đối nhằm kích động hình thành các tổ chức chính trị đối lập trong và ngoài nước. Các thế lực thù địch tuyên truyền xuyên tạc, kích động vấn đề dân tộc thiểu số và xuyên tạc chính sách tôn giáo; xuyên tạc Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, tự do hội họp. Hơn thế, còn kích động khuynh hướng cực đoan nhằm “hạ bệ thần tượng”, đòi “giải thiêng” các giá trị lịch sử dân tộc, phủ nhận thành quả cách mạng, bôi nhọ, xúc phạm lãnh tụ và lãnh đạo Đảng, Nhà nước; đòi khơi thông dòng văn chương của những cây bút chống cộng trước năm 1975; thành lập “Nhóm mở miệng” (xuất hiện từ khoảng năm 1995) chủ trương thơ tục, thơ rác, thơ bụi để “đẩy thơ vào ngõ cụt”, nhằm thúc đẩy báo chí “lề trái” (phi chính thức) thay thế “lề phải” (báo chí cách mạng);... để tạo tiền đề cho việc chuyển sang hệ tư tưởng tư sản, không chỉ trên lĩnh vực QCN. Xuyên tạc cái gọi là “việc áp dụng một cách bất công Bộ luật Hình sự”, nhất là các điều 19, 79, 87, 88 và 258 của Bộ luật Hình sự năm 1999, mặc dù Bộ luật này đã được sửa đổi từ năm 2015. Các luận điệu xuyên tạc Việt Nam có chính sách hai mặt trong việc giam giữ “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị”; hay các luận điệu xuyên tạc về bức cung, nhục hình đối với những người bị tạm giữ, tạm giam; vu khống Việt Nam bắt giữ và xét xử tùy tiện; cáo buộc tình trạng đàn áp, ngăn chặn, cản trở hoạt động của luật sư;... Các thế lực thù địch tăng cường ưu tiên cấp học bổng để thu hút học sinh, sinh viên tham gia tìm hiểu “lối sống Mỹ”, “nghiên cứu nhân quyền”, đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức hội nhóm tôn giáo... Hoạt động xâm nhập, kích động, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” sang tư tưởng nhân quyền tư sản. Đồng thời, tăng cường tác động “từ bên ngoài”, như đòi Nhà nước Việt Nam phải đáp ứng ngay tiêu chuẩn về các quyền dân sự, chính trị (tự do lập hội, tự do xuất bản báo chí tư nhân, hoạt động tôn giáo không cần sự quản lý của Nhà nước,...) tương tự các quốc gia phát triển phương Tây. Gắn QCN với các vấn đề hợp tác phát triển, dân chủ, tôn giáo, tiếp cận thông tin và các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp,... Kích động các cá nhân, tổ chức trong nước tổ chức bạo động, bạo loạn và nhờ nước ngoài khiếu kiện Việt Nam. Ví dụ, trong UPR chu kỳ I, II và III, một số tổ chức quốc tế có quy chế quan sát viên tại Hội đồng Kinh tế xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) như Ủy ban bảo vệ QCN cho người Việt Nam - VCHR, Tổ chức Đảng cấp tiến xuyên quốc gia - TRP,... và một số tổ chức phi chính phủ của nhóm người Việt phản động đã lợi dụng diễn đàn của Hội đồng nhân quyền vu cáo Việt Nam vi phạm QCN. Về thủ đoạn chống phá: Lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, làm ngòi nổ; dùng ngoại giao, đầu tư kinh tế để hỗ trợ, hậu thuẫn chống phá. Về cách thức chống phá: Các thế lực thù địch sử dụng báo chí, truyền thông, đặc biệt là báo mạng, internet; tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài (như VOA tiếng việt, RFA, RFI, BBC Việt ngữ) để xuyên tạc, kích động về tư tưởng, chính trị để kích động biểu tình trái phép; tổ chức các hội thảo để xem xét lại các vấn đề liên quan đến lịch sử; dùng chiêu bài “mớm lời”, “rắc thính”, kích động để gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, suy thoái về tư tưởng chính trị.

BẢN CHẤT CỦA CHIÊU BÀI "NHÂN QUYỀN CAO HƠN CHỦ QUYỀN"

             Đặt vấn đề “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, thế lực thù địch muốn tạo cớ để can thiệp vào nội bộ của các quốc gia khác. Không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia thì không thể có nhân quyền một cách đầy đủ trọn vẹn

            Nhân quyền và chủ quyền quốc gia dân tộc, tuy là hai vấn đề khác nhau nhưng lại là có liên quan chặt chẽ với nhau trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở mỗi quốc gia dân tộc. 

            Vậy nhân quyền có thực sự cao hơn chủ quyền hay không? Và chúng ta cần nhìn nhận về vấn đề này như thế nào là nội dung cuộc trao đổi giữa phóng viên VOV với Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Dũng Chí, nguyên Viện trưởng Viện Quyền con người (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh). 

            PVThưa ông, luận thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền” được Mỹ và các quốc gia phương Tây khởi xướng từ sau chiến tranh lạnh. Đây là vấn đề tuy không mới nhưng nó vẫn đang gây nên nhiều tranh cãi, bàn luận. Vậy theo ông, chúng ta cần nhìn nhận về vấn đề này như thế nào?

            PGS, TS Đặng Dũng Chí: Có thể nói, vấn đề “nhân quyền cao hơn chủ quyền” là luận điểm không mới. Vấn đề này xuất hiện rất sớm, kể từ khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Và đặc biệt, nó được rộ lên bắt đầu từ cuối năm 50 của thế kỷ 20, khi các chính trị gia Mỹ hiểu rằng, họ không thể giành chiến thắng trước các thế hệ lãnh đạo và người dân đã được thử thách qua chiến tranh, mà phải tấn công vào nhận thức của lớp trẻ, thông qua dân chủ, nhân quyền.

            Có thể nói, cơ sở của luận điểm này, đó là tính phổ quát của nhân quyền, và một quy định rất quan trọng trong quy định nhân quyền quốc tế, đó là khuyến khích sự hợp tác của các quốc gia trong việc thúc đẩy nhân quyền. Bản chất của luận điểm này là tuyệt đối hóa vấn đề nhân quyền, coi nhân quyền là giá trị cao nhất, các giá trị khác phải nhường bước cho việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.

            PVVậy, những người khởi xướng quan điểm này, không đơn thuần là để so sánh quyền con người với chủ quyền của một quốc gia, hẳn là có ý đồ, thưa ông?

            PGS, TS Đặng Dũng Chí: Như đã nói ở trên, luận điểm này được nêu ra và luôn luôn được khuyến khích bởi mưu đồ chính trị rất rõ. Các nước luôn cổ vũ cho luận điểm này là nhằm thay đổi chế độ chính trị tại các nước xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn các nước độc lập dân tộc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, ngăn chặn tiến trình của các nước độc lập mà không theo chỉ huy, chỉ đạo của phương Tây. Vấn đề nhân quyền, bản chất nó là vấn đề đạo đức, thế nhưng do bị chính trị hóa nên nó làm cho câu chuyện nhân quyền trở nên phức tạp.

            PVNhư ông vừa phân tích, bản chất của luận điểm này là họ tuyệt đối hóa vấn đề nhân quyền, coi nhân quyền là một giá trị cao nhất. Nhưng rõ ràng khi một quốc gia dân tộc bị mất chủ quyền, thì quyền con người cũng sẽ không được bảo đảm?

            PGS, TS Đặng Dũng Chí: Đúng như thế, lịch sử Việt Nam và các nước đã trải qua quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, đều hiểu sâu sắc rằng, không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia thì không thể có nhân quyền một cách đầy đủ trọn vẹn. Ngày nay, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia còn là việc các quốc gia không bị chi phối bởi các định chế kinh tế, tài chính toàn cầu và không bị cuốn vào cuộc chơi của các nước lớn. Thực tế, gần đây cho thấy, ở các nước Trung Đông, gần đây nhất là Syria, khi chủ quyền quốc gia không được giữ vững thì các quyền con người không những không được đảm bảo mà còn dẫn đến những thảm họa về nhân quyền. Chúng ta đã thấy những dòng người di tản đi khắp nơi trên thế giới. Đấy là câu chuyện cho thấy khi chủ quyền quốc gia không đảm bảo thì các quyền con người nó sẽ ra sao.

            Phản ánh sai lệch nhân quyền ở Việt Nam là cách làm không đàng hoàng

            PVHàng năm, một số quốc gia, tổ chức luôn có những báo cáo về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, trong đó có nhiều thông tin phản ánh sai lệch thực tế vấn đề dân chủ, nhân quyền của chúng ta. Ông có thể cho biết, tại sao họ lại luôn cố ý áp đặt và có cái nhìn sai lệch đối với Việt Nam?

            PGS, TS Đặng Dũng Chí: Kể từ khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các nước phương Tây giành được thế thượng phong trong tất cả các vấn đề toàn cầu, trong đó có vấn đề dân chủ, nhân quyền. Chính vì thế họ khuyến khích, thúc đẩy luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Họ luôn tố cáo Việt Nam không đảm bảo đầy đủ về nhân quyền. Đây là một động cơ chính trị rất rõ, nhằm gây mất ổn định chính trị xã hội ở Việt Nam và làm giảm uy tín của Việt Nam trong dư luận quốc tế. Mục đích cuối cùng của họ là thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam. Đó là chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang lựa chọn. Có thể nói, đây là một thái độ không đúng đắn, không đàng hoàng. Họ sử dụng cái gọi là tiêu chuẩn kép áp đặt với những nước đi theo xã hội chủ nghĩa như Việt Nam.

            PVQuyền dân tộc tự quyết được thừa nhận là nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế hiện nay. Và tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết, tự do quyết định thể chế chính trị của mình. Như vậy, việc lợi dụng nhân quyền để can thiệp vào chủ quyền quốc gia của nước khác là vi phạm luật pháp quốc tế, thưa ông?

            PGS, TS Đặng Dũng Chí: Đúng như vậy, quyền tự quyết dân tộc, trong đó có chủ quyền quốc gia là một giá trị lớn, một giá trị cực kỳ thiêng liêng. Bởi nó là kết quả đấu tranh của các dân tộc khẳng định quyền của mình trong cộng đồng quốc tế và được luật pháp quốc tế thừa nhận một cách rộng rãi. Có thể nói rằng, quyền tự quyết dân tộc đã được xác lập một cách vững chắc trong luật quốc tế và chính Luật Nhân quyền quốc tế cũng ghi nhận rất rõ quyền tự quyết dân tộc, coi đó như một điều kiện không thế thiếu được của quyền con người. Tại tuyên bố Vien của Chương trình hành động năm 1993 đã khẳng định: Việc khước từ quyền tự quyết dân tộc là vi phạm quyền con người. Chính vì thế, việc sử dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc của các nước khác, trong đó có Việt Nam, đấy chính là vi phạm nhân quyền, đồng thời cũng là vi phạm luật pháp quốc tế.