Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị

 Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị được Đại hội XIII xác định là một trọng tâm lớn trong công tác xây dựng Đảng. Vì vậy, tiếp tục quán triệt, thực hiện và đẩy mạnh đổi mới nội dung này trong giai đoạn mới bằng nhiều giải pháp thiết thực, đồng bộ là vấn đề cấp thiết đối với từng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp hiện nay. 

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, ngoài điều kiện cần là có chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp thì phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên điều kiện đủ, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, những năm qua, việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội luôn được chú trọng. Đặc biệt, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 30/7/2007 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) và Nghị quyết Đại hội XIII về vấn đề này, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị đã có nhiều đổi mới, đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong tuyên truyền, vận động, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng được nâng cao; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” được thực hiện chặt chẽ, đi vào nền nếp. Việc sắp xếp bộ máy, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng được tăng cường, từng bước khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên; công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh, v.v. Qua đó, “đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, hiệu quả của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng”. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế do nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu thống nhất và chưa đồng bộ trong quá trình tổ chức thực hiện.

Để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, ngày 17/11/2022, Hội nghị Trung ương sáu (khóa XIII) đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”. Mục tiêu được đặt ra là: tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị; vừa giữ vững được nguyên tắc của Đảng, song đồng thời phát huy sự chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật và các văn bản dưới luật; tạo chuyển biến thực sự, đạt kết quả cao trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng ở các cấp. Đề cao trách nhiệm của tập thể, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với kiểm soát quyền lực chặt chẽ. Xây dựng phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng thực sự khoa học, dân chủ, sát với thực tiễn; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thông suốt từ Trung ương đến cơ sở. Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp; trong đó, đặc biệt quan tâm một số nội dung chủ yếu sau:

Về phương thức lãnh đạo công tác cán bộ

Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Vì vậy, Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ là nguyên tắc bất di bất dịch của quá trình vận hành toàn bộ hệ thống chính trị nước ta. Phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong giai đoạn mới càng cần chú trọng tới tính hiệu quả của công tác cán bộ.

Đảng phải trực tiếp lãnh đạo công tác cán bộ; hoàn thiện quy định lựa chọn, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ của các cấp ủy, tổ chức đảng theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện quy định; tổng kết việc thí điểm thi tuyển một số chức danh lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền. Thực hiện giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên từ sớm, từ xa, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn; trong đó, phải tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm và tiến hành xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời những sai phạm. Tiếp tục cụ thể hóa, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng nhân tài; thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Cùng với đó, đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực trong công tác cán bộ; khuyến khích cán bộ từ chức khi có khuyết điểm; kịp thời thay thế cán bộ bị kỷ luật, cán bộ năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm;  thực hiện “có vào, có ra, có lên, có xuống” trong công tác cán bộ. Công tác đánh giá cán bộ phải toàn diện, chặt chẽ, thực chất, khách quan, nhiều chiều; cùng với phẩm chất, bản lĩnh chính trị, ý thức, trách nhiệm, uy tín trong tập thể, trong nhân dân, phải đặc biệt chú trọng kỹ năng công tác, chất lượng, hiệu quả công việc được giao, bằng sản phẩm, kết quả cụ thể; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương. Thường xuyên cảnh báo, nhắc nhở giúp cán bộ nhận diện nguy cơ, không mắc sai lầm, kịp thời khắc phục khuyết điểm; xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cán bộ dưới quyền trực tiếp tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện nghiêm quy định của Đảng về việc lấy phiếu tín nhiệm trong lãnh đạo cấp ủy, các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch.

Về phương thức xây dựng bộ máy, đẩy mạnh cải cách hành chính

Trong những năm qua, mặc dù hệ thống chính trị nói chung, bộ máy của Đảng nói riêng được sắp xếp lại theo hướng gọn, tinh giản, hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; trong đó, chú trọng giải quyết các mối quan hệ cùng với sự phân cấp, phân quyền hợp lý, rõ ràng giữa các tổ chức đảng. Thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng về công tác quản lý biên chế của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế theo vị trí việc làm, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với nâng cao chất lượng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Phấn đấu đến năm 2025, cơ bản hoàn thiện xây dựng vị trí việc làm trong từng cơ quan, tổ chức, làm cơ sở để xác định tổng biên chế của hệ thống chính trị ở nước ta giai đoạn 2026 - 2031.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc trong các cơ quan của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, bảo đảm tính khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể; quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, quy trình công tác, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, áp đặt hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng. Chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị ở tất cả các cấp về đẩy mạnh cải cách hành chính; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở. Xây dựng và áp dụng tiêu chí, chỉ số đánh giá hiệu quả, chất lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức như quản trị công, cải cách hành chính, chỉ số hài lòng của cán bộ, đảng viên, người dân, làm cơ sở để nâng cao chất lượng, cải tiến phong cách, lề lối làm việc; tiếp tục đổi mới công tác thông tin, báo cáo trong Đảng, bảo đảm nhanh, chính xác, kịp thời.

Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát

Trong điều kiện cầm quyền, một trong những vấn đề cốt yếu cả về lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là phải kiểm soát quyền lực, không bị lạm dụng, để quyền lực được thực thi mang lại lợi ích tối đa cho cách mạng. Do đó, ngoài việc phải tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả; phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng trong kiểm tra, giám sát,… cần chú ý tới việc phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra của Nhà nước. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi nhân dân có nhiều bức xúc, dư luận quan tâm, các lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm. Thực hiện tốt việc kiểm soát quyền lực; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời tổ chức đảng, đảng viên sai phạm.

Cùng với đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cán bộ giữ chức vụ nêu gương cho đảng viên không giữ chức vụ; từ trong Đảng ra ngoài Đảng, cấp trên nêu gương cho cấp dưới. Người đứng đầu, tập thể lãnh đạo và rộng hơn là toàn Đảng nêu gương tốt góp phần lan tỏa trong xã hội những hành động tốt, tấm gương tiêu biểu. Đồng thời, nêu cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc vận động gia đình, người thân xây dựng lối sống gương mẫu.

Phương thức lãnh đạo của Đảng là hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng bằng những thành quả cách mạng, biến khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc thành hiện thực cuộc sống; trước hết là thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đó cũng là yêu cầu của việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị. Với bản lĩnh vững vàng, lập trường chính trị đúng đắn, quyết tâm chính trị cao, tầm trí tuệ sáng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhất định sẽ tiếp tục giành được nhiều thắng lợi, đưa sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng đến thành công./.

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG!

 NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG!

(tiếp theo và hết)
     Từ vị trí, vai trò, thực trạng và những vấn đề đặt ra cho thấy: để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu của các cấp, ngành, địa phương, lực lượng, cả hệ thống chính trị và toàn dân với tổng thể các giải pháp thống nhất, đồng bộ. Trong tình hình hiện nay, cần tập trung nắm vững và thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản dưới đây.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Đây vừa là nguyên tắc, đồng thời cũng là giải pháp quan trọng hàng đầu, quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Vì vậy, thời gian tới, cùng với phát triển, hoàn thiện phương thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng, các cấp, ngành, lực lượng, địa phương,... cần nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng và yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ quan trọng này; đồng thời, thường xuyên quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trọng tâm là Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Nghị quyết số 30-NQ/TW về Chiến lược an ninh mạng quốc gia, v.v. Trên cơ sở đó, chủ động đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả theo phạm vi, chức năng, nhiệm vụ; chú trọng tận dụng thế mạnh của không gian mạng để tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng tự bảo vệ cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân; thực hiện nghiêm quy định trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện; đồng thời, phát huy tốt vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là lực lượng nòng cốt, chuyên trách.

Cùng với đó, đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ, việc tổ chức triển khai thực hiện của các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý đồng bộ về lĩnh vực thông tin, truyền thông và an ninh mạng; có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn, răn đe những hành vi, thủ đoạn lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Bổ sung, điều chỉnh các quy chế, quy định về bảo vệ, quản lý, sử dụng tài nguyên thông tin, dữ liệu của quốc gia, người dân và doanh nghiệp; các văn bản quy phạm pháp luật về chống thông tin giả, xấu, độc hại; các quy định, chính sách liên quan đến công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối,... phù hợp với truyền thống văn hoá Việt Nam và bối cảnh mới. Đẩy mạnh kiện toàn tổ chức, bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về không gian mạng và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng từ Trung ương đến cơ sở. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông, Internet, mạng truyền hình và các dịch vụ mạng xã hội, cũng như các hoạt động xây dựng, phát triển, bảo vệ và khai thác hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số, cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia. Thường xuyên định hướng hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền phát thanh, truyền hình, nhất là trang thông tin điện tử, báo điện tử theo quy định của pháp luật; đồng thời, phát huy tốt vai trò của các cơ quan báo chí, nhất là báo điện tử trong tuyên truyền, cung cấp thông tin chính thống đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, được dư luận quan tâm. Kịp thời bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin và quy trình phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, địa phương; giữa các cơ quan, tổ chức và người dân; giữa Việt Nam với các nước trong xử lý các tình huống trên không gian mạng. Thực hiện tốt Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Xây dựng môi trường mạng trung thực, văn minh, an toàn, lành mạnh, tạo lập niềm tin số, xã hội số, công dân số. Đẩy mạnh đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của các cấp, các ngành; làm tốt công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhất là sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, nhằm không ngừng bổ sung, phát triển lý luận trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.

Hai là, đẩy mạnh phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, rộng khắp gắn với nâng cao năng lực phòng, chống tấn công mạng, tội phạm mạng. Đây là giải pháp rất quan trọng, trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nội dung bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Bởi vì, xây dựng cũng là cách tốt nhất để bảo vệ; ngược lại, bảo vệ cũng góp phần xây dựng, phát triển không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của đất nước. Thực hiện giải pháp này, thời gian tới, Chính phủ cần tập trung đầu tư phát triển hạ tầng không gian mạng quốc gia hiện đại, đồng bộ, kết nối thông suốt từ Trung ương đến địa phương; giữa các cấp, các ngành, các tổ chức, người dân, doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước, tạo động lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh. Ưu tiên phát triển hệ thống thông tin phục vụ cho hạ tầng thiết yếu, quan trọng của quốc gia. Tiếp tục phát triển siêu xa lộ thông tin trong nước và kết nối băng thông rộng quốc tế gắn với bảo đảm an toàn thông tin. Đẩy mạnh xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia toàn diện; xây dựng và thực hiện tốt cơ chế cung cấp, chia sẻ, khai thác thông tin gắn với nhu cầu sử dụng, xác thực, bảo mật thông tin; phát triển hạ tầng chứng thực số và mật mã quốc gia đáp ứng yêu cầu bảo vệ an toàn thông tin cho hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Có chính sách động viên, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển công nghệ mạng, mở rộng thị trường dịch vụ viễn thông, Internet cả ở trong nước và nước ngoài.

Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao năng lực phòng, chống chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, gián điệp mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Muốn vậy, cần nâng cao hiệu quả ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho phát triển, làm chủ, quản lý, bảo vệ không gian mạng quốc gia. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, nhất là Quân đội, Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan Tuyên giáo và các lực lượng khác trong xác lập, quản lý, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; đồng thời, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Có cơ chế kiểm soát hữu hiệu đối với một số trang mạng xã hội dựa trên nền tảng xuyên biên giới, như: Facebook, YouTube, TikTok,… để ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật Việt Nam. Xây dựng và tổ chức luyện tập thuần thục các phương án điều phối, xử lý sự cố mất an toàn thông tin mạng theo phân cấp, bảo đảm thông suốt, hiệu quả, đúng chức năng, thẩm quyền. Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống thông tin quân sự, quốc phòng, an ninh đồng bộ, hiện đại, độc lập và có khả năng kết nối linh hoạt với hạ tầng thông tin quốc gia. Tăng cường ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin, số hóa, thông minh hóa, hiện đại hóa trang thiết bị nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính quân sự, an ninh, tự động hóa chỉ huy, góp phần hiện đại hóa lực lượng vũ trang, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hoạt động cài cắm gián điệp, tấn công mạng, xâm phạm an ninh quốc gia. Nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo tình hình; kết hợp phòng thủ tích cực, vững chắc với tiến công đáp trả kịp thời các hoạt động chống phá, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng và các loại hình chiến tranh, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Ba làxây dựng và phát huy tốt vai trò của lực lượng chuyên trách trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”1. Trong khi đó, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ mới, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi không chỉ có trang thiết bị hiện đại mà cần có con người với chất lượng toàn diện để hình thành lực lượng nòng cốt, chuyên trách. Hiện nay, thực hiện chủ trương của Đảng, lực lượng chuyên trách được bố trí chủ yếu ở Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, ngoài ra còn có lực lượng đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng thuộc các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương và các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có năng lực về công nghệ thông tin, an ninh mạng. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng, thời gian tới, lực lượng chuyên trách ở các cơ quan, địa phương, đơn vị cần chủ động liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau trong hoạt động tác chiến, thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Theo đó, Quân đội, mà nòng cốt là lực lượng tác chiến không gian mạng, bao gồm lực lượng tác chiến không gian mạng cấp chiến lược, chiến dịch; lực lượng công nghệ thông tin các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội có vai trò quan trọng hàng đầu trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, lực lượng này cần được xây dựng tiến thẳng lên hiện đại với sự đồng bộ cả về con người, vũ khí, trang bị và phương thức tác chiến không gian mạng phù hợp với nền nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong quá trình thực hiện, cần bám sát phương châm: “Trinh sát kịp thời, ngăn chặn hiệu quả, phòng thủ vững chắc”, bảo vệ tuyệt đối an toàn hệ thống thông tin quân sự, quốc phòng và hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và phối hợp xử lý các lỗ hổng bảo mật, phần mềm gián điệp, mã độc, các hoạt động tấn công mạng. Tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng, Nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về lĩnh vực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông và các bộ, ngành liên quan, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các nguy cơ, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng nếu xảy ra.

Bộ Công an, trực tiếp là lực lượng an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao có vai trò rất quan trọng trong bảo vệ an ninh mạng quốc gia, phòng, chống tội phạm. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, lực lượng này cần được tiếp tục đầu tư phương tiện kỹ thuật hiện đại; tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực cho cán bộ, chiến sĩ. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng liên quan nắm chắc tình hình trên không gian mạng, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các nguy cơ, sự cố an ninh mạng, tội phạm mạng, các lỗ hổng bảo mật, phần mềm độc hại; bảo vệ tuyệt đối an toàn hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia. Chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với những tổ chức, cá nhân lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, xâm hại lợi ích của cá nhân, tổ chức. Thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống gián điệp mạng, khủng bố mạng, tội phạm mạng; thường xuyên thiết lập và duy trì có hiệu quả hệ thống đường dây nóng, hệ thống tiếp nhận, xử lý thông tin về tội phạm mạng từ quần chúng nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên không gian mạng phù hợp với thực tiễn chuyển đổi số quốc gia; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm quốc gia để kịp thời phát hiện, điều phối, ứng cứu với các sự cố an ninh mạng, bảo vệ an ninh, an toàn vùng lãnh thổ đặc biệt của Tổ quốc.

Các cơ quan thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông cần tiếp tục thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về an toàn thông tin, an ninh mạng, thúc đẩy phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, rộng khắp, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ an toàn cho cá nhân, tổ chức trên môi trường mạng; tiếp tục phát triển các phần mềm ứng dụng để tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và phổ biến kiến thức về an toàn thông tin cho người sử dụng; hỗ trợ bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng; hướng dẫn tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, bao gồm: Quy tắc Tôn trọng, tuân thủ pháp luật; Quy tắc Lành mạnh; Quy tắc An toàn, bảo mật thông tin; Quy tắc Trách nhiệm.

Tiếp tục phát huy tốt vai trò nòng cốt của Ban chỉ đạo 35 các cấp, cơ quan tuyên giáo, hệ thống báo chí, cơ quan đấu tranh tư tưởng, đồng thời mở rộng các kênh, lực lượng thông tin rộng khắp, làm chủ không gian mạng; xây dựng cơ chế chỉ đạo thông tin thống nhất, hiệp đồng thông tin đồng bộ, tác chiến thường trực, đa dạng, đa tuyến. Kết hợp thông tin phản bác của các cơ quan báo chí chính thống với các kênh truyền thông khác, theo phương thức lấy thông tin chủ đạo từ các cơ quan báo chí chính thống làm thông tin nguồn để lan tỏa trên không gian mạng.

Bốn là, phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng. Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử”2. Với ý nghĩa đó, việc phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng hiện nay sẽ tạo ra bức tường thành vững chắc để ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Theo cơ quan chức năng, tính đến tháng 6/2023, Việt Nam có khoảng 78,59% người dân sử dụng Internet; 101,12 triệu thuê bao sử dụng điện thoại thông minh; là một trong những quốc gia có số lượng người sử dụng Facebook, YouTube và TikTok nhiều nhất thế giới3. Đây là thuận lợi lớn để chúng ta tận dụng cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại để phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, nếu không quản lý tốt, mức độ “sát thương” do các cuộc tấn công mạng gây ra cũng sẽ rất lớn, bởi vì nhân dân chính là đối tượng chủ yếu mà các thế lực thù địch hướng đến để tuyên truyền, chuyển hóa tư tưởng, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, kích động, gây rối, biểu tình, bạo loạn lật đổ. Để mỗi người dân Việt Nam là một chiến sĩ, mỗi tài khoản của người dân là một phần trong thế trận quốc phòng toàn dân, mỗi nhóm tài khoản là một khu vực phòng thủ, mỗi một bài viết đấu tranh với những quan điểm sai trái là một mũi tiến công trên không gian mạng,… đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp và cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của không gian mạng đối với sự phát triển của cá nhân, cộng đồng, quốc gia - dân tộc; đồng thời, cũng nhận biết rõ những nguy cơ, thách thức hiện hữu từ không gian mạng, nhất là âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, nguy cơ chiến tranh mạng, gián điệp mạng, thủ đoạn hoạt động của tội phạm mạng,... từ đó, giúp mọi người đề cao cảnh giác, có biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, bảo vệ hiệu quả.

Cùng với tuyên truyền để toàn dân nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, cần tiếp tục phổ biến sâu rộng về những hành vi bị cấm trong Luật An ninh mạng, nhất là các hành vi sử dụng không gian mạng để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước; tổ chức, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; các hành vi tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi. Quan tâm bồi dưỡng kỹ năng nhận diện và biện pháp phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn tấn công mạng, lừa đảo trên mạng; kiến thức, kỹ năng phòng tránh, tự vệ và đấu tranh trên không gian mạng, cũng như biện pháp kỹ thuật để khắc phục hậu quả bị tấn công mạng. Đặc biệt, quan tâm xây dựng, củng cố thế trận lòng dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên không gian mạng. Đồng thời, chú trọng nhân rộng những mô hình hay, cách làm sáng tạo trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, như mô hình: “Hội nhóm, trang mạng xã hội vì môi trường mạng an toàn, lành mạnh” (ở Đà Nẵng); Cuộc vận động: “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp trên mạng xã hội” (ở Bình Phước, Trung ương Đoàn); hay hoạt động của Lực lượng 47 trong Quân đội,… đã và đang góp phần tích cực bảo vệ không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, rộng khắp. Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp, phù hợp với từng đối tượng, như: thông qua sinh hoạt các tổ chức; tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng; nói chuyện chuyên đề, phổ biến pháp luật; các cuộc thi tìm hiểu về an toàn thông tin, an ninh mạng tại các cơ quan, địa phương, đơn vị, v.v.

Năm là, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, tiến tới chủ động về công nghệ, trang thiết bị và dịch vụ mạng, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế về an ninh mạng. Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “lấy con người, trí tuệ con người làm trung tâm, là nhân tố quyết định, đồng thời tranh thủ tối đa những thành tựu khoa học, công nghệ”4. Theo đó, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là kỹ sư hệ thống thông tin, viễn thông, chuyên gia an ninh mạng, v.v. Muốn vậy, cần ưu tiên đầu tư, nâng cấp các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ mạng, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo; có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút, “giữ chân”, trọng dụng nhân tài trong lĩnh vực này. Đồng thời, có chính sách ưu đãi đối với lực lượng tác chiến không gian mạng, an ninh mạng và các lực lượng tham gia bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chuyển giao công nghệ, nghiên cứu sản xuất các sản phẩm, công nghệ nền tảng, cốt lõi về viễn thông và công nghệ thông tin, công nghệ mạng. Tăng cường đầu tư, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, tiến tới tự chủ trong bảo đảm trang bị các hệ thống tự động hóa chỉ huy và điều khiển vũ khí, tác chiến không gian mạng, tác chiến điện tử trong lực lượng vũ trang. Ưu tiên phát triển và sử dụng các công cụ, dịch vụ trên không gian mạng do Việt Nam sản xuất. Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển trí tuệ nhân tạo, sớm đưa Việt Nam trở thành một “cường quốc mạng”, góp phần gia tăng sức mạnh quốc gia, nâng cao vị thế quốc tế. Cùng với đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế về đảm bảo an toàn, an ninh mạng; tích cực tham gia, tiến tới chủ trì các diễn đàn khu vực và quốc tế về không gian mạng, nhằm lan tỏa những quan điểm tích cực của Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, sớm phát hiện và triệt tiêu các nguy cơ, thách thức, nhằm xây dựng không gian mạng quốc gia hòa bình, ổn định, an toàn, rộng khắp, vì người dân, doanh nghiệp và sự phát triển an toàn, bền vững của đất nước; đồng thời, góp phần tích cực kiến tạo môi trường hòa bình, an ninh và phát triển của khu vực và thế giới, v.v. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả những giải pháp nêu trên sẽ thiết thực góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng trong thời kỳ mới./.

BẢO VỆ TỔ QUỐC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG - NHIỆM VỤ, CHIẾN LƯỢC CẤP BÁCH HIỆN NAY!

III. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG!
(tiếp theo và hết)
     Từ vị trí, vai trò, thực trạng và những vấn đề đặt ra cho thấy: để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu của các cấp, ngành, địa phương, lực lượng, cả hệ thống chính trị và toàn dân với tổng thể các giải pháp thống nhất, đồng bộ. Trong tình hình hiện nay, cần tập trung nắm vững và thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản dưới đây.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Đây vừa là nguyên tắc, đồng thời cũng là giải pháp quan trọng hàng đầu, quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Vì vậy, thời gian tới, cùng với phát triển, hoàn thiện phương thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng, các cấp, ngành, lực lượng, địa phương,... cần nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng và yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ quan trọng này; đồng thời, thường xuyên quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trọng tâm là Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Nghị quyết số 30-NQ/TW về Chiến lược an ninh mạng quốc gia, v.v. Trên cơ sở đó, chủ động đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả theo phạm vi, chức năng, nhiệm vụ; chú trọng tận dụng thế mạnh của không gian mạng để tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng tự bảo vệ cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân; thực hiện nghiêm quy định trách nhiệm của cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện; đồng thời, phát huy tốt vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là lực lượng nòng cốt, chuyên trách.

Cùng với đó, đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ, việc tổ chức triển khai thực hiện của các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý đồng bộ về lĩnh vực thông tin, truyền thông và an ninh mạng; có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn, răn đe những hành vi, thủ đoạn lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Bổ sung, điều chỉnh các quy chế, quy định về bảo vệ, quản lý, sử dụng tài nguyên thông tin, dữ liệu của quốc gia, người dân và doanh nghiệp; các văn bản quy phạm pháp luật về chống thông tin giả, xấu, độc hại; các quy định, chính sách liên quan đến công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối,... phù hợp với truyền thống văn hoá Việt Nam và bối cảnh mới. Đẩy mạnh kiện toàn tổ chức, bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về không gian mạng và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng từ Trung ương đến cơ sở. Tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ các hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông, Internet, mạng truyền hình và các dịch vụ mạng xã hội, cũng như các hoạt động xây dựng, phát triển, bảo vệ và khai thác hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số, cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia. Thường xuyên định hướng hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền phát thanh, truyền hình, nhất là trang thông tin điện tử, báo điện tử theo quy định của pháp luật; đồng thời, phát huy tốt vai trò của các cơ quan báo chí, nhất là báo điện tử trong tuyên truyền, cung cấp thông tin chính thống đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, được dư luận quan tâm. Kịp thời bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin và quy trình phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, địa phương; giữa các cơ quan, tổ chức và người dân; giữa Việt Nam với các nước trong xử lý các tình huống trên không gian mạng. Thực hiện tốt Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Xây dựng môi trường mạng trung thực, văn minh, an toàn, lành mạnh, tạo lập niềm tin số, xã hội số, công dân số. Đẩy mạnh đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của các cấp, các ngành; làm tốt công tác sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, nhất là sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, nhằm không ngừng bổ sung, phát triển lý luận trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.

Hai là, đẩy mạnh phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, rộng khắp gắn với nâng cao năng lực phòng, chống tấn công mạng, tội phạm mạng. Đây là giải pháp rất quan trọng, trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nội dung bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Bởi vì, xây dựng cũng là cách tốt nhất để bảo vệ; ngược lại, bảo vệ cũng góp phần xây dựng, phát triển không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp, phục vụ đắc lực cho sự phát triển của đất nước. Thực hiện giải pháp này, thời gian tới, Chính phủ cần tập trung đầu tư phát triển hạ tầng không gian mạng quốc gia hiện đại, đồng bộ, kết nối thông suốt từ Trung ương đến địa phương; giữa các cấp, các ngành, các tổ chức, người dân, doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước, tạo động lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh. Ưu tiên phát triển hệ thống thông tin phục vụ cho hạ tầng thiết yếu, quan trọng của quốc gia. Tiếp tục phát triển siêu xa lộ thông tin trong nước và kết nối băng thông rộng quốc tế gắn với bảo đảm an toàn thông tin. Đẩy mạnh xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia toàn diện; xây dựng và thực hiện tốt cơ chế cung cấp, chia sẻ, khai thác thông tin gắn với nhu cầu sử dụng, xác thực, bảo mật thông tin; phát triển hạ tầng chứng thực số và mật mã quốc gia đáp ứng yêu cầu bảo vệ an toàn thông tin cho hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Có chính sách động viên, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển công nghệ mạng, mở rộng thị trường dịch vụ viễn thông, Internet cả ở trong nước và nước ngoài.

Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao năng lực phòng, chống chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, gián điệp mạng, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Muốn vậy, cần nâng cao hiệu quả ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho phát triển, làm chủ, quản lý, bảo vệ không gian mạng quốc gia. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, nhất là Quân đội, Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ quan Tuyên giáo và các lực lượng khác trong xác lập, quản lý, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; đồng thời, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Có cơ chế kiểm soát hữu hiệu đối với một số trang mạng xã hội dựa trên nền tảng xuyên biên giới, như: Facebook, YouTube, TikTok,… để ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật Việt Nam. Xây dựng và tổ chức luyện tập thuần thục các phương án điều phối, xử lý sự cố mất an toàn thông tin mạng theo phân cấp, bảo đảm thông suốt, hiệu quả, đúng chức năng, thẩm quyền. Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống thông tin quân sự, quốc phòng, an ninh đồng bộ, hiện đại, độc lập và có khả năng kết nối linh hoạt với hạ tầng thông tin quốc gia. Tăng cường ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin, số hóa, thông minh hóa, hiện đại hóa trang thiết bị nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính quân sự, an ninh, tự động hóa chỉ huy, góp phần hiện đại hóa lực lượng vũ trang, kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hoạt động cài cắm gián điệp, tấn công mạng, xâm phạm an ninh quốc gia. Nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo tình hình; kết hợp phòng thủ tích cực, vững chắc với tiến công đáp trả kịp thời các hoạt động chống phá, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng và các loại hình chiến tranh, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Ba là, xây dựng và phát huy tốt vai trò của lực lượng chuyên trách trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”1. Trong khi đó, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ mới, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi không chỉ có trang thiết bị hiện đại mà cần có con người với chất lượng toàn diện để hình thành lực lượng nòng cốt, chuyên trách. Hiện nay, thực hiện chủ trương của Đảng, lực lượng chuyên trách được bố trí chủ yếu ở Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, ngoài ra còn có lực lượng đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng thuộc các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương và các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có năng lực về công nghệ thông tin, an ninh mạng. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng, thời gian tới, lực lượng chuyên trách ở các cơ quan, địa phương, đơn vị cần chủ động liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau trong hoạt động tác chiến, thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Theo đó, Quân đội, mà nòng cốt là lực lượng tác chiến không gian mạng, bao gồm lực lượng tác chiến không gian mạng cấp chiến lược, chiến dịch; lực lượng công nghệ thông tin các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội có vai trò quan trọng hàng đầu trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, lực lượng này cần được xây dựng tiến thẳng lên hiện đại với sự đồng bộ cả về con người, vũ khí, trang bị và phương thức tác chiến không gian mạng phù hợp với nền nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong quá trình thực hiện, cần bám sát phương châm: “Trinh sát kịp thời, ngăn chặn hiệu quả, phòng thủ vững chắc”, bảo vệ tuyệt đối an toàn hệ thống thông tin quân sự, quốc phòng và hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và phối hợp xử lý các lỗ hổng bảo mật, phần mềm gián điệp, mã độc, các hoạt động tấn công mạng. Tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng, Nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về lĩnh vực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông và các bộ, ngành liên quan, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các nguy cơ, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng nếu xảy ra.

Bộ Công an, trực tiếp là lực lượng an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao có vai trò rất quan trọng trong bảo vệ an ninh mạng quốc gia, phòng, chống tội phạm. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, lực lượng này cần được tiếp tục đầu tư phương tiện kỹ thuật hiện đại; tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực cho cán bộ, chiến sĩ. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng liên quan nắm chắc tình hình trên không gian mạng, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các nguy cơ, sự cố an ninh mạng, tội phạm mạng, các lỗ hổng bảo mật, phần mềm độc hại; bảo vệ tuyệt đối an toàn hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia. Chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với những tổ chức, cá nhân lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, xâm hại lợi ích của cá nhân, tổ chức. Thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống gián điệp mạng, khủng bố mạng, tội phạm mạng; thường xuyên thiết lập và duy trì có hiệu quả hệ thống đường dây nóng, hệ thống tiếp nhận, xử lý thông tin về tội phạm mạng từ quần chúng nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên không gian mạng phù hợp với thực tiễn chuyển đổi số quốc gia; xây dựng hệ thống cảnh báo sớm quốc gia để kịp thời phát hiện, điều phối, ứng cứu với các sự cố an ninh mạng, bảo vệ an ninh, an toàn vùng lãnh thổ đặc biệt của Tổ quốc.

Các cơ quan thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông cần tiếp tục thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về an toàn thông tin, an ninh mạng, thúc đẩy phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, rộng khắp, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ an toàn cho cá nhân, tổ chức trên môi trường mạng; tiếp tục phát triển các phần mềm ứng dụng để tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và phổ biến kiến thức về an toàn thông tin cho người sử dụng; hỗ trợ bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng; hướng dẫn tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, bao gồm: Quy tắc Tôn trọng, tuân thủ pháp luật; Quy tắc Lành mạnh; Quy tắc An toàn, bảo mật thông tin; Quy tắc Trách nhiệm.

Tiếp tục phát huy tốt vai trò nòng cốt của Ban chỉ đạo 35 các cấp, cơ quan tuyên giáo, hệ thống báo chí, cơ quan đấu tranh tư tưởng, đồng thời mở rộng các kênh, lực lượng thông tin rộng khắp, làm chủ không gian mạng; xây dựng cơ chế chỉ đạo thông tin thống nhất, hiệp đồng thông tin đồng bộ, tác chiến thường trực, đa dạng, đa tuyến. Kết hợp thông tin phản bác của các cơ quan báo chí chính thống với các kênh truyền thông khác, theo phương thức lấy thông tin chủ đạo từ các cơ quan báo chí chính thống làm thông tin nguồn để lan tỏa trên không gian mạng.

Bốn là, phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng. Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử”2. Với ý nghĩa đó, việc phát huy sức mạnh của toàn dân bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng hiện nay sẽ tạo ra bức tường thành vững chắc để ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng. Theo cơ quan chức năng, tính đến tháng 6/2023, Việt Nam có khoảng 78,59% người dân sử dụng Internet; 101,12 triệu thuê bao sử dụng điện thoại thông minh; là một trong những quốc gia có số lượng người sử dụng Facebook, YouTube và TikTok nhiều nhất thế giới3. Đây là thuận lợi lớn để chúng ta tận dụng cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại để phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, nếu không quản lý tốt, mức độ “sát thương” do các cuộc tấn công mạng gây ra cũng sẽ rất lớn, bởi vì nhân dân chính là đối tượng chủ yếu mà các thế lực thù địch hướng đến để tuyên truyền, chuyển hóa tư tưởng, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, kích động, gây rối, biểu tình, bạo loạn lật đổ. Để mỗi người dân Việt Nam là một chiến sĩ, mỗi tài khoản của người dân là một phần trong thế trận quốc phòng toàn dân, mỗi nhóm tài khoản là một khu vực phòng thủ, mỗi một bài viết đấu tranh với những quan điểm sai trái là một mũi tiến công trên không gian mạng,… đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp và cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của không gian mạng đối với sự phát triển của cá nhân, cộng đồng, quốc gia - dân tộc; đồng thời, cũng nhận biết rõ những nguy cơ, thách thức hiện hữu từ không gian mạng, nhất là âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, nguy cơ chiến tranh mạng, gián điệp mạng, thủ đoạn hoạt động của tội phạm mạng,... từ đó, giúp mọi người đề cao cảnh giác, có biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, bảo vệ hiệu quả.

Cùng với tuyên truyền để toàn dân nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, cần tiếp tục phổ biến sâu rộng về những hành vi bị cấm trong Luật An ninh mạng, nhất là các hành vi sử dụng không gian mạng để tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước; tổ chức, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; các hành vi tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi. Quan tâm bồi dưỡng kỹ năng nhận diện và biện pháp phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn tấn công mạng, lừa đảo trên mạng; kiến thức, kỹ năng phòng tránh, tự vệ và đấu tranh trên không gian mạng, cũng như biện pháp kỹ thuật để khắc phục hậu quả bị tấn công mạng. Đặc biệt, quan tâm xây dựng, củng cố thế trận lòng dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên không gian mạng. Đồng thời, chú trọng nhân rộng những mô hình hay, cách làm sáng tạo trong bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, như mô hình: “Hội nhóm, trang mạng xã hội vì môi trường mạng an toàn, lành mạnh” (ở Đà Nẵng); Cuộc vận động: “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp trên mạng xã hội” (ở Bình Phước, Trung ương Đoàn); hay hoạt động của Lực lượng 47 trong Quân đội,… đã và đang góp phần tích cực bảo vệ không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, rộng khắp. Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp, phù hợp với từng đối tượng, như: thông qua sinh hoạt các tổ chức; tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng; nói chuyện chuyên đề, phổ biến pháp luật; các cuộc thi tìm hiểu về an toàn thông tin, an ninh mạng tại các cơ quan, địa phương, đơn vị, v.v.

Năm là, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, tiến tới chủ động về công nghệ, trang thiết bị và dịch vụ mạng, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế về an ninh mạng. Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “lấy con người, trí tuệ con người làm trung tâm, là nhân tố quyết định, đồng thời tranh thủ tối đa những thành tựu khoa học, công nghệ”4. Theo đó, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là kỹ sư hệ thống thông tin, viễn thông, chuyên gia an ninh mạng, v.v. Muốn vậy, cần ưu tiên đầu tư, nâng cấp các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ mạng, an toàn thông tin, trí tuệ nhân tạo; có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút, “giữ chân”, trọng dụng nhân tài trong lĩnh vực này. Đồng thời, có chính sách ưu đãi đối với lực lượng tác chiến không gian mạng, an ninh mạng và các lực lượng tham gia bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chuyển giao công nghệ, nghiên cứu sản xuất các sản phẩm, công nghệ nền tảng, cốt lõi về viễn thông và công nghệ thông tin, công nghệ mạng. Tăng cường đầu tư, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, tiến tới tự chủ trong bảo đảm trang bị các hệ thống tự động hóa chỉ huy và điều khiển vũ khí, tác chiến không gian mạng, tác chiến điện tử trong lực lượng vũ trang. Ưu tiên phát triển và sử dụng các công cụ, dịch vụ trên không gian mạng do Việt Nam sản xuất. Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển trí tuệ nhân tạo, sớm đưa Việt Nam trở thành một “cường quốc mạng”, góp phần gia tăng sức mạnh quốc gia, nâng cao vị thế quốc tế. Cùng với đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế về đảm bảo an toàn, an ninh mạng; tích cực tham gia, tiến tới chủ trì các diễn đàn khu vực và quốc tế về không gian mạng, nhằm lan tỏa những quan điểm tích cực của Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, sớm phát hiện và triệt tiêu các nguy cơ, thách thức, nhằm xây dựng không gian mạng quốc gia hòa bình, ổn định, an toàn, rộng khắp, vì người dân, doanh nghiệp và sự phát triển an toàn, bền vững của đất nước; đồng thời, góp phần tích cực kiến tạo môi trường hòa bình, an ninh và phát triển của khu vực và thế giới, v.v. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả những giải pháp nêu trên sẽ thiết thực góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng trong thời kỳ mới./.
____________________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H.2021, tr.156.
2 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQGST, H. 2011, tr. 65.
3 - Trương Ngọc Vĩnh, Văn phòng Ban Chỉ đạo 35 Trung ương – Những thách thức đối với an ninh tư tưởng - văn hóa ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN trên môi trường mạng xã hội - thực trạng và giải pháp, Hà Nội, ngày 31/8/2023, Quyển 1, tr. 61.
4 - Bộ Chính trị khóa XII - Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, tr. 3.

Yêu nước ST.

Dựa vào nhân dân để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Với tư duy nhạy bén, cách mạng, khoa học, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Từ lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam, cần khẳng định đó là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng, phù hợp với quy luật, xu thế thời đại, tình hình đất nước, nguyện vọng của nhân dân. Do đó, dựa vào nhân dân để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng theo tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) là giải pháp quan trọng hàng đầu, cần quyết liệt thực hiện.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; đồng thời, xác định rõ đây là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự mất còn của Đảng, chế độ, đất nước và dân tộc.

Xuất phát từ diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển bùng nổ của mạng internet, các mạng xã hội toàn cầu, những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của cơ chế thị trường,… các thế lực thù địch, phản động có những chiêu thức, thủ đoạn mới hết sức thâm độc để chống phá Đảng, Nhà nước. Trong khi đó, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn những hạn chế, bất cập; vì thế, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị (khoá XII) đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Trong đó, Nghị quyết xác định rõ mục tiêu, 6 quan điểm, 7 nhiệm vụ, giải pháp nhằm định hướng, chỉ đạo cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết, nhất là những nội dung lớn đã nêu ở trên, chúng ta thấy rằng: bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ gắn liền với bảo vệ Tổ quốc - nhiệm vụ chính trị quan trọng, cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hiện nay. Với bản chất xâm lược, hiếu chiến, các thế lực thù địch không từ bất cứ âm mưu, thủ đoạn thâm độc nào, hòng đạt được mục tiêu của chúng là phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng nước ta. Do đó, chúng ta phải thường xuyên nắm chắc tình hình, nêu cao cảnh giác, thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh; trong đó, “Dựa vào nhân dân để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới” là một trong các giải pháp đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh tổng hợp làm thất bại mọi “mưu ma, chước quỷ” của chúng, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng, nền tảng tư tưởng của Đảng.



Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chung vui Ngày hội Đại đoàn kết cùng đồng bào xã Dur Kmăl, huyện Krông Ana, Đắk Lắk (ngày 11/11/2018). Ảnh: TTXVN.

Thực tiễn lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cho thấy, nhân dân có vai trò và sức mạnh vô cùng lớn. Dân là gốc, mọi công việc hệ trọng của quốc gia, dân tộc dù khó khăn, phức tạp đến mấy, nếu có sự đồng thuận, tham gia tích cực của nhân dân thì sẽ thành công và ngược lại, nếu thiếu điều đó sẽ thất bại. Bởi thế, các bậc tiền nhân đã đúc kết, “đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Thấu suốt tư tưởng đó, Đảng và Bác Hồ kính yêu đã luôn triệt để vận dụng, thực hiện vấn đề có tính quy luật ấy trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhờ đó, đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Chúng ta tự hào có Đảng quang vinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, có Nhân dân anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng. Nhân dân là lực lượng hùng hậu của cách mạng, nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc, nên mọi công việc của Đảng, Nhà nước, của quốc gia - dân tộc đều cần phải dựa vào nhân dân. Nếu không làm vậy, tức là chúng ta đã tự từ bỏ nguồn sức mạnh to lớn của mình. Hơn nữa, trải qua quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những đóng góp to lớn đối với đất nước và xác lập mối quan hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân ghi nhận, tin yêu và vinh danh bằng tên gọi thân thuộc: Đảng ta - Đảng của Nhân dân. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân, và điều này đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì thế, trong các hoạt động của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị các cấp cần phải dựa vào nhân dân, do nhân nhân, vì nhân dân, và chỉ có như vậy mới đạt được hiệu quả thiết thực. Những năm qua, với quan điểm “dân là gốc” là chủ thể của công cuộc đổi mới, Đảng ta khẳng định: “thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng”. Trên cơ sở đó đã có những phương thức sáng tạo để “phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng”2 đạt kết quả tích cực. Việc làm trên không chỉ thể hiện ở chủ trương mà được thể chế hóa bằng văn bản với các quy định cụ thể, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng Đảng một cách thuận lợi, rộng rãi, hiệu quả, nhất là trong công tác kiểm tra, giám sát, thiết thực góp phần phòng, chống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống tổ chức của Đảng.

Điều quan trọng là công tác xây dựng Đảng luôn được gắn chặt với bảo vệ Đảng, trước hết là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hiện nay, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, kết hợp với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong các tổ chức Đảng, Nhà nước,… thì việc dựa vào nhân dân để bảo vệ Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của chúng càng trở nên cấp thiết, quan trọng. Cần phải xác định rõ đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong hệ thống giải pháp được tiến hành đồng bộ để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực tiễn luôn sống động, phong phú, nhưng bất luận trong hoàn cảnh nào, khó khăn, phức tạp đến đâu cũng phải luôn tuân thủ và thấm nhuần tư tưởng: “dân là gốc”, dựa vào nhân dân để bảo vệ Đảng, chế độ, thành tựu của công cuộc đổi mới. Bởi, chỉ có như vậy mới tạo được sức mạnh tổng hợp, vượt qua mọi thách thức, trở ngại để thành công. Nếu xa rời quan điểm có tính nguyên tắc “dựa vào nhân dân” tất sẽ thất bại. Cổ nhân có câu “chúng chí thành thành”, có nghĩa là nhân dân là bức thành trì vững chắc nhất, không kẻ thù nào có thể phá vỡ. Tương tự như vậy, ngày nay Đảng ta khẳng định: “xây dựng thế trận lòng dân”3. Đó là thế trận vững chắc nhất trong các loại hình thế trận. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch càng phải dựa vào nhân dân, “bức thành trì” đó, “thế trận đó”. Mới đây, chúng ta đập tan vụ khủng bố ở Đắk Lắk (do tổ chức phản động chỉ đạo từ nước ngoài) là minh chứng điển hình về việc dựa vào nhân dân. Nhờ có nhân dân trên địa bàn cung cấp thông tin, phối hợp hoạt động nên vụ việc được xử lý nhanh, gọn, hiệu quả, sớm đưa cuộc sống yên bình của nhân dân trở lại bình thường. Nhưng đồng thời cũng để lại bài học quý về “lỗ hổng” “xây dựng thế trận lòng dân”, thể hiện trong việc nắm, quản lý, kiểm soát tình hình địa bàn, đối tượng; đặc biệt, chưa thật gần dân, dựa vào nhân dân. Bởi nhân dân chính là “tai, mắt” của cấp ủy, chính quyền cơ sở. Các tổ chức, lực lượng phản động dù có xảo quyệt đến mấy cũng không thể qua được mạng lưới “thiên la địa võng” từ nhân dân.

Như vậy, chúng ta thấy cần phải dựa vào nhân dân bằng nhiều cách thức khác nhau để bảo vệ Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; trong đó, chú trọng mấy nội dung chính sau:

1. Tiếp tục thể chế hóa bằng các quy định pháp lý tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng Đảng gắn liền với bảo vệ Đảng phù hợp, hiệu quả.

2. Giữ vững trận địa thông tin, kịp thời và chủ động thông tin, tuyên truyền về những vấn đề, vụ việc nhạy cảm để nhân dân nắm vững quan điểm của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng; đồng thời, thấy rõ sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, từ đó định hướng dư luận, tạo sự ổn định chính trị - xã hội, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.

3. Nhân dân là lực lượng tin cậy bảo vệ Đảng, Nhà nước, trực tiếp là cấp ủy, chính quyền cơ sở. Do đó, phải dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân trong việc nắm chắc tình hình địa bàn, kịp thời phát hiện những “hiện tượng khác thường”, nhất là sự hoạt động chống phá dưới mọi hình thức của các tổ chức, lực lượng phản động ngay từ cơ sở.

4. Đẩy mạnh sự phối hợp hoạt động theo chức năng của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể,... làm nòng cốt cho nhân dân ở địa phương, cơ sở, chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” kết hợp “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch, phản động.

5. Thế hệ trẻ là hạt giống của cách mạng là tương lai của đất nước. Vì thế, cần chú trọng định hướng, giáo dục, bồi dưỡng liên tục cho họ về Đảng, về chế độ xã hội chủ nghĩa, về truyền thống dân tộc,… để trau dồi lòng tự hào, xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng, thấy rõ trách nhiệm trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhất là trên internet, mạng xã hội, v.v.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ gắn liền với bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong tình hình mới. Trên đây chỉ là một số cách thức dựa vào nhân dân, khai thác, phát huy vai trò to lớn của nhân dân trong nhiệm vụ này. Trên cở sở nắm vững định hướng, quan điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng, trong quá trình thực hiện cần tiếp tục nghiên cứu, sáng tạo những cách làm mới phù hợp với thực tiễn, gắn “xây” với “chống”, gắn huy động sức dân với thực thi các chính sách hợp lòng dân. Làm được như vậy, tin tưởng rằng đây sẽ là giải pháp quan trọng để chúng ta đập tan mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động từ trong trứng nước./.

ST.

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới

Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị được Đại hội XIII xác định là một trọng tâm lớn trong công tác xây dựng Đảng. Vì vậy, tiếp tục quán triệt, thực hiện và đẩy mạnh đổi mới nội dung này trong giai đoạn mới bằng nhiều giải pháp thiết thực, đồng bộ là vấn đề cấp thiết đối với từng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp hiện nay. 

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, ngoài điều kiện cần là có chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp thì phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên điều kiện đủ, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, những năm qua, việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội luôn được chú trọng. Đặc biệt, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 30/7/2007 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) và Nghị quyết Đại hội XIII về vấn đề này, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị đã có nhiều đổi mới, đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong tuyên truyền, vận động, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng được nâng cao; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” được thực hiện chặt chẽ, đi vào nền nếp. Việc sắp xếp bộ máy, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng được tăng cường, từng bước khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên; công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh, v.v. Qua đó, “đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, hiệu quả của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng”. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế do nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu thống nhất và chưa đồng bộ trong quá trình tổ chức thực hiện.

Để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, ngày 17/11/2022, Hội nghị Trung ương sáu (khóa XIII) đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”. Mục tiêu được đặt ra là: tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị; vừa giữ vững được nguyên tắc của Đảng, song đồng thời phát huy sự chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật và các văn bản dưới luật; tạo chuyển biến thực sự, đạt kết quả cao trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng ở các cấp. Đề cao trách nhiệm của tập thể, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với kiểm soát quyền lực chặt chẽ. Xây dựng phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng thực sự khoa học, dân chủ, sát với thực tiễn; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thông suốt từ Trung ương đến cơ sở. Để hiện thực hóa những mục tiêu trên, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp; trong đó, đặc biệt quan tâm một số nội dung chủ yếu sau:

Về phương thức lãnh đạo công tác cán bộ

Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Vì vậy, Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ là nguyên tắc bất di bất dịch của quá trình vận hành toàn bộ hệ thống chính trị nước ta. Phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong giai đoạn mới càng cần chú trọng tới tính hiệu quả của công tác cán bộ.

Đảng phải trực tiếp lãnh đạo công tác cán bộ; hoàn thiện quy định lựa chọn, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ của các cấp ủy, tổ chức đảng theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện quy định; tổng kết việc thí điểm thi tuyển một số chức danh lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền. Thực hiện giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên từ sớm, từ xa, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn; trong đó, phải tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm và tiến hành xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời những sai phạm. Tiếp tục cụ thể hóa, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng nhân tài; thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Cùng với đó, đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực trong công tác cán bộ; khuyến khích cán bộ từ chức khi có khuyết điểm; kịp thời thay thế cán bộ bị kỷ luật, cán bộ năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm;  thực hiện “có vào, có ra, có lên, có xuống” trong công tác cán bộ. Công tác đánh giá cán bộ phải toàn diện, chặt chẽ, thực chất, khách quan, nhiều chiều; cùng với phẩm chất, bản lĩnh chính trị, ý thức, trách nhiệm, uy tín trong tập thể, trong nhân dân, phải đặc biệt chú trọng kỹ năng công tác, chất lượng, hiệu quả công việc được giao, bằng sản phẩm, kết quả cụ thể; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương. Thường xuyên cảnh báo, nhắc nhở giúp cán bộ nhận diện nguy cơ, không mắc sai lầm, kịp thời khắc phục khuyết điểm; xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cán bộ dưới quyền trực tiếp tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện nghiêm quy định của Đảng về việc lấy phiếu tín nhiệm trong lãnh đạo cấp ủy, các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch.

Về phương thức xây dựng bộ máy, đẩy mạnh cải cách hành chính

Trong những năm qua, mặc dù hệ thống chính trị nói chung, bộ máy của Đảng nói riêng được sắp xếp lại theo hướng gọn, tinh giản, hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; trong đó, chú trọng giải quyết các mối quan hệ cùng với sự phân cấp, phân quyền hợp lý, rõ ràng giữa các tổ chức đảng. Thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng về công tác quản lý biên chế của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế theo vị trí việc làm, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với nâng cao chất lượng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Phấn đấu đến năm 2025, cơ bản hoàn thiện xây dựng vị trí việc làm trong từng cơ quan, tổ chức, làm cơ sở để xác định tổng biên chế của hệ thống chính trị ở nước ta giai đoạn 2026 - 2031.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc trong các cơ quan của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, bảo đảm tính khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể; quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, quy trình công tác, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, áp đặt hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng. Chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị ở tất cả các cấp về đẩy mạnh cải cách hành chính; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở. Xây dựng và áp dụng tiêu chí, chỉ số đánh giá hiệu quả, chất lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức như quản trị công, cải cách hành chính, chỉ số hài lòng của cán bộ, đảng viên, người dân, làm cơ sở để nâng cao chất lượng, cải tiến phong cách, lề lối làm việc; tiếp tục đổi mới công tác thông tin, báo cáo trong Đảng, bảo đảm nhanh, chính xác, kịp thời.

Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát

Trong điều kiện cầm quyền, một trong những vấn đề cốt yếu cả về lý luận và thực tiễn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là phải kiểm soát quyền lực, không bị lạm dụng, để quyền lực được thực thi mang lại lợi ích tối đa cho cách mạng. Do đó, ngoài việc phải tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả; phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng trong kiểm tra, giám sát,… cần chú ý tới việc phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra của Nhà nước. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi nhân dân có nhiều bức xúc, dư luận quan tâm, các lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm. Thực hiện tốt việc kiểm soát quyền lực; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời tổ chức đảng, đảng viên sai phạm.

Cùng với đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cán bộ giữ chức vụ nêu gương cho đảng viên không giữ chức vụ; từ trong Đảng ra ngoài Đảng, cấp trên nêu gương cho cấp dưới. Người đứng đầu, tập thể lãnh đạo và rộng hơn là toàn Đảng nêu gương tốt góp phần lan tỏa trong xã hội những hành động tốt, tấm gương tiêu biểu. Đồng thời, nêu cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc vận động gia đình, người thân xây dựng lối sống gương mẫu.

Phương thức lãnh đạo của Đảng là hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng bằng những thành quả cách mạng, biến khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc thành hiện thực cuộc sống; trước hết là thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đó cũng là yêu cầu của việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị. Với bản lĩnh vững vàng, lập trường chính trị đúng đắn, quyết tâm chính trị cao, tầm trí tuệ sáng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhất định sẽ tiếp tục giành được nhiều thắng lợi, đưa sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng đến thành công./.

ST.

BẢO VỆ TỔ QUỐC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG - NHIỆM VỤ, CHIẾN LƯỢC CẤP BÁCH HIỆN NAY!

II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XUYÊN KHÔNG GIAN MẠNG, KẾT QUẢ BỐC ĐẦU VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA!
         Nhận thức rõ tầm quan trọng của không gian mạng, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với việc xác lập, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng bằng nhiều nghị quyết, chỉ thị về lĩnh vực này. Đặc biệt, ngày 25/7/2018, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”. Đây là Nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bảo vệ vùng “lãnh thổ đặc biệt” của quốc gia, góp phần tạo ra hệ thống hoàn chỉnh trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới!

Quan điểm, đối tượng, nội dung, phương thức, lực lượng bảo vệ
Trên cơ sở đánh giá một cách khách quan, toàn diện về đặc điểm tình hình cùng những nguy cơ, thách thức và yêu cầu về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Đảng ta xác định: phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng vững chắc, rộng khắp; xác lập, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Để thực hiện mục tiêu trên, chúng ta cần nhất quán các quan điểm chỉ đạo của Đảng là: (1). Giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, đồng thời xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị. (2). Xác lập, quản lý và bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng theo lãnh thổ, trên cơ sở pháp luật Việt Nam và tuân thủ luật pháp quốc tế. (3). Tổ chức bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng trong thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và thế trận chiến tranh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng với nhiệm vụ xây dựng, phát triển không gian mạng an toàn, lành mạnh và rộng khắp tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước. (4). Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào sức mình chính là nhân tố quyết định; đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trên không gian mạng.

Về đối tượng đấu tranh bao gồm các thế lực thù địch và tay sai có âm mưu, hành động sử dụng không gian mạng để can thiệp, hòng hạ thấp tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó còn là các thế lực nước ngoài có âm mưu, hành động sử dụng không gian mạng tiến hành các hình thái chiến tranh, thực hiện tham vọng xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc; các tổ chức phản động trong và ngoài nước, lực lượng cơ hội, suy thoái chính trị, đạo đức, lối sống có âm mưu, hành động cấu kết với thế lực bên ngoài, sử dụng không gian mạng chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng thực hiện các hoạt động xâm nhập, phá hoại về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xâm phạm lợi ích quốc gia - dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Nội dung bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng rất rộng lớn, bao gồm cả xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp và phòng ngừa, ngăn chặn, làm thất bại mọi sự vi phạm, chống phá. Đó là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội, lợi ích quốc gia - dân tộc, nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phương thức bảo vệ là phi vũ trang, thông qua tuyên truyền, giáo dục, huấn luyện nâng cao ý thức, trách nhiệm, năng lực bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; gia tăng sức mạnh tổng hợp, quốc phòng, an ninh, xây dựng không gian mạng an toàn, lành mạnh, rộng khắp; phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Đồng thời, phối kết hợp chặt chẽ giữa các chủ thể và lực lượng tham gia tích cực phòng ngừa, triệt tiêu các yếu tố dẫn đến nguy cơ đối với an toàn, an ninh, độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc trên không gian mạng; nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm hoạt động bảo vệ đối với không gian quan trọng này.

Lực lượng bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Trong đó, Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý, điều hành; lực lượng vũ trang làm nòng cốt; lực lượng tác chiến trên không gian mạng, an ninh mạng và đấu tranh tư tưởng văn hóa là chuyên trách.

Ngay sau khi Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng được ban hành, cấp ủy, chính quyền các cấp đã tổ chức quán triệt sâu sắc, chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và quyết liệt trong triển khai thực hiện. Theo đó, để Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng thực sự đi vào cuộc sống, cùng với tăng cường giáo dục, quán triệt, tạo sự đoàn kết, thống nhất cả về nhận thức và hành động, các cấp ủy, tổ chức đảng đã chủ động ra nghị quyết lãnh đạo chuyên đề, tổ chức phân công cụ thể; trong đó, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp chịu trách nhiệm và trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, xác định rõ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để triển khai thực hiện; đồng thời, phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng chung sức, đồng lòng tích cực tham gia bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và đạt nhiều kết quả nổi bật.

Hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước đối với các loại hình dịch vụ viễn thông, Internet, bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng không gian mạng tiếp tục được xác lập và ngày càng được củng cố, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng từng bước được bổ sung, hoàn thiện, như: Luật An ninh mạng 2018; Luật An toàn thông tin mạng (sửa đổi, bổ sung năm 2018); Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước 2018; Chỉ thị số 14/CT-TTg, ngày 25/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao năng lực phòng chống phần mềm độc hại; Chỉ thị số 02/CT-TTg, ngày 04/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về công tác bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng; Nghị quyết số 22/NQ-CP, ngày 18/10/2019 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị; cùng các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Chính phủ và cấp ủy, chính quyền các cấp, v.v. Đây là những văn bản quan trọng, tạo hành lang pháp lý cơ bản để các cấp, ngành, lực lượng, địa phương triển khai bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng.

Cùng với đó, cơ sở hạ tầng không gian mạng cũng được đầu tư xây dựng, phát triển mạnh, phục vụ đắc lực cho hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng ngày càng được đầu tư, củng cố. Chúng ta đã xây dựng được kết cấu hạ tầng viễn thông khá đồng bộ, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi từ Trung ương đến địa phương; xây dựng và duy trì một hệ thống mạng quốc gia an toàn và bảo mật, ngăn chặn được hiểm họa từ các cuộc tấn công, đánh cắp thông tin và tạo ra một môi trường trực tuyến khá an toàn. Hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia được triển khai xây dựng, bước đầu phục vụ tốt cho phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia. Đặc biệt, hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư - “trái tim” của chính phủ số đã được vận hành, tạo động lực để phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số. Chúng ta cũng đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và tối ưu hóa các biện pháp bảo vệ không gian mạng; tham gia vào các cơ chế hợp tác quốc tế để đối phó với các mối đe dọa trực tuyến.

Cùng với phát huy sức mạnh của toàn dân, lực lượng chuyên trách cũng được quan tâm xây dựng, tiến thẳng lên hiện đại, như: Bộ Tư lệnh tác chiến không gian mạng (thuộc Bộ Quốc phòng); Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (thuộc Bộ Công an); Cục An toàn thông tin (thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông); Ban chỉ đạo 35, Lực lượng 47 các cấp, v.v. Thời gian qua, các lực lượng chuyên trách đã thực hiện tốt chức năng tham mưu, chủ động phối hợp, dự báo đúng tình hình; kịp thời phát hiện, đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động cài cắm gián điệp, tấn công mạng, triển khai các giải pháp bảo vệ hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia; vô hiệu hóa các hoạt động chống phá trên không gian mạng; xử lý nghiêm các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, cung cấp, sử dụng mạng Internet và thông tin trên mạng, v.v. Lực lượng tác chiến không gian mạng tiếp tục được điều chỉnh, bố trí ngày càng khoa học, phù hợp với phương án, quyết tâm, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, đủ khả năng thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, phòng thủ, phản công mạng trên các hướng chiến lược.

Có thể khẳng định, với những chủ trương đúng đắn, hành động quyết liệt, chúng ta đã “chủ động phát hiện, có các phương án, đối sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và kiểm soát tốt các nhân tố có thể gây bất lợi đột biến,... Bước đầu hình thành hệ thống pháp luật và cơ sở vật chất cho việc bảo đảm an ninh mạng, an toàn thông tin quốc gia, không gian mạng quốc gia,… Chủ động đấu tranh kịp thời, hiệu quả, từng bước đẩy lùi các loại tội phạm;… làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động”1. “Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng xã hội được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đạt kết quả rõ rệt”2. “Từng bước hoàn thiện và phát triển tư duy lý luận, chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc theo hướng: Tăng cường thế trận lòng dân; chủ động, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa;... Tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, v.v. Chủ động, tích cực đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động”3, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng. Theo đánh giá liên tục trong 3 kỳ gần đây của Liên minh Viễn thông quốc tế, chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu - GCI của Việt Nam đã tăng từ 100 lên 50 và hiện xếp thứ 25/194 quốc gia và vùng lãnh thổ; hệ sinh thái sản phẩm an toàn, an ninh mạng Việt Nam cũng đã được thúc đẩy phát triển4.

Hạn chế, bất cập
Trước hết, dễ nhận thấy nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ này còn chưa sâu, kỹ dẫn tới chủ quan, mất cảnh giác, chưa đề cao trách nhiệm trong bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh mạng quốc gia tuy đã được xây dựng, bổ sung, song còn chưa đồng bộ, có văn bản hiệu lực thi hành chưa cao. Công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh mạng có lúc, có nơi còn sơ hở, chưa theo kịp tốc độ phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là đối với mạng xã hội, trò chơi trực tuyến, thuê bao di động trả trước, hoạt động cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet. Lực lượng chuyên trách đã được thành lập từ Trung ương đến cơ sở, song chất lượng, hiệu quả hoạt động còn chưa đồng đều. Đấu tranh trên không gian mạng có lúc hiệu quả chưa cao; việc đáp trả, phản bác thông tin xấu, độc, luận điệu xuyên tạc, phản động có lúc chưa kịp thời.

Cơ sở hạ tầng không gian mạng tuy đã được quan tâm xây dựng, song vẫn chưa tương xứng với tốc độ phát triển và yêu cầu nhiệm vụ. Mặc dù Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển Internet nhanh trong khu vực và thế giới, nhưng còn tồn tại không ít hạn chế về an ninh, an toàn mạng. Theo tổ chức an ninh mạng Kaspersky và Symantec, Việt Nam là một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về nguy cơ bị nhiễm mã độc, phần mềm độc hại (qua USB, thẻ nhớ) với gần 70% người dùng máy tính có nguy cơ bị lây nhiễm cao; đứng thứ ba về số lượng người dùng di động bị mã độc tấn công nhiều nhất thế giới; đứng thứ 4 trên thế giới về nguy cơ bị nhiễm mã độc khi sử dụng Internet. Hệ quả là năm 2020 có tới hơn 73% số vụ lộ, lọt bí mật nhà nước xảy ra trên không gian mạng5. 

Tình trạng mất an toàn, an ninh thông tin mạng, tội phạm mạng còn diễn biến phức tạp. Theo thống kê, năm 2020, Bộ Công an đã phát hiện hơn 3.000 trang mạng có nội dung xấu, trong đó có 31 trang mạng, blog, 55 kênh Youtube, 49 trang fanpage, 765 tài khoản facebook, 149 hội nhóm chống đối cực đoan, đăng tải hơn 800.000 bài viết, video, clip có nội dung xấu, độc hại6. Các hành vi phá hoại cơ sở hạ tầng thông tin; gây mất an toàn, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường, vững mạnh của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và hệ thống thông tin vô tuyến điện,… đã và đang gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Theo kết quả đánh giá an ninh mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện, trong năm 2019, chỉ tính riêng thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên tới 20.892 tỉ đồng (tương đương 902 triệu USD), hơn 1,8 triệu máy tính bị mất dữ liệu do sự lây lan của các loại mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền (ransomware), trong đó có nhiều máy chủ chứa dữ liệu của các cơ quan, gây đình trệ hoạt động của không ít cơ quan, doanh nghiệp.

Đánh giá về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong đó có bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Việc quán triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao. Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh có lúc chưa thật chủ động; tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; an ninh một số địa bàn, lĩnh vực chưa thật sự vững chắc, nhất là an ninh mạng,… Công tác quản lý, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng còn hạn chế”7. “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ chưa kịp thời”8.

Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII nhận định: “Bên cạnh những ưu điểm, kết quả đã đạt được,… vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, như: Lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm tình hình; nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn có mặt, có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa mạnh mẽ và hiệu quả chưa cao”10. Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là chính.

Một số vấn đề đặt ra
Từ thực tiễn bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng trong thời gian qua đặt ra cho chúng ta những vấn đề mới cần tiếp tục được quan tâm và giải quyết thấu đáo, nhằm thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ quan trọng này.

Trước hết, việc bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc lâu dài, cam go, phức tạp, lấy con người và trí tuệ của con người làm chính trên cơ sở pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải có chiến lược, sách lược đúng đắn; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ; lực lượng chuyên trách tinh thông nghiệp vụ, nhạy bén về chính trị, hiểu biết pháp luật; đặc biệt, phải huy động được sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế, nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng bảo vệ của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Điều đó đặt ra cho thời gian tới, cùng với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc chủ động, quyết liệt, hiệu quả các cấp, các ngành để huy động tốt mọi nguồn lực, chúng ta cần nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm, kỹ năng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Vấn đề này cần phải được tiến hành thường xuyên, với nội dung, biện pháp phù hợp, hiệu quả.

Hai là, cùng với sự phát triển của không gian mạng, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, thì nguy cơ tấn công mạng, gián điệp mạng, chiến tranh mạng, mất an toàn thông tin mạng cũng ngày càng gia tăng. Bởi vì, đi cùng với phát triển chính phủ điện tử là việc sử dụng Internet và hệ thống máy tính kết nối, điện thoại thông minh sẽ ngày càng rộng rãi; mọi hoạt động của xã hội di chuyển ngày càng nhiều lên không gian mạng. Đây là cơ hội để phát triển, nhưng cũng tạo nhiều kẽ hở để các thế lực thù địch, phản động, tội phạm tăng cường chống phá, xâm hại đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức trên không gian mạng. Theo thống kê, hiện nay, các tổ chức phản động đã và đang sử dụng khoảng 1.236 trang Web, trên 200 kênh youtube, hơn 2.000 fanpage, lập ra gần 1.000 hội nhóm trên mạng xã hội để tuyên truyền phá hoại tư tưởng, kích động các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước10. Đáng chú ý, một số quốc gia vẫn đang bí mật triển khai các hoạt động trinh sát, giám sát, tình báo, bố trí hệ thống vũ khí mạng, sẵn sàng tiến công, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên không gian mạng11; các thế lực thù địch, phản động cũng đang đẩy mạnh các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống phá chế độ, kích động biểu tình, bạo loạn, hòng thực hiện “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” đối với nước ta12. Các hoạt động cài cắm mã độc, phần mềm độc hại vào hệ thống thông tin quan trọng quốc gia, quân sự, quốc phòng diễn ra ngày càng thường xuyên và tinh vi hơn. Tình hình đó đặt ra cho chúng ta phải giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa phát triển, khai thác với bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng.

Ba là, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ mới, rất phức tạp, đòi hỏi phải có hệ thống cơ sở pháp lý đồng bộ, lực lượng chuyên sâu, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, trong khi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này của ta còn thiếu và chưa đồng bộ. Các quy định về việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh thông tin mạng còn phân tán, có hành vi chưa có quy định rõ ràng, do đó lực lượng chức năng thiếu căn cứ để kiểm tra, xử lý một cách triệt để. Cùng với đó, lực lượng chuyên trách của ta tuy đã được thành lập và bước đầu hoạt động có hiệu quả nhưng kinh nghiệm tác chiến, đấu tranh trên không gian mạng còn chưa nhiều; trang bị kỹ thuật còn hạn chế, chưa đồng bộ; nguồn nhân lực chất lượng cao về lĩnh vực công nghệ thông tin, an ninh mạng còn thiếu, v.v. Đó cũng là những vấn đề cấp thiết đặt ra trong thời gian tới.

Bốn là, hạ tầng không gian mạng của ta hiện nay còn hạn chế, nhất là hạ tầng công nghệ phần cứng, từ các hạ tầng lõi cho đến các thiết bị điện tử cá nhân cơ bản đều nhập từ nước ngoài; nhiều trang thiết bị mạng được sử dụng trong các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cũng có nguồn gốc từ nước ngoài. Các hãng bảo mật và cơ quan chức năng nhiều nước, trong đó có Việt Nam đã chứng minh và cảnh báo về các mã độc, “cửa hậu” được cài sẵn trong các thiết bị trước khi xuất xưởng, cho phép đối phương có thể truy cập, kiểm soát từ xa. Bên cạnh đó, các trang mạng xã hội được người Việt Nam dùng nhiều cũng chủ yếu do nước ngoài quản lý và đặt máy chủ ở nước ngoài; trong khi, chúng ta còn thiếu nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, nhất là những chuyên gia giỏi về an ninh mạng, tác chiến mạng. Đây cũng là một trong những vấn đề hết sức khó khăn trong đảm bảo an ninh, an toàn cho tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động trên không gian mạng.

Không gian mạng ở Việt Nam là một bộ phận cấu thành Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Từ thực tiễn, kinh nghiệm, kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra trong thời gian qua đòi hỏi chúng ta tiếp tục nâng cao nhận thức, xây dựng quyết tâm và có nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc “vùng lãnh thổ đặc biệt” của Tổ quốc./.
(Còn nữa)
____________________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQGST, H.2021, tr.68-69.
2 - Sđd, Tập II, tr.171.
3 - Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tổng kết Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII – Báo Quân đội nhân dân, số 22304, ngày 18/5/2023, tr.1-2.
4 - Hùng Quân - 3 yếu tố then chốt trong đảm bảo an ninh mạng, Báo Công an nhân dân điện tử, ngày 22/6/2023.
5 -Thiếu tướng, PGS, TS. Cao Anh Dũng, Giám đốc Học viện Quốc tế, Bộ Công an -Bảo vệ an ninh quốc gia trên không gian mạng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo định hướng Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày14/01/2022.
6 - Sđd.
7 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb.CTQGST, H.2021, tr.87-88.
8 - Sđd, tr.91.
9 - Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tổng kết Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII – Báo Quân đội nhân dân, số 22304, ngày 18/5/2023, tr.1-2.
10 - Đại tá Đoàn Thanh Thủy, Phó Cục trưởng, Cục A02, Bộ Công an – Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên môi trường mạng xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua và dự báo trong thời gian tới- Kỷ yếu Hội thảo Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN trên môi trường mạng xã hội – thực trạng và giải pháp, Hà Nội, ngày 31/8/2023, Quyển 1, tr.52.
11 - Bộ Chính trị (khóa XII) - Nghị quyết số 29-NQ/TWvề Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Hà Nội, ngày 25/7/2018.
12 - Sđd.
Ảnh: Thủ trưởng Bộ Tư lệnh 86 kiểm tra công tác bảo đảm Kỹ thuật Công nghệ thông tin tại Lữ đoàn 3.
Yêu nước ST.