Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

Phòng, chống xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng

 Không gian mạng là mạng lưới kết nối toàn cầu của các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm internet, hệ thống máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, là môi trường đặc biệt mà con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian.

Ảnh minh họa: TTXVN 

Nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, những năm qua, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng thế mạnh của không gian mạng để triển khai các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia (ANQG) nước ta.

Chúng triệt để lợi dụng các kênh truyền hình trên internet, trang web và mạng xã hội để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc, bóp méo thực tế những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong dân tộc, tôn giáo nhằm vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo, tạo cớ để bên ngoài can thiệp nội bộ nước ta.

Chúng còn lợi dụng công nghệ để cắt dán, trích dẫn sai lệch các hình ảnh, tài liệu nhằm làm cho nhân dân và cộng đồng quốc tế hiểu không đúng về chính sách, pháp luật của Nhà nước ta và các thành tựu đã đạt được trong việc xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội, qua đó hòng xuyên tạc tình hình thực tế trong nước. Điển hình như năm 2022, tổ chức phản động Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS) đã tổ chức Diễn đàn trực tuyến với chủ đề “Hội luận về Thiên Chúa giáo ở vùng Tây Nguyên - thách đố và triển vọng” nhằm xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, kích động hận thù, vận động người dân trong nước tham gia diễn đàn, kêu gọi quốc tế gây sức ép yêu cầu Nhà nước Việt Nam “cải thiện tự do tôn giáo, tín ngưỡng”.

Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã phát hiện hơn 3.000 trang web, blog, tài khoản mạng xã hội và gần 100 hội, nhóm trên mạng xã hội Facebook thường xuyên đăng tải thông tin chống Đảng, Nhà nước Việt Nam, kích động gây rối an ninh, trật tự, kích động biểu tình, bạo loạn, thực hiện “cách mạng màu”,“cách mạng đường phố”...

Bên cạnh đó, các tổ chức và lực lượng phản động, thù địch lợi dụng không gian mạng để tiến hành các hoạt động gián điệp, thu thập tin tức chống Việt Nam thông qua việc tung ra những phần mềm chứa các mã độc, phần mềm gián điệp được cài sẵn, các ứng dụng miễn phí trên điện thoại. Chúng sử dụng kỹ thuật hiện đại lợi dụng lỗ hổng bảo mật để xâm nhập chiếm đoạt bí mật nhà nước, lấy cắp phát minh, sáng chế nhằm gây thiệt hại cho kinh tế nước ta.

Chúng còn lợi dụng internet, mạng xã hội để chia sẻ công cụ, cách thức, thủ đoạn phạm tội hoặc làm lây nhiễm virus, phần mềm gián điệp, mã tin học độc hại... nhằm phá hoại kinh tế, cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn của nước ta. Theo cơ quan chức năng, tính từ đầu năm 2023 đến nay, đã có hơn 13.750 cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam gây ra sự cố nghiêm trọng. Riêng trong quý I-2024, các cơ quan chức năng đã phát hiện 32.265 nguy cơ tấn công mạng nhằm vào các mạng công nghệ thông tin trọng yếu của các cơ quan Đảng, Chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2023.

Nghiêm trọng hơn, chúng lợi dụng internet, mạng xã hội để kích động, lôi kéo người dân tham gia hoạt động chống phá an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở nước ta; đồng thời, móc nối, cấu kết với cán bộ, đảng viên có biểu hiện tha hóa, biến chất, số có tư tưởng "cấp tiến" là lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành để mua chuộc, lôi kéo hình thành tổ chức phản động. 

Dưới chiêu bài “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, “yêu nước”, chúng âm mưu hình thành, phát triển “xã hội dân sự” và các tổ chức chính trị-xã hội, hội nhóm bất hợp pháp như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“ Nhóm công dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”... Thông qua internet, mạng xã hội, các đối tượng bên ngoài và trong nước cấu kết, móc nối với nhau để lôi kéo, mua chuộc người tham gia tổ chức phản động. Trong đó, bên ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động; số đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thành lập tổ chức, hội nhóm, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài xuyên tạc; điển hình như các tổ chức phản động: "Việt Tân", "Tuổi trẻ yêu nước"... 

Cùng với đó, cũng phải thấy một thực tế là, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động xâm phạm ANQG trên không gian mạng, thời gian qua, công tác này còn tồn tại những khó khăn, hạn chế nhất định. Đó là công tác quản lý công nghệ viễn thông, bảo mật thông tin nội bộ của không ít cơ quan nhà nước, cá nhân tại Việt Nam còn sơ hở, chưa được bảo mật tốt. Hệ thống pháp luật của nước ta trong lĩnh vực quản lý mạng xã hội, internet và đấu tranh, xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao đang trong quá trình đồng bộ để đáp ứng tình hình thực tế. Công tác tuyên truyền, định hướng thông tin và đấu tranh phản bác các thông tin xấu, độc, quan điểm sai trái, thù địch vẫn có lúc thụ động, thiếu sắc bén.

Lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm lợi dụng internet, mạng xã hội còn mỏng; trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật còn khó khăn. Trong khi đó, tội phạm lợi dụng internet, mạng xã hội là những đối tượng có nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và liên tục thay đổi phương thức hoạt động trên phạm vi hoạt động rộng, đặc biệt là từ nước ngoài, gây khó khăn trong phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn.   

Nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm ANQG nước ta trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, tiếp tục chủ động tăng cường công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự báo, phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, đặc biệt là phương thức hoạt động mới của các thế lực thù địch lợi dụng không gian mạng để chống phá nước ta; chú trọng nắm tình hình từ xa, nắm tình hình ngay từ trung tâm phá hoại tư tưởng ở bên ngoài để triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn. Chủ động xây dựng hệ thống thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng có khả năng chỉ huy, kết nối, chia sẻ thông tin, tiếp nhận và xử lý sớm các thông tin gây hại tới không gian mạng quốc gia. 

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về tầm quan trọng của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm ANQG nước ta, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị. Làm cho cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên thấy rõ tính hai mặt của không gian mạng; có khả năng nhận diện và “miễn dịch” với các nội dung thông tin xấu, độc, nguy hại đối với xã hội; kịp thời tố giác hành vi lôi kéo người dân vào các hoạt động vi phạm pháp luật thông qua không gian mạng.

Xây dựng ý thức và phong cách văn hóa khi tham gia mạng xã hội, internet; không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật nhà nước. Phát huy hơn nữa lợi thế của internet, mạng xã hội trong việc cập nhật thường xuyên các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những thành tựu đã đạt được trong xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.  

Ba là, phát huy vai trò của Ban chỉ đạo An toàn, an ninh mạng quốc gia, Hiệp hội An ninh mạng quốc gia trong việc tham mưu với Đảng, Nhà nước chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương hướng dẫn cán bộ, đảng viên và người dân cùng tham gia công tác bảo vệ an toàn, an ninh mạng, phát huy sức mạnh tổng hợp chung trong công tác phòng, chống hoạt động xâm phạm ANQG trên không gian mạng.   

Bốn là, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm ANQG có phẩm chất đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh nhuệ, hiện đại, có trình độ chuyên môn sắc bén trong điều tra, khám phá âm mưu, hoạt động lợi dụng không gian mạng để chống phá nước ta. Tiếp tục đầu tư, trang bị các trang thiết bị nghiệp vụ chuyên dụng và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống hoạt động này. Đầu tư trọng điểm xây dựng các đơn vị an ninh mạng, tác chiến điện tử đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ phòng thủ quốc gia trên không gian mạng. 

Năm là, tăng cường, mở rộng hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế có trình độ phát triển cao về công nghệ thông tin và an ninh mạng để trao đổi kinh nghiệm trong bảo đảm an toàn, an ninh mạng và đấu tranh phòng, chống hoạt động vi phạm pháp luật trên lĩnh vực này; tranh thủ tiếp thu công nghệ mới và hợp tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng làm công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động lợi dụng không gian mạng để xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội nước ta. 

Tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước về viễn thông, truyền thông, internet, bảo vệ bí mật nhà nước và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực này. Nghiên cứu sử dụng các giải pháp công nghệ thông tin để ngăn chặn triệt để những tin tức xấu, độc trên các trang mạng, vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung độc hại./.

Một số giải pháp phát triển nhân tố chính trị tinh thần của lực lượng quân y đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

 Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nói chung, trong đó có ngành quân y.

Đây là nhân tố then chốt, cốt lõi trong xây dựng ngành quân y vững mạnh về chính trị, phát huy tối đa sức mạnh chính trị tinh thần để hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng mới làm cho bộ đội quân y có phương hướng, mục tiêu hành động, có sức mạnh chiến đấu, là điểm tựa vững chắc nhất để xây dựng và phát huy vai trò nhân tố chính trị tinh thần, giữ vững được mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cao cả vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, hiện nay, kẻ thù đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, trong đó chúng ra sức tuyên truyền phủ nhân vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nói chung và ngành quân y nói riêng. Bởi vậy, chỉ có tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đây là điều kiện cốt yếu để nâng cao chất lượng chính trị, bản lĩnh chính trị, xây dựng phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ quân y. Từ đó, đặt ra yêu cầu ngành quân y phải luôn luôn quán triệt thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, trực tiếp là Đảng ủy quân sự Trung ương để phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

Hai là, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục tinh thần yêu nước cho lực lượng quân y trong toàn quân.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng không chỉ góp phần xây dựng, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của quân đội mà còn góp phần quan trọng xây dựng chuẩn mực giá trị, rèn luyện về đạo đức, lối sống cho cán bộ, chiến sĩ quân y. Hiện nay, với tính chất phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh trên trận địa chính trị tư tưởng, trước sự chống phá của kẻ thù và những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường đã ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến tình hình tư tưởng, tình cảm của toàn thể cán bộ, chiến sĩ quân y. Do vậy, xây dựng và phát huy vai trò nhân tố chính trị tinh thần của lực lượng quân y không thể tách rời việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Cần phải giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ quân y kiên định chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, mục tiêu lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ của Quân đội, của ngành quân y, làm cho ý chí kiên định đó trở thành lập trường chính trị không thể lay chuyển được, biến thành sức mạnh bên trong, tạo sức đề kháng trước những tác động tiêu cực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

 Bệnh viện dã chiến 2.4 tặng quà các em tại Nam Sudan

Bên cạnh đó, giáo dục phát huy cao độ tinh thần yêu nước, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, kiên quyết giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, khơi dậy trong mỗi cán bộ, chiến sĩ quân y lòng tự hào dân tộc, nêu cao ý chí quyết tâm, xây dựng niềm tin chiến thắng, tin tưởng vào khả năng chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta. Từ đó, tạo nên sức mạnh, động lực to lớn từ bên trong giúp mỗi cán bộ, chiến sĩ quân y thêm yêu quê hương, đất nước, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, đem hết tài năng, công sức cống hiến, phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Ba là, phát triển nhân tố chính trị tinh thần thông qua thực tiễn hoạt động quân sự của bộ đội quân y

Thực tiễn hoạt động quân sự của lực lượng quân y với nhiều khó khăn và phức tạp, trải rộng, đặc biệt là ở các địa bàn trọng yếu và khu vực biên giới, hải đảo. Ngành quân y chủ trương ưu tiên hướng về tuyến trước nhằm nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho bộ đội và Nhân dân; nâng cao chất lượng cứu chữa, điều trị bệnh tật và thương tích ở tuyến quân y cơ sở, hạn chế tử vong, di chứng, trả nhanh, trả nhiều quân số về tham gia huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác cứu chữa chuyên khoa và điều trị di chứng ở tuyến sau. Đồng thời nâng cao khả năng cơ động, hoàn thành nhiệm vụ thường xuyên, đột xuất và các tình huống khẩn cấp của các phân đội quân y cơ động…

Với tính chất ác liệt và sự thay đổi về phương thức tác chiến của chiến tranh hiện đại và chiến tranh công nghệ cao đòi hỏi cần phải giữ vững và phát huy cao độ bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, nhân viên quân y trong thực hiện nhiệm vụ. Thông qua các hoạt động huấn luyện, diễn tập, các hoạt động bảo đảm quân quân y ở các đơn vị, các cấp, các tình huống để bộ đội quân y hiểu rõ, nắm chắc, thực hiện tốt nhiệm vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động và lùi bước trước mọi khó khăn, gian khổ và ác liệt của thực tiễn hoạt động quân sự. Bên cạnh đó, cần đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất, vũ khí trang bị, khoa học kỹ thuật cho công tác bảo đảm quân y trong hoạt động quân sự, góp phần phát triển được nhân tố chính trị, tinh thần, tạo được sự tin tưởng, yên tâm trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Bốn là, luôn luôn phát huy cao độ, tỏa sáng hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” của người chiến sĩ quân y

Thực tiễn chứng minh, ở đâu và chỉ khi nào, mỗi cán bộ, chiến sĩ ý thức sâu sắc về sự cần thiết, tự hào và luôn tự giác làm chủ bản thân, tự giác tu dưỡng rèn luyện thì phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng được tỏa sáng, phát triển, phát huy trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Điều này tác động ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển nhân tố chính trị tinh thần trong các đơn vị quân y, trở thành những chuẩn mực, tấm gương tiêu biểu để mọi cán bộ, chiến sĩ ra sức phấn đấu, rèn luyện về mọi mặt, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức, quyết tâm bảo vệ an toàn sức khỏe, tính mạng của bộ đội và Nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Muốn vậy, cần tăng cường công tác giáo dục cho lực lượng quân y toàn quân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của tự tu dưỡng, rèn luyện đối với hình thành phẩm chất nhân cách người quân nhân cách mạng, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ”. Quán triệt và thực hiện tốt Kết luận 01/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết 847-NQ/QUTW, ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới để tạo sự thống nhất cao về tư tưởng, hành động cho lực lượng quân y toàn quân trong thực hiện các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, quân đội và Nhân dân giao phó.

Năm là, thường xuyên quan tâm, thực hiện tốt các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội và ngành quân y để phát triển hơn nữa nhân tố chính trị tinh thần cho lực lượng quân y hiện nay.

Các chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, nhân viên quân y là một bộ phận quan trọng trong chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước, Quân đội đối với các lực lượng vũ trang Nhân dân. Đó là nguồn gốc, động lực to lớn trong việc phát huy tính tích cực, tự giác, động viên, tình cảm, giữ vững ý chí của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, nhân viên quân y hiện nay, góp phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng nhân tố chính trị tinh thần. Vì vậy, các cấp ủy Đảng, người chỉ huy phải thường xuyên quan tâm, thực hiện tốt các chế độ, chính sách cụ thể đối với đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, nhân viên quân y trong toàn quân.

Như Ph.Ăngghen chỉ rõ: ‘‘ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động được’’ . Do đó các cấp chỉ huy, lãnh đạo trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chính sách đãi ngộ cần bảo đảm mềm dẻo, linh hoạt và kiên quyết trong thực hiện các chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, nhân viên để đảm bảo công bằng.

Như vậy, sức mạnh Quân đội Nhân dân Việt Nam nói chung và bộ đội quân y nói riêng là sức mạnh tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố chính trị tinh thần có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định đến việc hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phát triển nhân tố chính trị tinh thần của lực lượng quân y đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới không chỉ tuân theo những quy luật chung của quá trình phát triển nhân tố chính trị tinh thần của quân đội ta mà còn gắn chặt với những đặc điểm, nhiệm vụ riêng của ngành quân y.

Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, việc phát triển nhân tố chính trị tinh thần là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo cho lực lượng quân y luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao./.

Phát triển nhân tố chính trị tinh thần của lực lượng quân y trong tình hình mới

 Sức mạnh Quân đội Nhân dân Việt Nam nói chung và bộ đội quân y nói riêng là sức mạnh tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố chính trị tinh thần có vai trò đặc biệt quan trọng. Vì vậy, phát triển nhân tố chính trị tinh thần của lực lượng quân y đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo cho lực lượng quân y luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Sức mạnh chiến đấu của quân đội ta là tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó chính trị tinh thần giữ vị trí đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 

Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội và con người, của chiến tranh và quân đội, vai trò nhân tố chính trị tinh thần ngày càng không ngừng tăng lên.

Trải qua 78 năm xây dựng, phát triển, ngành quân y QĐNDVN không ngừng trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt, thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bộ đội, cứu chữa thương binh, bệnh binh và Nhân dân, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc tế, nhất là trong tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, cứu nạn cứu hộ...

Để có được những kết quả to lớn đầy tự hào đó, bên cạnh phát huy tối đa năng lực, trình độ, kinh nghiệm về y học và y học quân sự, Đảng, Bác Hồ, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đảng ủy và Chỉ huy Tổng cục Hậu cần đã làm tốt công tác xây dựng, phát triển nhân tố chính trị tinh thần cho lực lượng quân y toàn quân, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Những yếu tố tác động đến phát triển nhân tố chính trị tinh thần của lực lượng quân y Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

Sức mạnh chiến đấu của quân đội cách mạng là tổng hợp những nhân tố vật chất và tinh thần, quyết định trạng thái sẵn sàng chiến đấu và khả năng thực hiện nhiệm vụ tác chiến của quân đội ta. Vì vậy, phải coi trọng nâng cao chất lượng tổng hợp của các nhân tố trong một chỉnh thể thống nhất, đặc biệt là sự kết hợp giữa con người và vũ khí, nhất là trong điều kiện chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao. Trong đó, nhân tố con người với sức mạnh chính trị tinh thần to lớn - là nhân tố quan trọng hàng đầu. V.I. Lênin nhấn mạnh: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường…”

Đối với ngành quân y, việc phát triển nhân tố chính trị tinh thần trong giai đoạn hiện nay đang chịu sự tác động của nhiều yếu tố:

Thứ nhất, hiện nay, Việt Nam đang xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự nghiệp cách mạng mới mẻ chưa có trong tiền lệ lịch sử dân tộc, vì vậy, bên cạnh những kết quả đạt được của đất nước sau gần 40 năm đổi mới toàn diện, những thuận lợi và thời cơ thì vẫn còn tồn tại nguy cơ, khó khăn, thách thức đan xen nhau. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó có ngành quân y đang ra sức phấn đấu nắm chắc thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, tạo ra thế và lực mới, bảo đảm cho đất nước ổn định và phát triển bền vững. Vì vậy, cần phải có một bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm cao trong thực hiện nhiệm vụ, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang,cùng các đại biểu động viên cán bộ, nhân viên, học viên Học viện Quân y trước giờ lên máy bay vào Nam chống dịch COVID-19

Thứ hai, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay đặt ra yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng QĐNDVN tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Trong đó, chúng ta đặc biệt coi trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng nhân tố chính trị tinh thần nhằm tạo ra sức đề kháng tốt để vô hiệu hoá mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, "phi chính trị hoá quân đội" của các thế lực phản động, qua đó phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", bồi dưỡng cho quân nhân có năng lực trí tuệ để làm chủ khoa học và nghệ thuật quân sự, sử dụng tốt vũ khí trang bị kỹ thuật, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Vì vậy, đối với ngành quân y, bên cạnh công tác chuyên môn, cần tăng cường phát huy có hiệu quả nhân tố chính trị, tinh thần để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Thứ ba, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, sự phát triển của vũ khí chiến tranh, đặc biệt là vũ khí công nghệ cao, phương thức tác chiến của lực lượng quân y có nhiều thay đổi, tiến hành trên phạm vi rộng, địa hình phức tạp, khối lượng bảo đảm lớn, tính biến động cao, công tác chỉ huy, hiệp động bảo đảm khó khăn. Cùng với tính chất ác liệt của nó đặt ra đòi hỏi cao cho lực lượng quân y không chỉ đảm bảo về số lượng, tổ chức, biên chế, liên kết chặt chẽ giữa lực lượng quân y chiến lược với quân y quân khu, quân y khu vực phòng thủ tỉnh/thành phố và quân y các quân chủng, binh chủng trên chiến trường, giữa lực lượng quân y các cấp với y tế tại chỗ, y tế các ngành để có thể chi viện, hỗ trợ nhau trong quá trình đảm bảo mà còn phải làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, động viên tinh thần, phát huy cao độ phẩm chất tốt đẹp “lương y như từ mẫu” để chiến thắng mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Thứ tư, những tác động của mặt trái kinh tế thị trường ảnh hướng tới tư tưởng, tâm lý của lực lượng quân y trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Với địa bàn đóng quân trải đều khắp cả nước, từ nông thôn, đồng bằng, đô thị, thành phố đến vùng biên giới, hải đảo và cả ở nước ngoài, hiện đời sống và môi trường làm việc của một số đơn vị quân y còn nhiều khó khăn, vất vả, nhất là các đơn vị đóng quân ở những địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Vì vậy, lực lượng quân y đang hàng ngày chịu sự tác động mạnh mẽ của những mặt trái kinh tế thị trường. Hiện tượng suy thoái về tư tưởng đạo đức lối sống đã tác động một số cán bộ, nhân viên quân y không chú trọng các giá trị tinh thần, giá trị nhân văn, đề cao lợi ích vật chất, trọng kinh tế hơn chính trị, tư tưởng, quốc phòng… Những biểu hiện này tác động tiêu cực đến bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nói chung và ngành quân y nói riêng. Chính vì vậy, quán triệt và thực hiện tốt quan điểm của Đại hội XIII, cần phải “nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

Phát triển nhân tố chính trị tinh thần của lực lượng quân y trong thực hiện nhiệm vụ

Trải qua 78 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, được sự giáo dục, rèn luyện của Đảng, Bác Hồ vĩ đại và của Quân đội, phát huy truyền thống cách mạng, phẩm chất y - đức của người thầy thuốc, ngành quân y luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, sức khỏe thể chất và tinh thần của bộ đội và Nhân dân lên trên hết.

Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Luôn luôn ghi nhớ rằng người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là như người mẹ hiền”. Trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ quân y đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì Nhân dân, cứu chữa kịp thời hơn 500.000 thương binh, hơn 1,5 triệu bệnh binh, trong đó gần 60% thương binh và hơn 80% bệnh binh đã được trở lại chiến trường tham gia chiến đấu. Để làm được điều đó, chỉ có trình độ chuyên môn thôi chưa đủ mà sâu xa và có ý nghĩa quyết định nhất vẫn là bản lĩnh chính trị, lòng dũng cảm và sự thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tô thắm thêm chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khắc họa nên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” của cán bộ, chiến sĩ quân y trong lòng dân tộc.

Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đòi hỏi các bộ, chiến sĩ quân y phải tiếp tục phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp, trong đó cần chú trọng phát huy tốt hơn nữa nhân tố chính trị tinh thần để vượt qua được mọi khó khăn, thử thách. Qua thực tiễn hoạt động, càng cho thấy vai trò to lớn có ý nghĩa quan trọng của nhân tố chính trị tinh thần đối với lực lượng quân y trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vận chuyển thương binh trong chiến tranh

Nhân tố chính trị tinh thần góp phần quan trọng để bộ đội quân y hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bộ đội và Nhân dân. Với tinh thần phục vụ quên mình trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của bộ đội và Nhân dân, lực lượng quân y đã quán triệt sâu sắc và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, đặc biệt là Chương trình hành động của Bộ Quốc phòng về công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe bộ đội và Nhân dân trong tình hình mới, ngành quân y đã đẩy mạnh xây dựng lực lượng, củng cố hoàn thiện hệ thống tổ chức quân y ở các cấp, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, kỹ thuật mới để làm tốt công tác thu dung, khám, điều trị, chăm sóc sức khỏe cho bộ đội và Nhân dân.

Ở các địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, với điều kiện sống và sinh hoạt còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng với tinh thần trách nhiệm cao, các cán bộ, chiến sĩ quân y đã phát huy tốt hình ảnh cao đẹp của người chiến sĩ áo trắng, hình ảnh “bộ đội Cụ Hồ”, quân y các cấp đã làm tốt công tác vệ sinh, phòng bệnh, phòng dịch, luôn coi trọng bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bộ đội ngay từ các tuyến đơn vị cơ sở, đảm bảo quân số khỏe toàn quân luôn duy trì vững chắc trên 98%.

Đồng thời, làm tốt công tác quân dân y kết hợp, xây dựng các cơ sở khám, chữa bệnh ở các địa phương, xóa “vùng trắng về y tế”, phối hợp với lược lượng dân y tổ chức khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hàng triệu lượt người dân, trở thành địa chỉ tin cậy của Nhân dân trong việc khám, chữa bệnh, cấp cứu người bị thương, bị nạn….

Bên cạnh đó, lực lượng quân y cũng xung kích trong tham gia khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh. Hàng nghìn lượt tổ, đội quân y với tinh thần trách nhiệm cao, không quản ngại khó khăn, vất vả, hy sinh đã trực tiếp đi vào tuyến đầu để làm nhiệm vụ cứu trợ, cứu nạn, khám chữa bệnh cho nhân dân, xử lý vệ sinh môi trường các vùng thiên tai, dịch bệnh, bão lũ... Chúng ta vẫn còn nhớ, thế giới vừa trải qua đại dịch COVID-19 có tốc độ, phạm vi lây nhiễm và tỷ lệ tử vong chưa từng xảy ra trong lịch sử, gây thiệt hại nặng nề trên tất cả các lĩnh vực của nhiều quốc gia, dân tộc. Trước thực tế đó, với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, ý thức cao về nhiệm vụ phòng, chống dịch COVID-19 với những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, cán bộ, chiến sĩ quân y luôn sát cánh cùng các cấp, các ngành, toàn dân và toàn quân nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, thậm chí là cả mất mát, hi sinh, trực tiếp tiên phong đi vào tâm dịch để bảo vệ an toàn sức khỏe, tính mạng của Nhân dân, góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn, khống chế không để dịch bệnh lan rộng. Những đóng góp thiết thực, hiệu quả của mỗi cán bộ, chiến sĩ quân y là kết quả từ sự kế thừa, phát huy nhân tố chính trị tinh thần, những giá trị truyền thống, bản chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới.

Có thể nói, nhân tố tinh thần còn là yếu tố quan trọng làm sáng ngời thêm y đức của người thầy thuốc quân y. Lực lượng quân y toàn quân luôn xác định chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho bộ đội và Nhân dân là nhiệm vụ vẻ vang. Vì vậy, quán triệt lời dạy của Bác Hồ “cần phải yêu thương, săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn” , ‘‘Lương y phải kiêm từ mẫu” , ngành quân y toàn quân đã không quản ngại khó khăn, hết lòng hết sức phục vụ người bệnh, phát huy cao độ tinh thần, thái độ phục vụ, nêu cao ý thức trách nhiệm, giữ vững bản lĩnh nghề nghiệp trước mọi cám dỗ và khó khăn trong cuộc sống, góp phần xây dựng môi trường văn hóa ở các đơn vị quân y thực sự trong sạch, lành mạnh.

Những năm gần đây, thực hiện phương châm đối ngoại của Đảng, phát huy truyền thống, đạo lý nhân đạo, tương thân, tương ái của dân tộc, từ năm 2014, Việt Nam chính thức cử lực lượng tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc, đánh dấu sự đột phá về hội nhập quốc phòng trong công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước ta. Đây là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa quan trọng để Quân đội nhân dân Việt Nam chủ động tích cực hội nhập quốc tế và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa ngay trong thời bình và bằng biện pháp hòa bình. Trong nhiệm vụ quốc tế đầy cao cả này, một lần nữa ngành quân y là một trong những lực lượng xung kích đi đầu. Với địa bàn hoạt động bên ngoài lãnh thổ của Tổ quốc, điều kiện an ninh, văn hóa, đời sống, sinh hoạt và thực hiện nhiệm vụ vô cùng khó khăn và khắc nghiệt, có nhiều hoá chất độc hại, dễ lây lan các dịch bệnh, trong đó có nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như lao, HIV, SARS-CoV-2... luôn đe doạ sự an toàn của các cán bộ, nhân viên trong lực lượng. Mặt khác, xung đột sắc tộc, xung đột vũ trang và sức ép từ nhiều tổ chức, nhiều lực lượng là trở ngại lớn, dễ gây tổn thương về thể chất lẫn tinh thần đối với cán bộ, nhân viên gìn giữ hòa bình Việt Nam. Trong điều kiện khó khăn đó, nhân tố chính trị tinh thần của lực lượng quân y lại một lần nữa được phát huy cao độ, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, nâng cao được hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, lực lượng quân y còn tham gia các lực lượng cứu hộ, cứu nạn quốc tế như: tham gia cứu trợ thảm họa động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria, đội công binh số 1, số 2 làm nhiệm vụ quốc tế tại Nam Xu Đăng….

Những thành tựu không thể phủ nhận về quyền con người tại Việt Nam

 Những kết quả, thành tựu to lớn trên lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người mà Việt Nam đã đạt được trong 40 năm qua là minh chứng sinh động cho thấy chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta, các thế lực thù địch vẫn cố tình tìm cách phủ nhận, bịa đặt, xuyên tạc về việc thực hiện quyền con người tại Việt Nam. Vì vậy, cần phải bóc trần và đập tan luận điệu lợi dụng nhân quyền chống phá cách mạng Việt Nam.

Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau, theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.[1]

Mặc dù không có định nghĩa chung và tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu.

Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân (nguồn ảnh: xaydungdang.org.vn)

Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đưa ra định nghĩa như sau: Nhân quyền hay quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.

Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.

Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Quyền con người là giá trị phổ quát mà tất cả người dân các quốc gia đều mong muốn quyền của mình được bảo đảm; quyền này được nêu trong hầu hết các điều ước quốc tế.

Tiếp cận vấn đề về nhân quyền, theo Đại từ điển Tiếng Việt, nhân quyền chính là quyền con người, là thành quả và kết tinh giá trị nhân văn của nhân loại.

Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập (năm 1945), quyền con người đã được quy định cụ thể trong hàng trăm văn kiện pháp luật quốc tế, trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp lý toàn cầu đòi hỏi mọi quốc gia tôn trọng và thực hiện.

Trong đó, những sự kiện, văn kiện đánh dấu sự phát triển về nhận thức và cơ chế thực hiện nhân quyền thế giới là vào ngày 10/12/1948, với việc thông qua Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (Tuyên ngôn), Liên hợp quốc đã công bố bản thỏa thuận pháp lý quốc tế đầu tiên về quyền con người. Đây là một bước tiến quan trọng của cộng đồng nhân loại khi xác định “phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng bất di bất dịch của tất cả các thành viên trong gia đình loài người là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới”.

Có thể thấy rằng, quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị chung của các dân tộc, được ghi nhận và bảo vệ bằng luật pháp quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 và hai Công ước về quyền con người năm 1966 (Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị).

Có thể nói, quyền con người không có gì xa lạ trên đất nước Việt Nam. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, quyền con người luôn là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt trong suốt tiến trình cách mạng. Hiến pháp đầu tiên - năm 1946, đến Hiến pháp năm 2013, đều khẳng định quyền con người và quyền công dân đều được tôn trọng và bảo đảm.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến quyền con người của mỗi người dân Việt Nam. Cả cuộc đời Người luôn mong mỏi để mỗi người dân Việt Nam được hưởng những quyền con người như bao dân tộc hòa bình khác trên thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bắt nguồn từ lịch sử dân tộc và thực tiễn của đất nước, kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền tiến bộ của phương Đông cũng như phương Tây. Đặc biệt là vận dụng sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người được thể hiện trong Bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình ở Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người đã tuyên bố rằng: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 không chỉ đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do mà đó còn là nền tảng cho sự phát triển của quyền con người.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc (ảnh tư liệu - nguồn: hochiminh.vn)

Trong suốt giai đoạn lịch sử cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định nhân quyền là nội dung có tính pháp lý, phải liên tục được phát triển, bổ sung, hoàn thiện. Phản ánh kết quả nhận thức khoa học, tiên tiến, văn minh về nhân quyền. Quan điểm và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong suốt các thời kỳ lịch sử là tôn trọng và bảo đảm quyền con người; quyền con người là quan điểm, nội dung xuyên suốt trong Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ và đã tiếp cận nhân quyền theo cả chiều rộng, chiều sâu, với các nội dung phù hợp mục tiêu phát triển của Việt Nam, phù hợp nhận thức chung của nhân loại tiến bộ.

Trong thời kỳ đổi mới, trên cơ sở kế thừa thành tựu trong các thời kỳ cách mạng ở nước ta và vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, cũng như tiếp thu tinh hoa tư tưởng, pháp luật nhân quyền quốc tế, nhận thức và đường lối chỉ đạo của Đảng ta về quyền con người tiếp tục có nhiều bước phát triển mới.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khẳng định quan điểm xuyên suốt là: “Cùng với việc chăm lo đời sống Nhân dân, các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định”[2] và “… bảo đảm quyền dân chủ thật sự của Nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân”[3].

Những năm gần đây, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều Chỉ thị về vấn đề quyền con người, đơn cử như: Chỉ thị số 12/CT/TW của Ban Bí thư Trung ương; Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 2/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới”. Để đảm bảo tốt hơn quyền con người, ngày 20/7/2010, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 44-CT/TW về công tác nhân quyền trong tình hình mới là cơ sở quan trọng bảo đảm thực hiện quyền con người ở nước ta…

Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam khẳng định quyền con người và quyền dân tộc cơ bản là thống nhất: “quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình”.

Kế thừa, bổ sung và phát triển những quan điểm các kỳ đại hội trước, Đại hội lần thứ XIII của Đảng bổ sung mối quan hệ giữa lấy con người làm trung tâm - bảo đảm quyền con người - phát triển con người toàn diện gắn bó khăng khít với mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, pháp quyền nhằm giữ gìn pháp chế, kỷ cương xã hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, nhấn mạnh: “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”[4]

Có thể thấy rõ nhất trong Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã dành riêng Chương II để quy định về “quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”.

Các điều trong Hiến pháp khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. [5]

Nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của nhân quyền nên ngay từ năm 1957, Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước của Luật Nhân đạo quốc tế. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam đã tích cực, chủ động gia nhập hầu hết các công ước ước nhân quyền quốc tế chủ chốt như: Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ… Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO)…

Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và nước đầu tiên ở khu vực châu Á tham gia Công ước quyền trẻ em; Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật. Những cam kết của Việt Nam đối với các điều ước quốc tế đã được phản ánh trong các văn bản pháp luật trong nước.

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã và đang tiếp tục xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân, với những chính sách nhất quán tôn trọng và bảo đảm các quyền con người được lồng ghép vào mọi chiến lược và chương trình phát triển của đất nước. Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, với những thành tựu quan trọng mà Đảng, nhân dân Việt Nam đã đạt dược, diện mạo trên tất cả các lĩnh vực của đất nước đã thay đổi và có sự phát triển mới, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, môi trường chính trị - xã hội ổn định, nhân dân được sống cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc.

Cùng với những thành tựu trong xây dựng đất nước và cùng với những nỗ lực xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong bảo đảm quyền con người trên các phương diện của đời sống xã hội. Các quyền con người về dân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa ở Việt Nam được quy định rõ trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Từ năm 2013 đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam liên tục được xây dựng và hoàn thiện tương đối đồng bộ, đáp ứng về cơ bản quyền con người mới hơn 100 văn bản luật, pháp lệnh liên quan bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Trong đó, các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bình đẳng của các dân tộc; quyền sống, được tôn trọng về nhân phẩm và bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tự do đi lại và cư trú… của người dân được tôn trọng. Đồng thời, các bộ luật như: Luật Hình sự 2015, Bộ luật Dân sự 2015, Luật Trưng cầu ý dân 2015, Luật Trẻ em 2016, Luật Trợ giúp pháp lý 2017, Luật An ninh mạng 2018… Bộ luật Lao động (sửa đổi) thông qua cuối năm 2019 với nhiều quy định mới bảo đảm tốt hơn quyền của người lao động.

Đáng chú ý về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã có những quy định cụ thể hơn về quyền này không chỉ đối với người có quốc tịch Việt Nam mà cả người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam. Quyền này còn quy định cho phép người đang thi hành án phạt tù, ở các trại tạm giam, tạm giữ được sử dụng kinh thánh... Những thành tựu về nhân quyền mà chúng ta đã đạt được là bằng chứng cho thấy Việt Nam đã phát triển theo chiều hướng rất tích cực, và được dư luận thế giới công nhận. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận.

Cùng với những thành tựu trong xây dựng đất nước và cùng với những nỗ lực xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong bảo đảm quyền con người trên các phương diện của đời sống xã hội (nguồn ảnh: Chinhphu.vn)

Mới đây nhất, ngày 15/4/2024, Bộ Ngoại giao tổ chức họp báo quốc tế công bố Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Với chính sách nhất quán về bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, Việt Nam rất coi trọng cơ chế UPR và luôn nghiêm túc xây dựng các báo cáo quốc gia cũng như triển khai các khuyến nghị mà Việt Nam chấp thuận tại tất cả chu kỳ. Việt Nam đã chính thức nộp báo cáo UPR chu kỳ IV và ngày 10/5, tại Trụ sở Liên hiệp quốc tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sĩ, Nhóm làm việc về Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc đã đồng thuận thông qua Báo cáo quốc gia UPR của Việt Nam.

Cùng với những đóng góp tích cực và thành tựu trên, trong thời gian qua, Việt Nam còn tham gia tích cực, là thành viên có trách nhiệm trong các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc từ khi cơ quan này được thành lập từ năm 2006 đến nay. Chúng ta đã tham gia tích cực các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Việt Nam đóng góp tích cực, trách nhiệm và hiệu quả hơn vào nỗ lực chung thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên thế giới. Trong đó, Việt Nam 2 lần trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016 và nhiệm kỳ 2023 - 2025). Những nỗ lực và các sáng kiến, đóng góp của Việt Nam trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người được các nước đồng tình, ủng hộ, cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Như vậy có thể khẳng định rằng những kết quả, thành tựu to lớn trên lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người mà Việt Nam đã đạt được trong 40 năm qua, là minh chứng sinh động cho thấy quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, là vì quyền con người. Từ chủ trương mục tiêu xuyên suốt đến hành động cụ thể, Nhà nước Việt Nam đã và đang hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm, bảo vệ và thực thi quyền con người; đồng thời, là căn cứ quan trọng để nhận diện, đấu tranh phản bác những thủ đoạn lợi dụng nhân quyền để chống phá Việt Nam./.