Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

Vạch trần luận điệu phủ nhận thành tựu nhân quyền ở Việt Nam

 Có thể nhìn nhận rõ, những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hiện nay gồm: lực lượng cực hữu, một số nghị sĩ cực đoan tại một số nước phương Tây, các nhóm phản động người Việt Nam ở nước ngoài và những cá nhân người Việt ở trong nước bị các thế lực cực hữu nước ngoài mua chuộc, lợi dụng... Tham dự vào lực lượng này còn có những người cơ hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng, chính trị tại Việt Nam.

Trong đó, với những luận điệu cố tình phủ nhận thành tựu, kết quả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đạt được, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở trong nước và ở nước ngoài cố tình xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam, mục đích cuối cùng của chúng là dùng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” cổ xúy, thêu dệt cho những giá trị nhân quyền phương Tây, thực hiện dã tâm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

 

Dân chủ, nhân quyền là giá trị thiêng liêng mà toàn nhân loại đã và đang hướng tới. Thế nhưng, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch để lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia không có cùng thể chế chính trị và lợi ích. Theo đó, chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tuyên truyền, xuyên tạc làm rối loạn tình hình chính trị ở trong nước… là những chiêu bài mà các thế lực thù địch thông qua các tổ chức quốc tế tự xưng về nhân quyền đã không ngừng sử dụng và giành nhiều thời gian, công sức với thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. 

Có thể nhìn nhận rõ, các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hiện nay gồm: lực lượng cực hữu, một số nghị sĩ cực đoan tại một số nước phương Tây, các nhóm phản động người Việt Nam ở nước ngoài và những cá nhân người Việt ở trong nước bị các thế lực cực hữu nước ngoài mua chuộc, lợi dụng, núp bóng “ngọn cờ dân chủ”, “nhân quyền” chống phá nền tảng tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội tại Việt Nam. Tham dự vào lực lượng này còn có những người theo các trào lưu tư tưởng và đường lối chính trị trái ngược với giá trị của chủ nghĩa xã hội tại các nước phương Tây; những người cơ hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng, chính trị tại Việt Nam.

Ngoài ra, còn có một số tổ chức phi chính phủ do còn thiếu thông tin về kết quả thực hiện nhân quyền ở Việt Nam nên còn có những ý kiến thiếu thiện trí đối với Việt Nam trong vấn đề nhân quyền.

Các thế lực, thù địch lợi dụng mạng xã hội để xuyên tạc, thổi phồng những sự vụ nhằm vu cáo ở Việt Nam đã và đang vi phạm nghiêm trọng nhân quyền. Ảnh minh họa/tuyengiao.vn

Bên cạnh những tổ chức trên còn có một số tổ chức, hội nhóm khác luôn tìm mọi cách để xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, thậm chí xem đó là phương thức tồn tại và hoạt động như: Việt Tân, Chính phủ Việt Nam tự do, Đảng nhân dân hành động, Hiệp hội đoàn kết công nông, Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam, Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam, Ủy ban cứu người vượt biển… Đặc điểm chung của các tổ chức, hội nhóm trên đều được hậu thuẫn bởi các thế lực cực đoan ở một số nước ngoài, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc, nhằm lật đổ chế độ ở nước ta hiện nay.

 

Thứ nhất, các luận điệu xuyên tạc nhằm phủ nhận những chủ trương đúng đắn của Đảng và chính sách và pháp luật Việt Nam về nhân quyền, thành tựu lý luận và kết quả thực tiễn đạt được về nhân quyền ở nước ta trong gần 40 năm qua. 

Thứ hai, cổ xúy, thêu dệt cho những giá trị nhân quyền phương Tây, kêu gọi “phong trào bảo vệ tự do tôn giáo”, áp đặt các “chuẩn mực” về “tự do”, “dân chủ”... đối với Việt Nam. Ở Việt Nam, nổi lên một số hội nhóm, tổ chức được sự hỗ trợ của các thế lực, tổ chức phản động nước ngoài nhằm xây lực lượng lượng thành lập đảng chính trị đối lập, thúc đẩy cho việc thực hiện “cách mạng màu”.

Thực tế chứng minh cho thấy, trải qua hơn 94 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định vị thế duy nhất lãnh đạo, cầm quyền, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Ảnh minh họa/tuyengiao.vn

Thứ ba, lợi dụng kẽ hở về pháp luật để tung hô những vấn đề còn khiếm khuyết, chưa chặt chễ về các vấn đề xã hội, nhằm mục đích gây bạo loạn, mất ổn định xã hội ở Việt Nam. Các luận điệu này đều là sai trái, thiếu khách quan, một chiều, không kiểm chứng và thiếu chính xác về quyền con người, thậm chí nhân danh các tổ chức xã hội dân sự để đóng vai trò phản biện xã hội nhưng thực chất là để tập hợp, lôi kéo lực lượng chống đối Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thêm vào đó là việc lợi dụng sức mạnh của truyền thông xã hội, chúng đã tung ra các thể loại bài viết, video, clip… với tần xuất lớn, gây hoang mang tư tưởng, chĩa vào những khiếm khuyết xã hội.

Thứ tư, các các tổ chức này xuyên tạc, thổi phồng những sự vụ riêng lẻ nhằm vu cáo ở Việt Nam đã và đang vi phạm nghiêm trọng nhân quyền trên mọi lĩnh vực của đời sống, thậm chí chúng sử dụng chiêu bài khoác áo nhân quyền để can thiệp vào chính trị nội bộ Việt Nam. Điển hình là các luận điệu: “nhân quyền không biên giới”; “nhân quyền cao hơn chủ quyền”; “Việt Nam tuyên án đối với những nhà đấu tranh vì quyền của dân tộc thiểu số và quyền tự do tôn giáo đặc biệt là 5 bản án kể từ tháng 1/2024”; “bắt giữ nhiều nhà hoạt động nhân quyền trong thời gian gần đây như: Hoàng Việt Khánh, Nguyễn Chí Tuyến, Nguyễn Vũ Bình",…

Trong cuốn sách “Bình mới, rượu cũ” của Thiếu tướng, PGS, TS. Nguyễn Bá Dương đã chỉ rất rõ: Các thế lực thù địch sử dụng chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam là thường tung ra những định kiến chính trị, bằng mọi phương cách, tung tin, bịa đặt, nào là “Việt Nam thiếu văn hóa dân chủ, không có tự do dân chủ; hạn chế quyền riêng tư của công dân”; nào là “Việt Nam vi phạm nghiêm trọng quyền con người”, “Việt Nam đàn áp dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên”…

Bản chất việc dựng lên những câu chuyện hoang đường, phi lý ấy đều có mục đích, dã tâm, thế lực thù địch nhắm vào đó là để kích động những phần tử cơ hội, phản động, bất đồng quan điểm của Đảng, Nhà nước và chế độ của ta, tập hợp, tạo dựng phe cánh, nhằm “gây điểm nóng” về xung đột sắc tộc, tôn giáo hay rối loạn tình hình chính trị để chờ có điều kiện cơ hội thì tổ chức gây bạo loạn.

Có thể thấy rằng, việc nhận diện, vạch trần đúng và đầy đủ về “thế lực thù địch” lợi dụng những “chiêu bài” khoác áo nhân quyền nhằm chống phá cách mạng Việt Nam trong bối cảnh hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ quyền con người nước ta. Điều có thấy rất rõ, một tổ chức phi chính phủ hay một quốc gia dù lớn mạnh cỡ nào cũng không có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác và càng không thể gây sức ép với Việt Nam bằng những nhận xét về tình hình tự do, nhân quyền một cách thiếu trách nhiệm.

Thực chất cái gọi là “dân chủ, nhân quyền” mà các thế lực chống đối đang rêu rao ầm ĩ cũng chỉ là nhằm mục đích phủ nhận con đường, mục tiêu độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn, phủ nhận nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhưng điều đó hết sức sai lầm, thực tế chứng minh cho thấy, trải qua hơn 94 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định vị thế duy nhất lãnh đạo, cầm quyền, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, Việt Nam không ngừng phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc an ninh quốc phòng, hội nhập quốc tế mạnh mẽ. Vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng đã được Nhân dân và bạn bè quốc tế thừa nhận, đánh giá cao.

Tuy vậy, nhiều tổ chức và cá nhân vẫn luôn ra sức phủ nhận, bác bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và đây là âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước ta, phá hoại những thành quả mà toàn thể nhân dân Việt Nam. Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị, hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác để phát hiện, phòng chống, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả, vạch trần và đập tan thủ đoạn “lợi dụng nhân quyền” của thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam.

Thành tựu bảo vệ, thực thi quyền con người ở Việt Nam là không thể phủ nhận

 Với sự quan tâm thường xuyên của Đảng, Chính phủ, những năm qua, Việt Nam luôn nhất quán chính sách thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích thiếu trong sáng, vẫn có một số tổ chức quốc tế cố tình đưa ra nhiều nhận định phiến diện nhằm phủ nhận thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam.

Thời gian gần đây, nhiều tổ chức quốc tế đã những báo cáo thiếu khách quan về tình hình nhân quyền và công tác bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Điển hình là ngày 29/5 vừa qua, Liên minh Châu Âu (EU) đã công bố Báo cáo thường niên về nhân quyền và dân chủ trên thế giới năm 2023. Trong bản báo cáo này, EU đã đưa ra một số nhận định, đánh giá không đúng về việc bảo đảm thực thi quyền con người ở Việt Nam. Liên minh Châu Âu cho rằng, không gian xã hội dân sự ở Việt Nam ngày càng bị thu hẹp. Đồng thời, kêu gọi Việt Nam trả tự do cho tất cả những người bị giam giữ vì thực hiện quyền tự do ngôn luận.

Nội dung Báo cáo thường niên về nhân quyền và dân chủ trên thế giới năm 2023 do Liên minh Châu Âu công bố đã đưa ra những nhận định thiếu khách quan và thiếu thiện chí đối với Việt Nam khi cho rằng: Các nhóm dân tộc thiểu số và các nhóm tôn giáo tiếp tục là nạn nhân của sự sách nhiễu của chính quyền. Báo cáo còn bày tỏ quan ngại về tình hình của những người bảo vệ nhân quyền, sự siết chặt không gian và môi trường làm việc đối với các tổ chức xã hội dân sự.

Quyền con người ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo vệ. (Ảnh: TL). 

Trước đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 do Bộ Ngoại giao Mỹ công bố vào cuối tháng 4/2024 cũng đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Theo đó, Báo cáo này nhận định là “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”; “Việt Nam vi phạm nhân quyền”;… Báo cáo này đề cập đến một số cá nhân mà họ gọi là “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”,... Điển hình như Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Bùi Tuấn Lâm,… Song thực tế, đây lại là những đối tượng có các hành vi vi phạm pháp luật, đã bị bắt giữ, điều tra, xét xử và tuyên án phạt với những bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội.

Đặc biệt, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn thể hiện rõ cách nhìn phiến diện, một chiều khi cho rằng “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Nhưng thực tiễn nhiều năm trở lại đây, internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Tính đến đầu năm năm 2024, Việt Nam ghi nhận có khoảng 78,44 triệu người dùng internet; số lượng người dùng mạng xã hội là khoảng 72,70 triệu người, chiếm 73,3% dân số. Đặc biệt, số lượng kết nối di động tại Việt Nam đạt tới 168.5 triệu, tương đương 169.8% dân số. Nhờ đó, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Như vậy, internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như các nhìn nhận trong Báo cáo nói trên.

 Người dân Việt Nam luôn được tạp điều kiện để tiếp cận internet. (Ảnh: Hoàng Chung).

Ở góc độ tiếp cận khác, các chuyên gia cho rằng, nhân quyền là vấn đề mang tính phổ quát của toàn cầu. Tuy nhiên, với mỗi quốc gia, dân tộc, tùy theo đặc điểm văn hoá, lịch sử đều có những tiêu chuẩn, quy định riêng. Đối với Việt Nam, thực tế thời gian qua cho thấy, Việt Nam luôn tôn trọng, bảo vệ nhân quyền, quyền con người và có những hành động cụ thể thực thi quyền con người theo những công ước mà Việt Nam đã ký kết. Tiêu biểu là việc Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục bỏ án tử hình ở 8 tội danh; không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội. Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế. So với nhiều nước, Việt Nam không thua kém về số lượng các công ước đã ký kết. Ngay cả nước Mỹ hiện nay vẫn là nước duy nhất trên thế giới chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về trẻ em năm 1989. Quốc gia này cũng chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966.

Xin dẫn lời của Thủ tướng Phạm Minh Chính: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no, và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người” [1]. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân” [2]. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng… Và có lẽ, nhân quyền của con người ở Việt Nam được bảo đảm rõ nét nhất chính là trong quá trình chống đại dịch COVID-19. Khi mà Đảng, Chính phủ đã áp dụng mọi biện pháp nhằm bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân, ngăn chặn và đẩy lùi đại dịch.

Những nội dung ở trên đã cho thấy phần nào các thành tựu quan trọng trong bảo vệ, thực thi quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu đó đã được nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Minh chứng rõ nhất là Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014 - 2016). Điều này thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Việt Nam trong bảo vệ và thực thi quyền con người.

Thành tựu bảo vệ, thực thi quyền con người ở Việt Nam là không thể phủ nhận. Thiết nghĩ, những nhận định phiến diện, thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề quyền con người ở Việt Nam cần bị đấu tranh, lên án mạnh mẽ, qua đó đưa đến sự nhìn nhận khách quan, toàn diện, chính xác về những thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam hiện nay./.

Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái về quyền con người ở Việt Nam hiện nay

 Quyền con người hay nhân quyền là vấn đề luôn được quan tâm và bàn luận từ rất sớm. Đồng thời, quyền con người là vấn đề nhạy cảm mà nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam luôn chú trọng thực hiện nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân của đất nước, đồng thời qua đó cũng nhằm bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.

Ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được ghi nhận đầu tiên tại Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay sau khi giành được độc lập năm 1945. Sau đó, quyền con người, quyền công dân tiếp tục được khẳng định và mở rộng tại các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013. Cùng với đó Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng thời tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn xác định con người là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các quan điểm này được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011); Chỉ thị số 12-CT ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới. Đến Đại hội khóa XIII của Đảng trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã nhất quán tiếp cận vấn đề quyền con người gắn với quyền dân tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho nhân dân Việt Nam. 

Mặc dù luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đặt mục tiêu nhưng các vấn đề về quyền con người vẫn thường xuyên bị các tổ chức, nhóm, hội phản động lợi dụng, chống phá nhằm tạo làn sóng dư luận không tốt. Theo dõi, đấu tranh trên nhiều phương tiện báo, đài, mạng xã hội… có thể thấy một số phương thức được các tổ chức, nhóm, hội phản động sử dụng để lôi kéo nhân dân của chúng ta tin là đúng và làm theo gây bất ổn dư luận xã hội. Các thủ đoạn này thường được biểu hiện dưới các hình thức sau:

Thứ nhấtđánh tráo khái niệm. Đây là hành động thay thế khái niệm này bằng khái niệm khác, khiến người ta hiểu sai về sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan nhằm đạt một mục đích nào đó. Những khái niệm được đánh tráo nhằm phủ nhận thành tựu của cách mạng; thổi phồng khuyết điểm, tồn tại của Việt Nam, bôi đen hiện thực, gieo rắc hoài nghi trong nhân dân và cán bộ, quy chụp nguyên nhân là do đường lối sai, sự lãnh đạo, quản lý yếu kém của Đảng và Nhà nước. Kích động chia rẽ nội bộ, tung ra những luận điệu trong Đảng, trong Trung ương, Bộ Chính trị có phe này, phái kia; bịa đặt, xuyên tạc lịch sử; vu cáo, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, kể cả Bác Hồ. Những luận điệu thường được tung ra, truyền bá vào từng thời điểm cụ thể như những ngày lễ lớn của đất nước, trước và trong các kỳ đại hội của Đảng… đánh vào tâm lý một bộ phận nhân dân, nhất là những người dân dễ bị kích động, trình độ nhận thức chưa cao, từ đó gieo rắc hoang mang, nghi ngờ trong lòng dân, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Thứ haixuyên tạc mục tiêu, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đưa ra định hướng phát triển đất nước giải đoạn 2021 - 2030: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”. Chính vì vậy, càng ngày Đảng và Nhà nước ta càng có nhiều chính sách, chủ trương nhằm dành sự quan tâm đến nhân dân, đảm bảo quyền con người và sự phát triển con người đồng đều, toàn diện. Song, các thế lực thù địch, phản động lại luôn tìm mọi cách xuyên tạc mục tiêu, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Thứ balợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân kích động vấn đề dân tộc thiểu số và xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo.Về vấn đề này, các tổ chức, nhóm, hội phản động cố tình cho rằng Việt Nam có hai chính sách tôn giáo: (1) Chính sách bảo đảm trên hình thức và “chính sách” không bảo vệ, không bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong thực tế thông qua “cơ chế xin - cho”; (2) Tạo lập các “tôn giáo quốc doanh”. Đồng thời chúng xuyên tạc, vu cáo, chỉ trích các văn bản, chính sách, pháp luật về tôn giáo và lợi dụng các vụ việc và việc Nhà nước xử lý các đối tượng, vụ việc phức tạp liên quan tới tôn giáo. Các thế lực phản động xuyên tạc rằng: nhiều văn bản pháp luật Việt Nam về dân tộc không tương đồng với các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Chúng còn lợi dụng niềm tin tôn giáo của một bộ phận nhân dân theo đạo để xuyên tạc, lợi dụng các quyền đã có của họ biến thành không có để đòi quyền tự do tạo dư luận như một bài trên Youtube với tiêu đề “Chúng ta có quyền tự do mặc áo nâu, tự tu, cạo đầu”. Hay chúng còn lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng lôi kéo đồng bào các dân tộc thiểu số đấu tranh đòi thành lập “Vương quốc Mông”, “Nhà nước Đêga”.

Ngoài những phương thức trên, các tổ chức, nhóm, hội phản động, chống phá còn sử dụng nhiều cách thức khác nhau một cách tinh vi như lồng ghép một số nội dung không đúng vào các bài viết, tin bài bàn luận về một vấn đề nào đó trên mạng xã hội nhằm định hướng dư luận.

Để đấu tranh với các quan điểm, luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch về quyền con người bên cạnh việc nhận diện đúng thông tin đưa ra thì chúng ta cần có các biện pháp để ngăn chặn sự lan tỏa thông tin, xóa bỏ triệt để thông tin và cung cấp thông tin đúng sự thật cho nhân dân.

Trước hết phải luôn nâng cao tinh thần học tập chính trị, giữ vững lập trường, tư tưởng. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để thực hiện giải pháp này, trước hết các tổ chức trong hệ thống chính trị cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về hệ tư tưởng của Đảng, về những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng, chống dịch bệnh.

Bên cạnh đó cần nhận diện chính xác và tuyên truyền đến mọi cán bộ, đảng viên, và tầng lớp Nhân dân về những đối tượng, nhóm đối tượng, thủ đoạn, phương thức và những luận điệu xuyên tạc mà chúng sử dụng nhằm ra sức chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta hiện nay. Tăng cường hoạt động quản lý, kiểm soát đối với các trang mạng xã hội và chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách có hiệu quả. Chủ động phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ, ngăn chặn sớm các tin tức xấu độc trên các trang mạng xã hội.

Cùng với đó, luôn luôn cảnh giác trước các thông tin từ những nguồn không chính thống, đặc biệt là các thông tin được chia sẻ trên mạng xã hội. Tuyệt đối không chia sẻ những thông tin từ nguồn không chính thống, chưa được kiểm chứng. Nếu biết rõ thông tin đó là không đúng thông qua các trang mạng xã hội có thể báo cáo bài viết, video đó trên trang chủ. Phổ biến tới toàn thể cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân cũng cần thực hiện 5K để phòng tránh (không tin ngay, không vội bấm “thích”, không thêm thắt, không kích động, không vội chia sẻ). Đính chính ngay những thông tin không đúng bằng nguồn tin chính xác, chỉ rõ luận điểm, thông tin không đúng đã được đăng tải.

Có thể thấy, việc đấu tranh, phản bác những luận điểm xuyên tạc, không đúng về quyền con người là một quá trình dài, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta mà nguồn lực lượng chính là đảng viên, nhân dân. Qua từng thời kỳ cùng với sự phát triển của xã hội đã phát triển nhiều hình thức tinh vi xuyên tạc của các thế lực thù địch về quyền con người nhằm vào chính quyền ta. Các thế lực thù địch không từ bỏ bất kỳ cơ hội nào khi có thể để chống phá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Do đó để bảo vệ quyền con người mà nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã cùng đấu tranh, gìn giữ, bảo vệ và phát triển mỗi đảng viên cần nêu cao hơn nữa tinh thần yêu nước, đề cao tinh thần cảnh giác và luôn giữ vững niềm tin vào Đảng và đường lối, chính sách của Đảng đã đề ra./.


Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết

 Cuốn sách của tư duy, tầm nhìn và sự tâm huyết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam

Cuốn sách Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một đóng góp quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận và cơ sở thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Cuốn sách là minh chứng cho thấy bước trưởng thành, phát triển về tư duy lý luận và năng lực lãnh đạo thực tiễn của Ðảng ta đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta tin tưởng sâu sắc, việc ra mắt cuốn sách, cùng với sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng, Nhà nước, sự vào cuộc đồng bộ, nhịp nhàng của cả hệ thống chính trị, sự đồng tình, ủng hộ của đội ngũ trí thức, của văn nghệ sĩ, các tầng lớp Nhân dân, sự nghiệp chấn hưng, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong thời gian tới; trực tiếp góp phần xây dựng và phát triển đất nước ta phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Chiêu trò mới của các thế lực thù địch trên không gian mạng

 Phương thức thông tin của tin đồn có nhiều dạng thức mới, nhưng về bản chất vẫn chủ yếu xung quanh ở các dạng thức.

Thứ nhất, tin đồn kiểu thật - giả lẫn lộn. Sử dụng thông tin có thật về các vụ án tham nhũng đã, đang, sẽ được xem xét, xử lý từ các nguồn thông tin chính thống của các báo, tạp chí trong nước, rồi thêm “gia vị’, nhào nặn để bôi nhọ, xuyên tạc cá nhân lãnh đạo, từ đó quy chụp, nói xấu chế độ.

Thứ hai, tin đồn kiểu giả mạo 100%. Đây là những tin giả, không có thật, do một số phần tử phản động, cơ hội chính trị tưởng tượng ra kịch bản như thật để lừa bịp người nhẹ dạ cả tin, nhằm kích động, hoặc tôn thờ, ca tụng một cá nhân, nhưng lại nói xấu một hay vài cá nhân lãnh đạo khác. Mục tiêu của chúng là kích động, gây mất đoạn kết nội bộ lãnh đạo nhằm chia giẽ nội bộ, dựng lên cái gọi là phe, nhóm lãnh đạo cấp cao tỉnh A, tỉnh B hay miền Trung, miền Nam, miền Bắc...

Đáng chú ý là chủ của các thông tin xấu độc này là những phần tử phản động, cơ hội chính trị ngoài nước. Họ là những kẻ phản động, bất mãn chế độ, chuyên “cạo chữ trên bàn phím”, ngồi cách xa Việt Nam hàng vạn cây số nhưng lại có vẻ như “người trong nội bộ”, ngụy tạo lên những chuyện hoang đường, hoàn toàn không có thật, suy diễn, thậm chí gắp lửa bỏ tay người, chọc gậy bánh xe để kích động, chia giẽ, lý gián nội bộ lãnh đạo...

Nguy hiểm hơn là lợi dụng tâm lý tò mò của không ít người sử dụng các nền tảng mạng xã hội trong nước, chúng sẻ chia thông tin giả trên nhiều nền tảng mạng xã hội, nhất là tiktok, facebok, youtube... len lỏi đưa lên nhiều nhóm facebook có số lượng thành viên rất đông để nhân rộng, lan tỏa nhanh thông tin. Từ  một vài người đến nhiều nhóm sử dụng các nền tảng mạng xã hội ở trong nước, hàng vạn người chia sẻ, bình luận, từ  đó hình thành làn sóng tin đồn, gây tâm lý bán tín, bán nghi, hoang mang trong dân chúng, cộng đồng mạng. Từ mạng ảo, các dạng tin đồn được các faceboker, tiktoker ra đời sống thực, rỉ tai nhau, lan truyền các tin đồn, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong xã hội.

Chính vì thế, hệ lụy, tác động từ các dạng tin đồn đã, đang gây hậu quả xấu, tác động đến tâm trạng, tư tưởng, an ninh tư tưởng trên không gian mạng. Ngoài tâm lý tò mò của cộng đồng mạng làm cho tin đồn - thông tin xấu độc lâu nay vẫn có đất sống, có nguyên nhân chủ quan từ chính chúng ta. Chúng ta thiếu tính chủ động, kịp thời ngăn chặn, để cho các tin đồn có thời gian dài có đất sinh sôi, nảy nở, lan truyền, tạo thành làn sóng tin giả tán phát mạnh mẽ trên mạng xã hội. Vẫn xảy ra tình trạng tắc trách, thờ ơ, thiếu tính đồng bộ, hiệp đồng tác chiến giữa các cấp, các cơ quan, đơn vị trong xử lý các tình huống tư tưởng và ngăn chặn tin đồn. Chúng ta còn để khoảng trống, thiếu các thông tin chính thống, dẫn dắt, chi phối trận địa tư tưởng trên không gian mạng, do các thông tin chính thống đăng tải để phủ định các tin đồn, tin giả, từ các cơ quan báo chí không kịp thời.

Để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi hiệu quả các thông tin xấu độc, nhất là các dạng tin đồn thất thiệt, góp phần giữ vững an ninh tư tưởng trên không gian mạng, rất cần triển khai một số giải pháp sau:

Một là, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, cộng đồng mạng trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị trên không gian mạng. Trong đó, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới và Luật An ninh mạng.

Trong đó, cần đa dạng hóa các phương thức tuyên truyền, bao gồm cả tuyên truyền miệng và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hằng tháng hoặc đột xuất, các cấp ủy Đảng, hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên cần quan tâm lồng ghép, đưa thông tin chuyên đề đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần âm mưu, thủ đoạn, bản chất của các tin đồn thất thiệt trong các cuộc họp chi bộ và các hội nghị báo cáo viên.

Để ngăn chặn tin đồn thật thiệt, không để lan truyền các thông tin xấu độc trên không gian mạng, các cơ quan báo chí cần đẩy mạnh tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; kịp thời phản bác các tin đồn thất thiệt trên mạng interet và các nền tảng xã hội.

Hai là, tổ chức đấu tranh thường xuyên, kịp thời với các thông tin xấu độc, các tin đồn lan truyền trên mạng xã hội. Khơi dậy ý thức cảnh giác cao độ của mỗi công dân, nhóm sử dụng và cộng đồng mạng, nhất là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên... khi tham gia các mạng xã hội. Các cấp ủy Đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội và hệ thống các trường từ trung học phổ thông đến các trường đại  học cần thường xuyên tổ chức các hội nghị, các cuộc họp chuyên đề về đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, để mỗi công dân mạng nâng cao ý thức đấu tranh, tự tạo cho mình sức đề kháng, nhận thức rõ bản chất đúng - sai của thông tin xấu độc, không bị mắc bẫy khi chia sẻ, lan truyền các tin đồn, vi phạm Luật an ninh mạng.

Ba là, tăng cường phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan, đơn vị chức năng trong đấu tranh tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Đấu tranh kịp thời với các hành vi, vi phạm của các mạng xã hội facebok, google, tiktok... Yêu cầu các mạng xã hội phải tuân thủ pháp luật, bóc gỡ các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng đạo đức xã hội và vi phạm luật pháp của Việt Nam.../.

Cảnh giác với chiêu trò mới của các thế lực thù địch trên không gian mạng

 Những ngày gần đây, mạng xã hội dậy sóng nhiều tin đồn xuyên tạc sự thật, với tần suất lan truyền chóng mặt, gây tác hại đến công chúng tiếp nhận thông tin. Thực chất thì những thông tin xấu độc dạng tin đồn lan truyền trên không gian mạng xã hội không có gì mới, vẫn chỉ là “bình cũ, rượu mới”.

Kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước trên không gian mạng. 

Chỉ có điều, tin đồn gần đây được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị nhào nặn gắn với những vụ án tham nhũng, đang được dư luận quan tâm, kết hợp với những phương thức truyền thông mới hiện đại, nhất là ứng dụng công nghệ AI, đưa giọng nói “thổi” vào các hình ảnh, video cắt ghép. Chiêu trò mới này tạo cảm giác cho người đọc, người xem dễ phân tâm, lung lạc giữa đúng - sai, thật - giả. Vì thế, với các chiêu trò mới của các phần tử phản động, cơ hội chính trị, làm cho các dạng tin đồn được lan truyền, nhân bản rất nhanh, tạo tâm lý đám đông, a dua vào những sự kiện vốn không có thật trên mạng.

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2024

 

Cảnh giác trò "núp bóng báo chí"

Sau cuộc họp chi bộ, thấy ông Hùng, ông Nam chưa về, Bí thư Chi bộ Việt liền hỏi.

- Hai đồng chí còn có việc gì phải không?

Ông Nam giọng trầm tư: Chẳng là, tôi có đứa cháu nội, sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành báo chí, hỏi về tổ chức “phóng viên không biên giới”. Chưa hiểu rõ tổ chức này như thế nào nên tôi nói với cháu để tìm hiểu rõ sẽ nói với cháu.

Nghe xong, ông Việt từ tốn:

- Tôi thấy việc trao đổi, chia sẻ thông tin rất tốt. Nếu chúng ta chưa hiểu, chưa rõ mà phát ngôn, tuyên truyền hay chia sẻ, bình luận trên mạng sẽ vô tình tiếp tay cho kẻ xấu đấy.

Nói xong ông Việt lấy điện thoại mở Báo Nhân Dân và Báo Quân đội nhân dân điện tử đưa ông Hùng, ông Nam đọc rồi nói: Đây là hai tờ báo chính thống, có những bài đấu tranh phản bác kịp thời cái gọi là “tổ chức phóng viên không biên giới” (RSF), cố tình xếp Việt Nam đứng thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí, cho Việt Nam thuộc “vùng trũng của tự do báo chí”. Đây không phải là lần đầu tiên tổ chức này đưa ra bảng xếp hạng và những nhận định phiến diện, thiếu khách quan, phản ánh không đúng về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Thực tiễn những năm qua cho thấy, việc bảo đảm tự do báo chí, tự do ngôn luận là mục tiêu nhất quán của Đảng, Nhà nước ta, được khẳng định và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và các quy định của pháp luật, phù hợp với các quy định của quốc tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ.

- Vậy thông tin tổ chức này lên tiếng bênh vực đối với những nhà báo bị bắt giam là sao vậy ông? Ông Hùng hỏi thêm.

- Không chỉ Việt Nam mà tất cả quốc gia trên thế giới đều khẳng định rõ: Tự do ngôn luận, tự do báo chí không thể nằm ngoài lợi ích của quốc gia, dân tộc; tự do phải trong khuôn khổ luật pháp quốc gia; không chỉ riêng báo chí mà bất kỳ lĩnh vực nào khác của đời sống xã hội cũng phải hoạt động theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Một thực tế không thể phủ nhận là ở Việt Nam, không người nào bị kết án vì thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Những trường hợp bị xử lý hình sự đều do thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân, gây bất bình trong dư luận. Tuy nhiên “tổ chức phóng viên không biên giới” và các thế lực thù địch đã lợi dụng những vụ việc này để rêu rao Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí đấy các ông ạ.

Nghe ông Việt phân tích, ông Nam, ông Hùng hiểu ra vấn đề. Ông Nam bắt tay ông Việt nói: Cảm ơn ông đã giúp chúng tôi hiểu rõ bản chất vấn đề. Tôi sẽ nói cho cháu tôi hiểu được cái “tổ chức phóng viên không biên giới” và mưu đồ nham hiểm của bọn phản động nhằm chống phá cách mạng Việt Nam!


 

“Định vị” tự do báo chí ở Việt Nam qua lăng kính đa chiều, khách quan

Hệ thống báo chí, truyền thông của Việt Nam đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và là thành quả từ những nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí.

Thực tiễn sinh động liên quan tới vấn đề này chính là cơ sở để bác bỏ những đánh giá thiếu khách quan, thiển cận và thiếu thiện chí về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam.

Môi trường sôi động cho giới báo chí

Ở Việt Nam, báo chí được coi là kênh kết nối để phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân, từ đó phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc... Việc Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do của con người, trong đó có quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tiếp cận thông tin được thể hiện bằng những quy định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013 cũng như các văn bản pháp luật liên quan. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 nhấn mạnh mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, thì Luật Báo chí năm 2016 quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò.

“Định vị” tự do báo chí ở Việt Nam qua lăng kính đa chiều, khách quan
Báo chí được tạo điều kiện tác nghiệp tại Việt Nam. Ảnh minh họa: cand.com.vn 

Những thành quả trong bảo đảm quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam đã được Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt nêu rõ trong cuộc họp báo ở Hà Nội ngày 15-4-2024 và trong bài phát biểu khai mạc Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 4 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, diễn ra tại Geneva (Thụy Sĩ) ngày 7-5-2024. Theo đó, sau 26 năm kết nối internet, Việt Nam đã có hệ thống công nghệ viễn thông hiện đại với độ phổ cập cao. Tính đến tháng 9-2023, Việt Nam có 78 triệu người sử dụng internet, tăng 21% so với số thuê bao năm 2019. Số thuê bao băng rộng di động là 86,6 triệu thuê bao, tăng 38% so với năm 2019. Theo thống kê của Hội Nhà báo Việt Nam, tính đến hết năm 2023, Việt Nam có 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí và 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí cũng đã lên tới khoảng 41.000 người.

Chẳng thế mà chuyên gia phân tích chính trị quốc tế Grigory Trofimchuk gần đây đã có bài viết với nhan đề “Việt Nam: Thể chế xã hội chủ nghĩa tôn trọng quyền con người” đăng trên một tờ báo của Nga, trong đó đánh giá cao sự đa dạng về loại hình và nội dung của các phương tiện truyền thông tại Việt Nam với nhiều cơ quan phát thanh, truyền hình và cho rằng đây là minh chứng cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin của Việt Nam.

Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều hãng thông tấn, truyền thông quốc tế lớn của thế giới khiến hoạt động báo chí tại Việt Nam ngày càng trở nên sôi động và quan trọng hơn là giúp công chúng dễ dàng tiếp cận thông tin nhiều chiều liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội. Với người dân, các trang mạng xã hội như Facebook, YouTube, Zalo, Instagram... hiện trở thành phương tiện hữu ích để họ chia sẻ, tiếp nhận thông tin, bày tỏ quan điểm cá nhân về mọi vấn đề. Nhờ mạng 4G đã bao phủ xấp xỉ 99,8% dân số nên người dân Việt Nam giờ đây có thể kết nối với các cơ quan, tổ chức hành chính từ Trung ương tới địa phương thông qua mạng xã hội để giải quyết các thủ tục hành chính, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; thậm chí là thông báo các vấn đề, sự việc mà họ cho là tiêu cực trong cuộc sống.

Cũng cần nói thêm rằng, các cơ quan báo chí, truyền thông ở Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò, chức năng phản biện xã hội của mình. Bằng chứng là thể loại phóng sự điều tra trong khuôn khổ Giải Báo chí quốc gia hằng năm và Giải Báo chí toàn quốc về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhận được sự quan tâm, tham gia của các nhà báo, phóng viên, cộng tác viên của các cơ quan báo chí trên cả nước.

Những con số mơ hồ và đánh giá mang tính áp đặt

Bất chấp những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ, thúc đẩy quyền tự do báo chí đã được các nước ghi nhận, đánh giá cao, một số cá nhân, tổ chức vẫn cố tình đưa ra những đánh giá mang tính áp đặt, định kiến và thiếu khách quan về vấn đề này.

Nhìn vào những thành quả trong bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam, dư luận cả trong và ngoài nước có lẽ vô cùng bất ngờ và thất vọng về cái gọi là báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2024” mà tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) tung ra hồi đầu tháng 5 vừa qua. Trong đó, RSF xếp Việt Nam thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí và cho rằng, nguyên nhân khiến Việt Nam nằm trong “nhóm các quốc gia có nền báo chí tồi tệ nhất thế giới” là do “cầm tù nhà báo có hệ thống”.

Tự do báo chí được coi như một trong những nền tảng để các cá nhân, tổ chức nói lên ý kiến, chia sẻ quan điểm và ý tưởng, cũng như tham gia các cuộc thảo luận, tranh luận và thực hiện chức năng phản biện nhằm giúp xã hội phát triển. Nhưng báo chí và hoạt động báo chí phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia để không trở thành “báo chí vô chính phủ”. Trên thực tế, ở Việt Nam không có nhà báo chân chính nào bị giam giữ chỉ vì thực hiện đúng vai trò của mình trong việc "nói thay tiếng nói của nhân dân", đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên phía trước. Cái mà RSF gọi là “cầm tù nhà báo có hệ thống” thực chất là việc xử phạt những người được gán mác “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ” do vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc một số nhà báo có hành vi vi phạm pháp luật, đánh mất đạo đức của người làm báo, lợi dụng quyền tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của đất nước và người dân. Xử lý những người vi phạm pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm tổn hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc hẳn không phải chỉ riêng Việt Nam, mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phải làm việc đó.

Những cá nhân, tổ chức thường xuyên phê phán tự do báo chí ở Việt Nam và tung hô tự do báo chí của phương Tây có lẽ nên tham khảo những ví dụ được nêu trong báo cáo mà Trung tâm Nghiên cứu Pew công bố hồi tháng 4 năm nay. Chẳng hạn, trong báo cáo này, Trung tâm Nghiên cứu Pew cho biết, đại đa số người Mỹ coi quyền tự do báo chí là rất quan trọng đối với sự thịnh vượng của xã hội, nhưng cũng có nhiều người bày tỏ lo ngại về những hạn chế tiềm ẩn đối với quyền tự do báo chí ở Mỹ. Cụ thể, cứ 5 người Mỹ thì có 1 người nói rằng giới truyền thông không được tự do hoặc hoàn toàn không được tự do đưa tin ở Mỹ. Ngoài ra, 41% người Mỹ “cực kỳ hoặc rất lo ngại” về những hạn chế tiềm tàng đối với quyền tự do báo chí ở nước này và 29% bày tỏ thái độ “có phần lo ngại”. Vậy thì ở Mỹ, có hay không có tự do báo chí và ai mới có thể là người đưa ra câu trả lời chính xác?

Thế mới thấy, việc đánh giá tình hình tự do báo chí ở Việt Nam và ở bất kỳ quốc gia nào khác đều cần phải dựa trên thực tế có kiểm chứng và cái nhìn đa chiều, chứ không thể chỉ dựa trên thông tin do một số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị cung cấp để rồi đưa ra những con số mơ hồ, đầy tính áp đặt giống như cách RSF đang làm.