Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

Thách thức từ bên trong trong công cuộc đổi mới hiện nay

 


Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn[1]. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Hơn nữa, do tác động hết sức lớn của suy thóai kinh tế toàn cầu đến nền kinh của Việt Nam đang là một thách thức to lớn. Nhu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh lớn. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, lãng phí; việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chậm trễ. Hội nhập quốc tế sâu rộng đặt ra nhiều vấn đề mới, nhất là các vấn đề cạnh tranh thu hút đầu tư và xuất nhập khẩu, lao động, việc làm, bảo vệ môi trường, luật pháp... Trên một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được hưởng các thành quả của phát triển kinh tế - xã hội, đời sống còn nhiều khó khăn, khoảng cách giàu - nghèo còn lớn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư, thị trường, nhiều quốc gia mới trỗi dậy có thể đẩy kinh tế nước ta tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển kinh tế về cơ bản vẫn phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên, vào vốn và lao động trình độ thấp, thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao.

Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa còn tiềm ẩn. Về chính trị, phải cảnh giác với nguy cơ sai lầm về đường lối. Về tư tưởng, vẫn không thể xem thường những biểu hiện suy thóai tư tưởng chính trị mà Nghị quyết Trung ương 4, (khóa XII) đã chỉ ra. Về văn hóa, trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rất dễ xảy ra xu hướng coi nhẹ văn hóa, không giữ gìn và phát huy được bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc, để đạo đức xã hội bị suy đồi... Về kinh tế, kinh tế tư nhân được xác định là một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế tư nhân không tránh khỏi nguy cơ tự phát đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa và thóat ly khỏi sự quản lý của Nhà nước, có những mặt tiêu cực, như “lợi ích nhóm”, thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm pháp luật để trục lợi bất chính… Bên cạnh đó, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chưa thể hiện được vai trò chủ đạo và nòng cốt trong phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.

         Tình trạng tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng ngày càng diễn biến phức tạp, tinh vi, liên kết thành các nhóm lợi ích. Chúng đang tận dụng đến mức tối đa những kẽ hở, những yếu kém trong lãnh đạo quản lý, những bất cập của hệ thống pháp luật, cùng với sự buông lỏng trong định hướng chính trị - xã hội để vơ vét làm giàu bất chính; làm cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; hoặc chà đạp lên lợi ích quốc gia và đạo lý dân tộc; lơ là trong công tác lãnh đạo quản lý, vi phạm dân chủ và quyền lợi, lợi ích của dân; làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ, đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu họa khôn lường. Đó là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, là yếu tố cản trở phát triển xã hội. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đang là một thách thức lớn đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Thách thức từ biểu hiện suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, Đảng ta nhận định hết sức sâu sắc và mạnh mẽ: Sự suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay đặt ra sứ mệnh đối với Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc ta là phải giữ vững và phát triển đi tới mục tiêu cuối cùng. Đại hội XIII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”[2], xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ....



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.108.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.118.

Những thách thức bên ngoài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

 


Bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường đặt ra nhiều thách thức cho con đường phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trên thế giới, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường chính trị, an ninh quốc tế. Tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng... vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực và đang đặt ra những thách thức to lớn cho Việt Nam trên con đường phát triển. Hơn nữa, khu vực Đông Nam Á - là trung tâm địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới, do vậy, có nhiều nhân tố dễ gây mất ổn định làm ảnh hưởng lớn đến sự ổn định phát triển của Việt Nam.

Những thay đổi lớn trong quan hệ quốc tế - dân tộc hiện đang tác động mạnh mẽ, làm ảnh hưởng lớn đến lợi ích quốc gia - dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tuý trong quan hệ quốc tế gia tăng. Những diễn biến phức tạp tại Biển Đông đang làm ảnh hưởng đến lợi ích dân tộc và trực tiếp đe dọa an ninh và chủ quyền quốc gia - dân tộc... Một khi lợi ích quốc gia - dân tộc không được đảm bảo, bảo vệ thì lợi ích giai cấp và mục tiêu chủ nghĩa xã hội cũng không thể thực hiện được.

Trước tác động của đại dịch Covid - 19, kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thóai nghiêm trọng có tác động ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu, từ đó tác động mạnh đến Việt Nam.

Thách thức đặt ra từ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh trên trường quốc tế cả về kinh tế và chính trị đang là một thách thức lớn, bởi vì trong không ít trường hợp, các nước lớn lợi dụng vấn đề kinh tế để tạo sức ép về kinh tế và cả chính trị, hoặc phân biệt đối xử, từ đó gây khó khăn cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nếu không vượt qua được những thách thức từ bên ngoài thì tụt hậu xa hơn về kinh tế là nguy cơ hiện hữu.

Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện “diễn biến hòa bình”. “Diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ và sẵn sàng gây chiến tranh khi cần thiết của chủ nghĩa đế quốc vẫn thường trực. Đặc trưng chủ yếu của “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch ở Việt Nam là tuyên truyền xuyên tạc nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm suy yếu hệ thống chính trị, tiến tới làm sụp đổ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Hiện nay, “diễn biến hòa bình có biểu hiện mới”. Phương thức chuyển từ tác động bên ngoài sang thúc đẩy các hoạt động chống đối ngay trong nội địa, nội bộ là chính. “diễn biến hòa bình” tận dụng tối đa gây sức ép về kinh tế - tài chính và tấn công mạng thông tin; triệt để sử dụng các trang mạng xã hội và vai trò của các tổ chức phi chính phủ để gieo mầm, kích động các phần tử chống đối trong nước và quần chúng nổi dậy biểu tình, gây bạo loạn lật đổ chế độ. Nhận diện những biểu hiện và tính chất nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” để thấy rõ đây là một thách thức rất lớn đối với chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời để chúng ta chủ động, kiên quyết đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thời cơ từ bên trong với công cuộc đổi mới hiện nay

 


Sau gần 40 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta chỉ rõ: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”[1].

Nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt gần 40 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

 An ninh lương thực không những được đảm bảo, mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 80% GDP. Trong đó, “Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài”[2].

Chính trị luôn giữ vững ổn định, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được xây dựng, từng bước hoàn thiện, quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện trên các lĩnh vực đời sống xã hội, khẳng định bản chất ưu việt của chế độ. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội với nhân dân ngày càng được thắt chặt. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đồng thuận xã hội ngày càng được củng cố, tăng cường.

Đời sống nhân được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%. Đến nay, tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới ngày càng cao; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng ngày càng tăng.

Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh ngày càng giảm. Tuổi thọ trung bình của dân cư ngày càng tăng. Chăm sóc tốt hơn những người có công.

Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Tỷ lệ người Việt Nam sử dụng Internet ngày càng cao, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức cao, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Quốc phòng, an ninh luôn được giữ vững, tăng cường; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, thực chất, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để phát triển toàn diện đất nước.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.104.

[2] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2022, tr. 28-29.

 

Thời cơ bên ngoài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

 


Hòa bình, hợp tác và phát triển đang là xu thế lớn. Các nước muốn có hòa bình, ổn định, tăng cường hợp tác đang trở thành nhu cầu lớn để tập trung nguồn lực cho phát triển. Đây là cơ hội lớn mà Việt Nam cần tranh thủ để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đi vào chiều sâu. Đồng thời, xu thế này tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hội nhập thành công.

 Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển tạo điều kiện giao lưu trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, hoạt động văn hóa… Chúng ta có thể tiếp cận đến các nguồn lực từ bên ngoài (vốn, trình độ khoa học và công nghệ, nhân lực trình độ cao v.v...), đồng thời là cơ hội để tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ của thế giới, phù hợp với Việt Nam để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực và mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam. Việc tiếp cận nhanh đến những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại để ứng dụng vào một số lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế nhằm sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng, năng suất lao động cao tạo được giá thành hợp lý đủ sức cạnh tranh theo cơ chế thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Điều này vừa khai thác hiệu quả nguồn lực sẵn có, vừa cải thiện giá trị xuất khẩu và gia tăng năng lực sản xuất trong nước.

Giải quyết tốt mối quan hệ hiện nay.

 


Thứ nhất, Thực tiễn công cuộc đổi mới đang đặt ra việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển. Đổi mới là tất yếu song không để xảy ra mất ổn định; đổi mới trong sự ổn định để phát triển đất nước. Ba phạm trù này luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau cần phải quán triệt đầy đủ sâu sắc và giải quyết trên tất cả các lĩnh vực, trong hệ thống chính trị các cấp, từ Trung ương đến cơ sở.

Thứ hai, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây là mối quan hệ giữa hai lĩnh vực then chốt nhất của sự phát triển đất nước. Đổi mới kinh tế luôn luôn được coi trọng nhưng không thể không đổi mới chính trị (hiểu chính trị theo nghĩa rộng nhất của nó). Mặt khác lại phải giải quyết mối quan hệ này trên cơ sở khoa học - thực tiễn. Tránh những quan điểm tả khuynh hoặc cực đoan trong đổi mới kinh tế lẫn chính trị. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải được nhận thức, cụ thể hóa một cách phù hợp, thường xuyên và lâu dài.

Thứ ba, giữa tuân thủ các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này của Đảng thể hiện nhất quán chủ trương: Việt Nam quyết tâm chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường song không chấp nhận phát triển kinh tế thị trường bằng mọi giá, mà sự phát triển kinh tế thị trường phải hướng tới mục tiêu phục vụ con người, nâng cao chất lượng sống của con người cả về vật chất và tinh thần - tức là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Thứ tư, giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải coi trọng phát triển lực lượng sản xuất mới, hiện đại đồng thời phải tính đến từng bước phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ, phù hợp tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Thứ năm, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Đây là mối quan hệ mới so với Đại hội XI. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng khẳng định trong nền kinh tế thị trường, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế…; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường…

Thứ sáu, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Trong phương châm phát triển, Việt Nam chủ trương phát triển đồng bộ các lĩnh vực. Tăng trưởng kinh tế trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải đặt trong mối quan hệ phát triển hài hòa các lĩnh vực văn hóa, xã hội, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Điều đó mới thể hiện đúng bản chất ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam phấn đấu xây dựng, do vậy các cấp, các ngành, các địa phương phải quán triệt và giải quyết tốt đúng đắn mối quan hệ này để đảm bảo phát triển nhanh và bền vững.

Thứ bảy, giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện mở rộng hội nhập quốc tế và những diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế, nhất là các tranh chấp chủ quyền biển, đảo đã và đang đặt ra vấn đề phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Giải quyết mối quan hệ này không chỉ dừng lại ở nhận thức mà còn phải hiện thực hóa các phương châm chiến lược, cụ thể hóa trong các chính sách, chương trình quốc gia, bảo đảm các điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

 Thứ tám, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Xu thế tăng cường hội nhập quốc tế là xu thế chung đang lôi cuốn hầu hết quốc gia trên thế giới tham gia. Song, quá trình hội nhập quốc tế cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho Việt Nam. Vì vậy để đảm bảo vững chắc cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, Việt Nam phải thường xuyên giải quyết quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế gắn với giữ vững độc lập, tự chủ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

           Thứ chín, giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Công cuộc đổi mới đã cho Đảng những nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để mở rộng dân chủ, thực thi các quyền dân chủ của công dân thì phải giải quyết tốt các quan hệ Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ. Trong đó Đảng lãnh đạo là để Nhà nước phát huy vai trò quản lý và để Nhân dân tham gia tích cực vào quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mối quan hệ này phải được thể chế thành pháp luật để cụ thể hóa các chức năng, nhiệm vụ của các thành viên trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ mười, giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội giữ vị trí quan trọng trong hệ thống 10 mối quan hệ lớn. Mặc dù, quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội mới được bổ sung, nhưng là quan hệ nền tảng, căn cốt để thực hiện các quan hệ lớn khác.

Thực hành dân chủ chính là việc thực hiện cơ chế, chính sách, quy định, nguyên tắc của Đảng, Nhà nước để bảo đảm nhân dân thực hiện được quyền làm chủ trên thực tế. Xét đến cùng, các mối quan hệ lớn còn lại không thể được thực hiện nếu như mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội không được nhận thức và giải quyết tốt. Bởi lẽ, nếu thực hành dân chủ mà không có pháp chế (những chế định cụ thể hóa bằng pháp luật, bảo đảm tôn ti trật tự của pháp luật), thì xã hội sẽ mất ổn định. Có thể hiểu kỷ cương xã hội là những phép tắc làm nên trật tự xã hội. Ở đây có phép tắc về pháp luật, phép tắc về văn hóa, phép tắc về đạo đức,... để vừa điều chỉnh, vừa giám sát xã hội đối với hoạt động của tổ chức, cá nhân. Nếu kỷ cương xã hội không bảo đảm, thì mỗi cá nhân và toàn thể xã hội không thể phát triển. Vì vậy, phải tăng cường, bảo đảm kỷ cương xã hội để mọi thành viên, mọi tổ chức trong xã hội đều tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

Đây là sự phát triển nhận thức lý luận rất quan trọng của Đảng vì một mặt, nếu xử lý tốt các mối quan hệ này trong quá trình đổi mới thì nó sẽ góp phần khơi thông những “điểm nghẽn”, những rào cản và tạo động lực thúc đẩy và huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.

Ý nghĩa nghiên cứu những biến đổi của thời đại trong giai đoạn hiện nay đối với Quân đội nhân dân Việt Nam

 


Nghiên cứu những biến đổi của thời đại trong giai đoạn hiện nay là cơ sở để nâng cao nhận thức lý luận cho cán bộ, chiến sĩ về thời đại hiện nay, những yếu tố đã và đang tác động đến công cuộc đổi mới, sự nghiệp xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nâng cao kỹ năng tư duy chính trị, khả năng nhận định, đánh giá về tình hình thời đại, thời cuộc…, từ đó củng cố lập trường giai cấp công nhân, tin tưởng vào sự tất thắng của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc nắm vững những vấn đề lý luận về thời đại là cơ sở để mọi cán bộ, chiến sĩ hiểu được cơ sở khoa học tất yếu của sự lựa chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta.

Vì vậy, quân đội phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phòng chống có hiệu quả “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình, ổn định của đất nước. Đồng thời, Quân đội ta phải làm tốt chức năng của đội quân chiến đấu, lao động sản xuất và công tác. Quân đội ta cần phải chăm lo nâng cao sức mạnh chiến đấu, nâng cao năng lực công tác vận động quần chúng và hoạt động thực tiễn.

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, quân đội phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại; tăng cường an ninh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa tư tưởng; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; chủ động làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch; xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở. Tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh, dựa vào xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó các lực lượng vũ trang làm nòng cốt; kết hợp với thực hiện đồng bộ đường lối đối ngoại đúng đắn, tạo mối quan hệ quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

 Cán bộ, chiến sĩ quân đội càng cần phải là những người có nhận thức sâu sắc nhất, niềm tin vững vàng, đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đồng thời, phải ra sức học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, bản chất giai cấp công nhân; hiểu biết sâu sắc về thời đại hiện nay.

Nhận thức rõ nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng và mâu thuẫn của thời đại trong giai đoạn hiện nay. Nắm vững quan điểm đường lối, nghị quyết của Đảng về vấn đề thời đại ngày nay. Xác định và làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong tình hình mới. Ra sức xây dựng quân đội, đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy tinh nhuệ về chính trị làm cơ sở. Sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.

Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường

 


Các dân tộc ngày càng hiểu rõ giá trị của độc lập, tự chủ, tự cường. Bài học thực tiễn sâu sắc là mất độc lập, tự chủ, đất nước thường rơi vào cảnh đói nghèo, bất công, vị thế trên trường quốc tế giảm sút... Đồng thời, những tấm gương về một dân tộc như Việt Nam, Cu Ba... đã chủ động, sáng tạo đấu tranh thắng lợi các nước đế quốc giàu mạnh để giành độc lập, tự chủ và phát triển đang cổ vũ cho các dân tộc khác noi theo.

Hiện nay, các dân tộc đang tích cực đấu tranh đòi độc lập, tự chủ chống lại mưu đồ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Ngay cả các nước tư bản là đồng minh của Mỹ cũng muốn khẳng định mình, kiên quyết chống lại sự can thiệp, áp đặt hoặc khống chế của Mỹ. Tuy gặp nhiều khó khăn, song các nước khác vẫn quyết tâm chống lại các hình thức can thiệp, áp đặt của các nước tư bản, đòi thiết lập trật tự thế giới mới công bằng, bình đẳng, giữ gìn độc lập tự chủ. Vì vậy, “Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”[1].



[1] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.21.

Dân chủ hóa trong thời đại ngày nay

 


Dân chủ hóa là quá trình biến đổi chính trị và xã hội nhằm thiết lập chế độ dân chủ. Đó là quá trình biến đổi, quá độ từ chế độ phi dân chủ sang chế độ dân chủ, quá trình thực hiện dân chủ trên thực tế trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quan hệ quốc tế. Đó là sự quá độ từ trạng thái chưa dân chủ sang dân chủ, từ dân chủ trình độ thấp lên dân chủ trình độ cao hơn, từ dân chủ chưa hoàn thiện sang dân chủ hoàn thiện.

 Dân chủ hóa là một xu thế lớn hiện nay của thời đại, diễn ra ở các cấp độ, các quốc gia trên thế giới. Dân chủ hóa ở các nước phương Tây hiện nay gồm: Cải cách nhà nước, xây dựng nhà nước dân chủ mới; thực hiện đường lối trung dung cấp tiến - dân chủ; củng cố gia đình dân chủ; dân chủ hóa chính trị toàn cầu. Hiện nay dân chủ hóa các vấn đề quốc tế cũng là một xu thế lớn. Tất cả các vấn đề quốc tế đều phải được các nước đưa ra bàn bạc và quyết định theo đa số, theo quy định của luật pháp và những thông lệ quốc tế.

Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh

 


Thế giới hiện nay là thế giới toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; là cả một không gian mở, đan xen lợi ích, tùy thuộc lẫn nhau. Một khi khủng hoảng kinh tế ở một khu vực hoặc một nước lớn kéo theo khủng hoảng toàn cầu. Những vấn đề toàn cầu, nhất là một số vấn đề an ninh phi truyền thống buộc cả cộng đồng quốc tế phải chung tay giải quyết. Sự biến đổi khí hậu khác thường, thiên tai nghiệt ngã đang diễn ra rất đáng lo ngại. Sự phát triển không thể ngăn cản của các loại vũ khí giết người khủng khiếp cũng là yếu tố làm cho bất kỳ giới cầm quyền nào, cho dù là nước xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa cũng phải tính toán kỹ vấn đề chiến tranh hay hòa bình. Như vậy, cùng với việc đổi mới nhận thức của toàn nhân loại, đặc biệt là của giới lãnh đạo các nước về trách nhiệm chung đối với sự phát triển thế giới, những nhân tố khách quan nêu trên vừa thúc đẩy, đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho việc cùng tồn tại và hợp tác cùng phát triển đối với tất cả các nước.

Trong khi nhận rõ sự hợp tác giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hiện nay là khá toàn diện, thì không thể quên rằng những mâu thuẫn giữa hai chiều hướng phát triển này vẫn chứa đựng mâu thuẫn vốn có. Các thế lực hiếu chiến và thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu, thủ đoạn muốn xóa sổ chủ nghĩa xã hội. “Diễn biến hòa bình” là một trong những chiến lược tổng thể của chủ nghĩa đế quốc nhằm thực hiện mục tiêu đó. Tất cả những thủ đoạn mà các thế lực đế quốc đã và đang sử dụng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, cũng như đối với giai cấp những người lao động trên toàn thế giới cho thấy, cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay không kém phần gay gắt, quyết liệt và phức tạp. Bởi vậy, trong điều kiện mở cửa, hội nhập với thế giới, thu hút vốn đầu tư, công nghệ và hợp tác giao lưu với các nước tư bản, các nước xã hội chủ nghĩa phải luôn kiên định bảo vệ nền tảng tư tưởng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, hợp tác cùng phát triển nhưng luôn cảnh giác và sẵn sàng đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và mục tiêu lý tưởng của mình.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, tư

 


Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba xuất hiện vào khoảng từ năm 1969, với sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông tin, sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất.

Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet.

Cách mạng công nghiệp lần thứ ba đưa tới cho nhân loại nền sản xuất tự động, tạo điều kiện tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực xã hội, đồng thời kéo theo sự thay đổi cơ cấu của nền sản xuất xã hội.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (ra đời và phát triển trên nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba). Khái niệm Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay cách mạng công nghiệp 4.0) xuất phát từ khái niệm “Industrie 4.0” được sử dụng lần đầu vào năm 2011 tại Hội chợ Hannover.[1] 5 năm sau, tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) lần thứ 46 tổ chức ở Davos, Thụy Sỹ, ngày 20/1/2016, với sự có mặt của 40 nguyên thủ quốc gia và hơn 2.500 quan khách từ hơn 100 nước trên thế giới với chủ đề “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã đưa ra một định nghĩa mới, mở rộng hơn khái niệm Công nghiệp 4.0 của Đức đồng thời khẳng định: Nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới, có thể thay đổi hoàn toàn cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau. Quy mô, phạm vi và sự phức tạp của lần chuyển đổi này không giống như bất kỳ điều gì mà loài người đã từng trải qua.

Đến đây nội hàm khái niệm Cách mạng mạng công nghiệp lần thứ 4 chính thức được nhận diện. Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của Đức với sự tham gia của nhiều nước và trở thành một phần quan trọng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó đến nay, nhiều nghiên cứu cho rằng thế giới đang bước sang một cuộc cách mạng mới - “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ra đời khi công nghệ đạt được những bước phát triển vượt bậc, có sự kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa đến cho nhân loại nền sản xuất thông minh, được dự báo sẽ tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ về lực lượng sản xuất và cách thức tổ chức sản xuất của con người.



[1] Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có trong lịch sử từ năm 2011, thuật ngữ “cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã được đề cập và sử dụng phổ biến trên toàn thế giới. Khái niệm “công nghiệp 4.0” (industry 4.0) hay nhà máy thông minh lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ công nghiệp Hannover (Cộng hòa Liên bang Đức) vào năm 2011. Năm 2013, thuật ngữ công nghiệp 4.0 bắt đầu được tìm hiểu và tìm kiếm rộng rãi xuất phát từ một báo cáo của Chính phủ Đức đề cập đến cụm từ này nhằm nói tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. Tại Diễn đàn kinh tế thế giới lần thứ 46 ở thành phố Davos-Klosters, Thụy Sĩ (tháng 01/2016) với chủ đề “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Giáo sư Klaus Schwab - Chủ tịch Diễn đàn kinh tế thế giới đã đưa ra một khái niệm mới, mang tính phổ quát hơn: “Một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với hệ thống vật lý không gian ảo, internet kết nối vạn vật (IoT) và internet các dịch vụ (IoS).

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai

 


Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt đầu năm 1870, đánh dấu bằng việc chế tạo ra động cơ điện và sử dụng năng lượng điện trong sản xuất và đời sống. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần này là việc sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất hàng loạt trên quy mô lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, đặc biệt là sản xuất và tiêu dùng hàng loạt.

Tác động đến quan hệ quốc tế và các vấn đề toàn cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

 


Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có tác động toàn diện, sâu sắc đến các vấn đề toàn cầu. Một mặt, nó là công cụ, phương tiện hữu hiệu để có thể giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày một thêm căng thẳng đối với nhân loại. Mặt khác, nó cũng lại làm tăng thêm mức độ căng thẳng của một số vấn đề toàn cầu, thậm chí có thể làm xuất hiện những vấn đề toàn cầu mới.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay làm cho sự phân hóa khoảng cách giàu nghèo giữa các nước ngày càng gia tăng. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở các nước tư bản chủ nghĩa không mang lại “nhà nước phúc lợi chung”, “xã hội tiêu dùng cao trong một nhà nước thiên thần”… như các học giả tư sản tán dương, trái lại, càng làm cho sự phân hóa xã hội thêm sâu sắc, tạo nên sự bất bình đẳng ngày càng nghiêm trọng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng làm tăng sự chạy đua giữa các nước, nhóm, khối nhằm chiếm công nghệ mới ngày càng gay gắt; mất đi ưu thế về lao động rẻ và nguồn tài nguyên của các nước kém phát triển, các nước đang phát triển đang trở thành những bãi thải công nghiệp, có những thách thức mới và thời cơ mới; thúc đẩy sự phân công lao động thế giới theo hướng phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng lên.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay còn làm cho giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giai cấp công nhân ở các nước ngày càng nặng nề hơn. Chủ nghĩa tư bản lợi dụng cách mạng khoa học và công nghệ, đưa ra những học thuyết kỹ trị, hậu công nghiệp (ba làn sóng văn minh)… để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.

Hiện nay, cũng có nhiều quan điểm sai trái cho rằng Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển là cứu cánh của chủ nghĩa tư bản và nó có thể thay thế cuộc cách mạng xã hội. Nhưng thực tế những mâu thuẫn nội tại trong lòng của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lại ngày càng trở lên gay gắt, biểu hiện ra về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển… sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản là quy luật tất yếu của sự phát triển lịch sử.

Các nước xã hội chủ nghĩa có cơ hội để phát triển, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội nhưng cũng đứng trước những thách thức to lớn. Nếu kịp thời nắm bắt, theo đúng quy luật vận động khách quan để nhanh chóng phát triển và xây dựng được cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nếu không kịp thời nắm bắt, không tuân thủ theo đúng quy luật khách quan thì dễ bị tụt hậu và chệch hướng xã hội chủ nghĩa…

Cuộc sống của con người bao giờ cũng tồn tại trong quan hệ gắn bó với tự nhiên. Con người ngày càng chủ động thích nghi với tự nhiên, vừa cải tạo tự nhiên để nâng cao cuộc sống của mình vừa giữ thế cân bằng, hòa hợp với tự nhiên. Điều này cũng phụ thuộc vào bản chất của mỗi chế độ xã hội, vào trình độ của khoa học và công nghệ hiện đại hiện nay.

Tác động đến quốc phòng - an ninh và bảo vệ tổ quốc của cộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

 


Khoa học và công nghệ phát triển, nhất là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra những điều kiện, cơ hội cho các nước tận dụng công nghệ hiện đại để hiện đại hóa khả năng quân sự, quốc phòng, phát triển vũ khí công nghệ cao, trang thiết bị hiện đại, đủ sức đối phó với các cuộc chiến tranh quy mô lớn, bằng vũ khí công nghệ cao, bảo vệ vững chắc tổ quốc, lợi ích quốc gia dân tộc.

Tuy nhiên, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng làm thay đổi quy mô, hình thức, mức độ tàn phá, ác liệt của chiến tranh. Về quy mô: quốc gia, khu vực, toàn cầu; hình thức: thủy - lục - không quân; chiến tranh thông tin điện tử, chiến tranh hóa học, vi trùng, chiến tranh công nghệ cao vũ khí thông minh, tự động không người lái, vệ tinh định vị toàn cầu, tên lửa tầm xa bắn trúng tới mm; tính chất: hủy diệt lớn, hậu quả lâu dài... Quy mô và mức độ khốc liệt của các cuộc chiến tranh ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại.

Các thế lực cường quyền, hiếu chiến lợi dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ phát triển để tồn tại và tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, tốc độ nhanh, cường độ cao, đe dọa độc lập chủ quyền của các quốc gia, dân tộc. Điều này tác động mạnh mẽ đến tổ chức biên chế, huấn luyện đào tạo cán bộ, binh sĩ của quân đội các nước.

Tác động đến văn hóa của cộc cách mạng công nghiệp lần thức tư

 


Quá trình phát triển văn hóa (theo nghĩa rộng) dẫn đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đồng thời, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay lại tạo ra những bước phát triển mới về chất của văn hóa.

Tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với văn hóa và giáo dục có thể diễn ra theo hướng tích cực hoặc tiêu cực, phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội, vào mục đích sử dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ. Ở các nước tư bản phát triển, khoa học và công nghệ phát triển ở trình độ cao, cơ sở vật chất - kỹ thuật dồi dào tạo khả năng sáng tạo ra những giá trị văn hóa có chất lượng cao và đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Song, do bị chi phối bởi lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản, bởi chủ nghĩa cá nhân cực đoan và lối sống thực dụng, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ lại kèm theo nảy sinh những hiện tượng phản văn hóa, làm tha hóa con người, băng hoại đạo đức xã hội.

Nhu cầu phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phù hợp với yêu cầu phát triển của khoa học và công nghệ. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ngày càng được xây dựng có chất lượng cao, càng tạo điều kiện cho khoa học và công nghệ phát triển, đồng thời sự phát triển của khoa học và công nghệ là một trong những nội dung và điều kiện để xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay cung cấp ngày càng tốt hơn công cụ, phương tiện làm cơ sở cho phát triển văn hóa, giáo dục, đòi hỏi nhiệm vụ học tập trở thành nhiệm vụ suốt đời, bởi lẽ nếu không tự học thì con người sẽ nhanh chóng bị lạc hậu so với thời cuộc.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang đưa loài người chuyển sang một nền văn minh mới, “Nền văn minh hậu công nghiệp”, “Nền văn minh truyền tin”… Ở nền văn minh này, con người có thể phát huy cao độ năng lực sáng tạo trong sản xuất, đời sống, phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống. Con người đã tạo ra lượng của cải vật chất nhiều hơn tất cả các thế hệ trước kia cộng lại. Tuy nhiên, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng khiến cho nền văn hóa dân tộc bị mai một do sự “xâm lăng văn hóa”, con người quá dựa vào máy móc mà thiếu sức sáng tạo.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo cơ sở thuận lợi cho quá trình giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ, đồng thời cũng làm gia tăng sự xung đột giữa nhiều yếu tố, giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại khi cái cũ chưa bị mất đi và cái mới (trong đó, có một số yếu tố văn hóa du nhập từ nước ngoài) cũng chưa định hình rõ nét, chưa hoàn toàn được xã hội chấp nhận. Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, một số xu hướng, phong cách văn hóa, lối sống mới hình thành đã và đang gây tranh cãi. Đó là sự thay đổi một số quan niệm, thói quen của một bộ phận người dân, từ nặng về duy tình sang duy lý, vị tình sang vị tiền; là xu hướng cho rằng gia đình không còn là trung tâm; các yếu tố mang giá trị vật chất phần nào thay thế cho yếu tố tinh thần, tình cảm; là sự hình thành tư tưởng hòai nghi, chối bỏ các giá trị văn hóa truyền thống, lịch sử dân tộc; là sự băng hoại về đạo đức, sự xuống cấp trong các quan hệ xã hội, đặc biệt là sự lệch lạc về nhận thức, sống thiếu lý tưởng trong một bộ phận giới trẻ; là sự gia tăng khoảng cách các thế hệ trong nhận thức các giá trị văn hóa chuẩn mực... Điều này phần nào phản ánh cấu trúc nhân cách trong bản thân mỗi con người đã có sự biến đổi, dẫn đến những xu hướng khác nhau trong nhận thức về hệ giá trị văn hóa chuẩn mực trong đời sống xã hội.

Tác động đến quản lý xã hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thức tư

 

 


 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra những cơ hội, điều kiện để các quốc gia dân tộc tiếp cận, vận dụng và phát triển xây dựng hệ quản trị quốc gia, hệ thống dữ liệu về thiết chế, luật pháp, cơ chế, chính sách để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội một cách thống nhất, nhanh, độ chính xác cao theo mục tiêu, ý chí của giai cấp cầm quyền. Với những ưu thế vượt trội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các nhà lãnh đạo, quản lý của quốc gia, cũng như lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở thiết lập hệ thống các nội dung dữ liệu phục vụ cho hoạt động lãnh đạo, quản lý của các đảng cầm quyền, các nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội một cách khoa học, thuận tiện, bảo đảm việc lưu giữ, kết nối, chia sẻ thông tin trong hệ thống quản trị kịp thời, thông suốt, tiết kiệm nguồn nhân lực, vật lực, ngân sách cho quản lý xã hội, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp.

Sự phát triển Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện, cơ hội để các quốc gia xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ thông minh, Chính phủ số mang lại nhiều lợi ích quốc gia dân tộc. Đối với Việt Nam, đã tận dụng thành tựu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để xây dựng Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, với nội dung cơ bản là: Phát triển Chính phủ số một cách tổng thể, toàn diện, phát huy kết quả đạt được, tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, có giải pháp, cách làm đột phá, mang tính khác biệt, để cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu phát triển Chính phủ điện tử vào năm 2021 và hình thành Chính phủ số vào năm 2025. Năm nhóm mục tiêu đến năm 2025 được đề ra trong Chiến lược gồm: Cung cấp dịch vụ chất lượng phục vụ xã hội; huy động rộng rãi sự tham gia của xã hội; vận hành tối ưu các hoạt động của cơ quan nhà nước; giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong phát triển kinh tế - xã hội; thay đổi đột phá xếp hạng quốc gia, với các chỉ tiêu cần đạt được là đưa Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu cả về chỉ số tổng thể, chỉ số tham gia điện tử cũng như chỉ số dữ liệu mở. Trong đó, người dân, doanh nghiệp có thể sử dụng dịch vụ số theo nhu cầu cá thể hóa, theo suốt cuộc đời, khi cần, theo cách thuận tiện, trực tuyến hoặc trực tiếp, dễ dàng, đơn giản, nhanh chóng, không giấy tờ, không cần sự hiện diện nếu pháp luật không yêu cầu.

Bên cạnh những tác động tích cực, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có những tác động tiêu cực đến hoạt động quản lý xã hội cả tầm vĩ mô và vi mô. Chính phủ các nước ngày càng đối mặt với áp lực phải thay đổi cách tiếp cận của mình để hoạch định và thực hiện chính sách. Sự phụ thuộc của hệ thống quản lý xã hội vào khoa học, công nghệ hiện đại tạo sức ỳ của nhà lãnh đạo, đội ngũ cán bộ quản lý, thiếu tính sáng tạo, tính nhân văn trong ứng phó với các tình huống lãnh đạo, quản lý con người, cộng đồng xã hội. Đặc biệt, đối với các nước xã hội chủ nghĩa đặt ra trong quản lý xã hội là phải kết hợp một cách hữu cơ những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng hệ thống quản tr điện tử, thông minh, hướng tới quản trị số đòi hỏi đào tạo nguồn nhân lực quản lý, điều hành chất lượng cao, cùng với nguồn tài chính lớn mới là những thách thức không nhỏ đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển.

“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là đặc trưng chủ yếu mà chế độ ta xây dựng

 


Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, được kết tinh từ chọn lọc những giá trị tiến bộ nhất của các cuộc cách mạng trên thế giới kết hợp với khát vọng ngàn đời của nhân dân Việt Nam. Các giá trị trong đặc trưng này có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nền tảng và sự bảo đảm bền vững cho hạnh phúc của nhân dân ta. Đồng thời, các giá trị trên thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội trước đó, nhất là chế độ tư bản. Vì vậy, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô cùng khó khăn, gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam - một nước đang phát triển, chưa có “nền đại công nghiệp” (điều kiện cần thiết để xây dựng chủ nghĩa xã hội như C.Mác đã chỉ rõ). Nhưng để trở thành xã hội chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng nêu trên, không có cách nào khác là toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội. Và, Việt Nam đang từng bước đạt tới các mục tiêu cần có trong hiện thực. Đến Đại hội XIII, tiêu chí “hạnh phúc”, tuy chưa đưa vào hệ mục tiêu của xã hội chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhưng được Đảng ta nêu ra như một thành tố trong mục tiêu tổng quát, đó là “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[1].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.326.