Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

ĐEM LẠI HẠNH PHÚC CHO NHÂN DÂN - CÁI GỐC CỦA MỘT ĐẤT NƯỚC HÙNG CƯỜNG


Mục tiêu của cách mạng, lý tưởng phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt 13 nhiệm kỳ qua luôn là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã minh chứng “dân là gốc,” trọng dân, gần dân, sát dân và thấu hiểu dân sẽ quy tụ được nhân dân, tạo nên sức mạnh to lớn. Mang lại ấm no, hạnh phúc cho dân là cái gốc vững bền cho một đất nước hưng thịnh.
“Mọi việc lợi nên làm cho dân, mọi mối hại nên bỏ”
Trong một lần tuần du ngoại thành, vua Lê Thánh Tông bỗng gặp một cụ già mặc áo rách, đang run cầm cập. Sẵn lòng nhân từ, vua liền cởi áo long bào đang mặc định đưa cho cụ già mặc. Quan hộ giá vội can ngăn. Nhà vua khoát tay nói: “Trẫm biết rồi, trẫm thương dân như chính thương con của trẫm.” Thế rồi, nhà vua liền truyền lệnh mở kho phát chăn chiếu, đồ mặc ấm cùng với lương thực cho dân nghèo khó, cùng các cụ già neo đơn.
“Đế vương phải nuôi dưỡng bằng lòng dân, để đức trùm khắp tám phương, để dân sống no đủ, không còn đói rét, lưu vong nữa. Thương yêu dân là trách nhiệm của quan lại, mọi việc lợi nên làm cho dân, mọi mối hại nên bỏ,” quan niệm ấy theo suốt 37 năm trị vì của vị vua suốt đời vì dân Lê Thánh Tông.
Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) dưới thời vua Lê Thánh Tông có nhiều quy phạm mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, bảo vệ quyền lợi của người dân, những người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại, thể hiện đậm nét tư tưởng “dân là gốc”.
Lo cho dân, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay, là một trong những kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Đại hội XIII của Đảng cũng xác định “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”.
Đem lại hạnh phúc cho nhân dân
Nhìn từ thời Hồng Đức để thấy ở thời nào cũng vậy, an dân, chăm lo cho dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân là điều căn cốt, là cái gốc vững bền cho một đất nước hùng cường. Mục tiêu của cách mạng, lý tưởng phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt 13 nhiệm kỳ qua luôn là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân Pháp cũng là bởi để mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân ta được hoàn toàn giải phóng: Đã phá tan cái xiềng xích nô lệ thực dân, đã đập đổ cái chế độ thối nát của vua quan phong kiến, đã lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó dân ta làm chủ nước ta”.
Theo Giáo sư, Tiến sỹ Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, từ kiếp sống nô lệ, tủi nhục, lầm than, trong cảnh “Non sông thẹn với nước nhà, vua là tượng gỗ, dân là thân trâu,” Cách mạng Tháng Tám không chỉ hồi sinh số phận vốn có của nhân dân trong lịch sử của nhà nước Việt Nam độc lập, mà còn đưa nhân dân lên vị thế chủ nhân thật sự của đất nước, làm chủ vận mệnh của mình, được hưởng các quyền con người, quyền tự do, công bằng như bất kỳ một dân tộc văn minh, tiến bộ nào khác.
Từ cuộc hồi sinh sau Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam cùng đất nước mình đã bước lên vũ đài chính trị thế giới với một vị thế mới đầy tự hào, vẻ vang.
Chỉ bốn tháng sau ngày Cách mạng thắng lợi, lần đầu tiên, nhân dân được thực hiện quyền làm chủ của mình, cầm lá phiếu để tự tay bầu ra Quốc hội của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cử ra chính quyền từ cấp xã đến Trung ương.
Từ đây, trên đất nước Việt Nam, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gần dân, trọng dân, tất cả vì nhân dân phục vụ.
Với quan điểm mọi quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân, Người luôn hướng về nhân dân, đến với dân, hòa mình với nhân dân để hiểu dân, kịp thời có những chủ trương, quyết sách hợp với lòng dân, giải quyết những bức xúc của dân.
Người là tấm gương mẫu mực của người lãnh đạo suốt đời làm công bộc tận tụy, làm đầy tớ trung thành của nhân dân, thấu hiểu cuộc sống của dân và luôn thấu cảm lòng dân.
Từ Hiến pháp đến các văn bản pháp quy, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đều thể hiện nhất quán quan điểm đề cao quyền làm chủ của nhân dân, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức".
Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc,” tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.
Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân, trong Văn kiện đã xác định thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân; xây dựng các cơ chế, chính sách, phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam; phát huy tối đa nhân tố con người - coi con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển.
Nghị quyết Đại hội XIII nhấn mạnh tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; đề cao khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đặc biệt coi trọng chỉ số hạnh phúc của người dân để đánh giá về sự tiến bộ, ưu việt của quốc gia.
Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025 đều hướng đến chỉ số hạnh phúc: đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700-5.000 USD; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1-1,5% hằng năm; có 10 bác sỹ và 30 giường bệnh/vạn dân; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi...
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người ước đạt khoảng 7.500 USD/năm).
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Việc xác định các mục tiêu cụ thể theo các tiêu chí mới thể hiện bước tiến nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Muốn an dân thì phải làm cho dân an. Muốn nhân dân hạnh phúc thì phải mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Hạnh phúc giờ đây không chỉ là cơm no, áo ấm, ai cũng được học hành, mà đa chiều, bao gồm cả vật chất lẫn tinh thần.
Nhìn vào các chỉ số thu nhập bình quân đầu người tăng lên hằng năm, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm dần qua từng nhiệm kỳ, hệ thống an sinh xã hội phát triển theo hướng toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân để “không ai bị bỏ lại phía sau,” quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân được bảo vệ, có thể thấy, đây là những minh chứng sinh động cho sự quan tâm của Đảng, Nhà nước.
Trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, tư tưởng “dân là gốc,” quan điểm “vì dân” một lần nữa được thể hiện rõ khi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhiều lần khẳng định bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân là trên hết, trước hết.
Giáo sư, Tiến sỹ Phùng Hữu Phú, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, đánh giá: "Qua quá trình phòng, chống đại dịch COVID-19, chúng ta càng hiểu rõ không phải cứ thu nhập cao, tốc độ tăng trưởng nhanh là sung sướng, mà quan trọng nhất là cuộc sống bình yên và hạnh phúc".
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: "Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng".
Hạnh phúc của nhân dân luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng từ khi thành lập cho đến khi đạt được những thành tựu đặc biệt quan trọng của ngày hôm nay. Và trong tương lai, mục tiêu này tiếp tục là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho sự nghiệp xây dựng Đảng và phát triển đất nước. Bởi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”./.
Tạp chí Tuyên giáo
Có thể là hình ảnh về 3 người và trẻ em
Tất cả cảm xúc:
1

KHEN THƯỞNG SAO CHO THỰC CHẤT


Thời điểm này, các cơ quan, đơn vị đang tổ chức Đại hội Thi đua Quyết thắng giai đoạn 2019-2024. Đây là dịp để tổng kết đánh giá công tác thi đua, biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ; đồng thời nhân rộng, lan tỏa những mô hình hay, cách làm sáng tạo trong phong trào thi đua.
Nếu ví thi đua là gieo trồng thì khen thưởng là gặt hái. Thi đua để tạo động lực cho mọi người cùng phấn đấu đạt được những chỉ tiêu đề ra. Còn khen thưởng là hái “quả ngọt” sau quá trình nỗ lực thực hiện các mặt thi đua.
Trong tâm lý con người, ai cũng thích được khen. Dù chỉ là lời biểu dương đúng lúc, đúng chỗ cũng tạo tinh thần hứng khởi, tự tin cho mỗi người. Hình thức khen tạo ra cảm xúc tích cực, có tác dụng kích thích con người hành động hướng đến những việc làm tốt hơn, hiệu quả hơn. Đi cùng với khen là thưởng. Đó là những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần dành cho cá nhân, tập thể được khen. Khen thưởng đúng người, đúng việc chính là biện pháp hữu hiệu để nhân thêm người tốt - việc tốt.
Tuy nhiên, bên cạnh những danh hiệu, phần thưởng dành cho các tập thể, cá nhân xứng đáng, thực tế thời gian qua, ở một số cơ quan, đơn vị vẫn còn tồn tại bất cập trong công tác khen thưởng. Vì muốn được khen thưởng, một số cá nhân, tập thể có động cơ thi đua không lành mạnh, thiếu trong sáng, tìm mọi cách để "đánh bóng" kết quả, nâng cấp thành tích. Có người vì mục đích cá nhân đã “chạy” khen thưởng nhằm đủ tiêu chí xét cân nhắc vị trí mới, nâng lương.
Có trường hợp lợi dụng địa vị công tác để vơ nhận khen thưởng thái quá về mình. Người lại phấn đấu theo “mùa vụ”, được khen rồi thì có biểu hiện làm việc trung bình chủ nghĩa, cầm chừng. Trong khi đó, còn có đơn vị khen thưởng theo kiểu phân bổ đều chỉ tiêu hoặc xoay vòng lần lượt để ai cũng được khen, "hoa thơm mỗi người hưởng một tí". Cách làm này vô hình trung tạo ra tâm lý cào bằng, triệt tiêu động lực phấn đấu thi đua.
Người Việt ta rất coi trọng khen thưởng, coi đó là niềm vinh dự trước cộng đồng, làng xã. “Trăm đồng tiền công không bằng một đồng tiền thưởng” là vậy! Khi khen thưởng thực chất là góp phần tạo "men say" tích cực để mỗi cá nhân, tổ chức tăng thêm niềm tin, động lực rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Ngược lại, khen thưởng thiếu trung thực, không công bằng, chạy theo thành tích, tranh công đổ lỗi không chỉ là hành vi thiếu văn hóa mà còn kéo phong trào thi đua đi xuống, thậm chí gây mất đoàn kết, tạo dư luận xấu trong tập thể.
Để vườn hoa thi đua kết “quả ngọt” thực sự thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải hết sức công tâm, khách quan, khen thưởng phân minh trên cơ sở đánh giá trung thực kết quả thực hiện nhiệm vụ của cá nhân, tập thể được đề nghị khen thưởng. Các cơ quan, đơn vị phải phát huy dân chủ, công khai bình xét khen thưởng đúng người, đúng việc.
Cùng với đó, mỗi người cần nhận thức sâu sắc ý nghĩa, giá trị của phong trào thi đua, đề cao lòng tự trọng, uy tín, danh dự, tự giác phấn đấu để nhận được hình thức khen thưởng xứng đáng. Việc khen thưởng đúng người, đúng việc sẽ góp phần tạo ra nền tảng văn hóa thi đua lành mạnh, lan tỏa những năng lượng tích cực, giá trị tốt đẹp cho cơ quan, đơn vị./.

XÂY DỰNG BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN LÀ GÓP PHẦN ĐẤU TRANH CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ VAI TRÒ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


Đảng ta cần đổi mới tư duy về công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, cần vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, đảng viên. Trước hết cần xây dựng các tiêu chí cụ thể để đáng giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, xem xét về bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó cần khắc phục triệt để cách đánh giá cán bộ, đảng viên một cách chung chung, hình thức bởi cách đánh giá đó sẽ không tạo được động lực để cán bộ, đảng viên phấn đấu vươn lên, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Tuy nhiên, khi xem xét, đánh giá cán bộ, đảng viên nói chung, đánh giá về bản lĩnh chính trị nói riêng cần phải căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương mà họ công tác
1. Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam đều nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp và phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Các phần tử thù địch này thường rêu rao những luận điệu như:
“(1) Đảng Cộng sản bản chất là không dân chủ và do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo và cầm quyền là vi phạm nền dân chủ;
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội tức là theo chế độ đảng trị, “đảng chủ”;
(3) Một đảng duy nhất cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị;
(4) Chế độ một đảng lãnh đạo, độc quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền;
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam hơn ai hết và trước hết nên thẳng thắn sám hối những sai lầm của mình; tình trạng khủng hoảng và đói nghèo ở Việt Nam hoàn toàn là hệ quả của chính sách cai trị độc tài dựa theo chủ nghĩa Mác - Lênin mà Đảng Cộng sản Việt Nam áp đặt trên đất nước Việt Nam;
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền; duy trì sự thống trị của giới thượng lưu;
(7) Đảng không nên giữ vai trò lãnh đạo, không nên và không thể lãnh đạo tuyệt đối, phải đa đảng…”.
Các thế lực thù địch âm mưu tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông, các trang mạng nhằm hạ bệ uy tín của Đảng, kêu gọi thực hiện “đa đảng”, từ đó tiến tới xây dựng một chế độ chính trị mới ở Việt Nam do các thế lực thù địch, phản động giật dây, điều khiển. Do đó, Đảng vạch rõ các luận điệu của các thế lực thù địch về vai trò cầm quyền của Đảng, phản bác các quan điểm đó bằng luận chứng, luận cứ khoa học có căn cứ từ thực tiễn cầm quyền của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên trên cơ sở đó xây dựng bản lĩnh chính trị cho Đảng. Khi bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng, mọi đường lối, quyết sách chính trị đúng đắn của Đảng được thực hiện thắng lợi, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước. Nhân dân được thụ hưởng trên thực tế các thành quả của công cuộc đổi mới đất nước là bằng chứng rõ nhất làm vô hiệu mọi luận điệu sai trái, thù địch đối với vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên - nhân tố bảo đảm vai trò cầm quyền của Đảng
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là tổng hợp các phẩm chất đạt đến trình độ có thể tự quyết định một cách độc lập, sáng tạo, làm chủ hành vi chính trị của mình trước những bước ngoặt và tình huống phức tạp về chính trị thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên biểu hiện ở các phương diện sau: sự vững vàng, kiên định và nhạy cảm trước những biến động chính trị - xã hội; tích cực tham gia vào các quá trình chính trị - xã hội trên cương vị chức trách được giao; giải quyết chính xác, nhanh chóng và có hiệu quả những vấn đề nảy sinh ở cơ quan, đơn vị theo thẩm quyền.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng đối với; sự phát triển mọi mặt của bản thân cán bộ, đảng viên; công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên là một trong những yếu tố quan trọng hình thành bản lĩnh chính trị của Đảng. Bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng được thể hiện ở tính tự quyết định một cách độc lập thái độ, hành động của mình, không vì áp lực bên ngoài mà thay đổi quan điểm, đường lối, chiến lược, sách lược; ở sự mềm dẻo, linh hoạt trong sách lược, thái độ và khả năng xử lý các tình huống phức tạp; ý chí và khả năng đấu tranh chống lại sự tấn công của kẻ thù; sự nhạy cảm với cái mới và khả năng tự đổi mới. Nhờ có bản lĩnh chính trị vững vàng mà Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Do đó, trải qua các thời kỳ, Đảng đều coi trọng xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên - nhân tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên là toàn bộ các hoạt động của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên nhằm làm cho cán bộ, đảng viên độc lập, sáng tạo, làm chủ hành vi chính trị của mình trước những bước ngoặt và tình huống phức tạp về chính trị, thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao.
Hoạt động xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên bao gồm các nội dung như: Nâng cao năng lực nhận thức, trình độ hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước; Bồi dưỡng ý chí kiên định với mục tiêu, lý tưởng, con đường xã hội chủ nghĩa; Bồi dưỡng năng lực tự định hướng và vươn lên trong học tập, công tác, làm chủ tri thức tổng hợp, tri thức chuyên môn, tri thức lý luận chính trị; Nâng cao năng lực tự rèn luyện, tu dưỡng trong thực tiễn về phẩm chất đạo đức, nhân cách, phương pháp công tác, kỹ năng làm việc; Nâng cao khả năng tôi luyện ý chí tư tưởng, khả năng đấu tranh với những lệch lạc, sai trái; khả năng làm chủ trước những cám dỗ vật chất, những tiêu cực của mặt trái của kinh tế thị trường; cảnh giác với những thủ đoạn của âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...
Xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên là có vai trò vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong tình hình: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…” . Đây là một trong các nguy cơ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Cần thiết phải khắc phục nguy cơ này để góp phần giảm thiểu, kìm chế tác động, ảnh hưởng của nguy cơ khác. Do đó, Đảng cần thực hiện hệ thống giải pháp đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ, trước mắt là xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
3. Nội dung xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên giai đoạn hiện nay
Một là, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn luôn bám sát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về cán bộ, đảng viên.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở để nâng cao giác ngộ chính trị, niềm tin, tình cảm cách mạng và ý chí chiến đấu của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên trở nên nhanh nhạy, quyết đoán, chủ động trước các bước ngoặt, tình huống khó khăn khi họ nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng, quyết định công tác xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hai là, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm mục tiêu nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên chính là sự cụ thể hóa bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, mang bản chất giai cấp công nhân, cì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do đó, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thành công việc xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ba là, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tiến hành đồng bộ, từ việc nâng cao nhận thức tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, nâng cao năng lực công tác, phương pháp làm việc, tác phong công tác; phối hợp nhiều lực lượng cùng tham gia.
Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên được hình thành, phát triển thông qua quá trình hoạt động thực tiễn, thông qua giáo dục, rèn luyện, phấn đấu và tích lũy thường xuyên, lâu dài. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên do nhiều yếu tố tạo nên, trong đó, chủ yếu là các yếu tố như: trình độ nhận thức, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, lý tưởng chiến đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; các tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, nhất là tri thức lý luận chính trị; tình cảm cách mạng, lòng yêu Tổ quốc, yêu thương nhân dân, tâm hồn trong sáng, thể chất khoẻ mạnh; sự tôi luyện trong thực tiễn, đối mặt với những khó khăn, thách thức và sự tích lũy các kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
Nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên không tách rời việc nâng cao đạo đức cách mạng, khắc phục có hiệu quả các biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống...
Bốn là, đề cao vai trò tự giác tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên.
Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên là một cách thức quan trọng để nâng cao bản lĩnh chính trị của họ. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Năm là, xác định các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và tạo môi trường thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Kinh nghiệm hoạt động thực tiễn chính trị sẽ cung cấp cho người cán bộ, đảng viên những tri thức về đời sống chính trị, giúp họ làm giàu trí tuệ của mình, khắc phục hạn chế thiếu sót, củng cố niềm tin và lòng dũng cảm. Nhờ đó mà họ dám đương đầu với mọi khó khăn, gian khổ, thách thức, thậm chí chấp nhận hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên không ngừng được trau dồi, rèn luyện, củng cố, tăng cường thông qua thực tiễn hoạt động chính trị bởi lẽ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn chính trị giúp cán bộ, đảng viên giải quyết các tình huống chính trị nảy sinh đồng thời nâng cao niềm tin vào sự đúng đắn của đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4. Tăng cường xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần đấu tranh phòng, chống những quan điểm sai trái, thù địch về vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên giai đoạn hiện nay
Cần nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của việc xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên. Việc phát huy tính tiền phong của đảng viên có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo nên bản lĩnh chính trị của Đảng, ảnh hưởng quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở năng lực đề ra các quyết sách chính trị đúng đắn và hiện thực hóa các quyết sách đó. Khi bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao sẽ góp phần đẩy lùi các nguy cơ đối với đảng cầm quyền đồng thời nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng. Do đó, xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên có vai trò rất quan trọng đối với việc củng cố vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, thực hiện nghiêm chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị được Trung ương và các cấp ủy quan tâm tổ chức thực hiện, góp phần nâng cao trình độ lý luận, quán triệt quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng. Cần quán triệt, thực hiện tốt hơn nữa các Nghị quyết, Quy định của Đảng về học tập lý luận chính trị, trong đó, tập trung thực hiện Quy định số 54-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng; Quy định số 164-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý… Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trong hệ thống các trường chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, chú trọng xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thiết thực, hiệu quả. Mục tiêu các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống trường Đảng phải nâng cao trình độ lý luận chính trị, mở rộng tầm nhìn, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng cho các thế hệ học viên.
Ba là, phát huy tính tích cực, tự giác rèn luyện bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và xây dựng cơ chế thúc đẩy cán bộ, đảng viên tự nâng cao bản lĩnh chính trị
Tự học tập, tự giác tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên là phương thức chủ yếu và trực tiếp để họ tự mình nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực công tác đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Muốn vậy, các cấp ủy đảng cần tăng cường công tác giáo dục thường xuyên cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về tiêu chuẩn đảng viên, về tầm quan trọng của việc tự tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Bên cạnh đó, các cấp ủy cần tạo môi trường, điều kiện, nhất là tạo ra các phong trào để cán bộ, đảng viên tích cực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị.
Bốn là, tạo môi trường cho cán bộ, đảng viên được thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị
Bản lĩnh chính trị của cán bộ đảng viên có điều kiện được bộc lộ khi họ được hoạt động trong môi trường có nhiều thử thách, trong tình huống phức tạp về chính trị. Càng nhiều khó khăn, thử thách, thì càng bộc lộ rõ bản lĩnh chính trị. Bên cạnh đó, bản lĩnh chính trị được được tôi luyện, vững vàng trong môi trường công tác có nhiều khó khăn, thử thách, có nhiều cám dỗ. Tình huống phức tạp về chính trị là dung môi tốt nhất để thử, để nhận biết về bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên.
Năm là, đổi mới công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, chú trọng đánh giá về bản lĩnh chính trị
Đảng ta cần đổi mới tư duy về công tác đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, cần vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, đảng viên. Trước hết cần xây dựng các tiêu chí cụ thể để đáng giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, xem xét về bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó cần khắc phục triệt để cách đánh giá cán bộ, đảng viên một cách chung chung, hình thức bởi cách đánh giá đó sẽ không tạo được động lực để cán bộ, đảng viên phấn đấu vươn lên, rèn luyện bản lĩnh chính trị. Tuy nhiên, khi xem xét, đánh giá cán bộ, đảng viên nói chung, đánh giá về bản lĩnh chính trị nói riêng cần phải căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương mà họ công tác./.

PHÁT HUY VÀ LAN TỎA GIÁ TRỊ VĂN HÓA “BỘ ĐỘI CỤ HỒ” TRONG TÌNH HÌNH MỚI


Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Đối với Quân đội, quan điểm về xây dựng nền văn hóa đó đã được kết tinh thành những giá trị cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” và không ngừng lan tỏa bằng những hành động, việc làm vì Tổ quốc, vì nhân dân của cán bộ, chiến sĩ Quân đội trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành.
Phẩm chất của “Bộ đội Cụ Hồ” cũng là đại diện tiêu biểu cho phẩm chất đạo đức của người chiến sĩ cộng sản, người quân nhân cách mạng; được Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI khái quát: “Kiên định vững vàng, động cơ trong sáng, trách nhiệm cao, hành động đẹp; đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, thực sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; có tri thức khoa học, trình độ quân sự, năng lực, phương pháp, tác phong công tác và sức khỏe tốt; dân chủ, kỷ luật tự giác, nghiêm minh; đoàn kết, tôn trọng, gắn bó máu thịt với Nhân dân, có tinh thần quốc tế trong sáng”. Đó cũng là những giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” mà dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được phát huy, lan tỏa để hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm tròn chức năng đội quân công tác. Sự lan tỏa đó được biểu hiện rõ trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, toàn quân đều thực hiện tốt công tác dân vận, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, xóa đói, giảm nghèo,... làm sâu sắc hơn mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Quân đội với nhân dân, góp phần tăng cường lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trên thực tế, các phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”; chương trình “Cảnh sát biển đồng hành cùng ngư dân”, “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển”, “Nâng bước em tới trường”, “Bò giống giúp người nghèo nơi biên giới”, “Con nuôi đồn biên phòng”,… đã được triển khai phù hợp thực tiễn ở từng cơ quan, đơn vị, mang lại hiệu quả cao trong công tác dân vận. Riêng từ năm 2020 đến 2022, Quân đội vừa huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực, chủ động đi đầu trong phòng, chống dịch Covid-19; phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhân dân. Đặc biệt, trong năm 2022, Quân đội đã huy động 119.503 lượt cán bộ, chiến sĩ và 5.634 lượt phương tiện tham gia cứu nạn hiệu quả 1.105 vụ, cứu được 1.107 người, 231 phương tiện; dập cháy 629 nhà và 310,43 ha rừng; di dời 32.142 hộ dân đến nơi an toàn tránh bão lũ; sửa chữa 3.559 nhà, 198 km đường giao thông; thu hoạch 23.540 ha lúa và hoa màu, v.v.
Những kết quả trên đã tiếp tục khẳng định truyền thống “Trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” luôn có mặt kịp thời ở những nơi khó khăn gian khổ, kề vai sát cánh giúp đỡ nhân dân trong ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân, góp phần lan tỏa giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” trong đời sống xã hội; được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Quân đội luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường; qua đó, ngày càng làm sâu sắc hơn, tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới,... cán bộ, chiến sĩ toàn quân đã thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, xứng đáng là Quân đội của Nhân dân, Quân đội trong lòng dân”3.
Ở nước ta, những năm gần đây, cùng với sự xuất hiện các giá trị văn hóa mới, những hiện tượng phản văn hóa ngày một gia tăng, làm sói mòn, thậm chí phá vỡ một số chuẩn mực thiêng liêng đã được xây dựng từ ngàn đời trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, văn hóa, xã hội; làm phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh, gia tăng tội phạm, tệ nạn xã hội, v.v. Một số người đề cao các yếu tố vật chất đã hình thành, phát triển lối sống thực dụng, bỏ qua những giá trị, chuẩn mực đạo đức, nhân cách con người, văn hóa xã hội để làm giàu, kiếm tiền bằng mọi thủ đoạn, kể cả chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Tất cả đều thuộc về những nhận thức, hành vi phản văn hóa đã và đang tồn tại trong đời sống xã hội nước ta, đòi hỏi phải đấu tranh khắc phục, xóa bỏ trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng hiện nay.
Để đấu tranh loại bỏ những hành vi phản văn hóa hiện nay, bên cạnh những biện pháp hành chính và pháp luật mang tính răn đe, cần lan tỏa những điều tốt đẹp, nhân rộng những tấm gương bình dị và trong sáng, người tốt, việc tốt trong toàn xã hội; để “mỗi người tốt, việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp” như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy và không ngừng lan tỏa giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” trong đời sống xã hội chính là nhằm thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, góp phần làm trong sạch, lành mạnh môi trường văn hóa xã hội ở nước ta hiện nay. Theo đó, cần tập trung vào một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau:
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là truyền thống quyết chiến, quyết thắng, mưu trí, dũng cảm, kiên cường, bất khuất, “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Theo đó, trong điều kiện hiện nay, các cơ quan, đơn vị cần phát huy và làm lan tỏa tinh thần kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và tìm mọi biện pháp để vượt qua; dám đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần; luôn đấu tranh với tư tưởng bàn lùi, né tránh, trông chờ, ỷ lại, không nỗ lực phấn đấu vươn lên, v.v. Giữ vững và tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó máu thịt quân - dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chức năng “đội quân công tác” trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Trong thực hiện, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần coi trọng việc tuyên truyền, vận động cán bộ, chiến sĩ tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng đời sống văn hóa và nông thôn mới, giảm nghèo bền vững; nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo” và công tác tuyên truyền đặc biệt, góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết quân - dân, giữa nhân dân với Đảng.
Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp và vai trò xung kích của đoàn viên, thanh niên khi tổ chức lực lượng thực hiện nhiệm vụ tuyến đầu. Cán bộ chủ trì các cấp cần có tinh thần quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cho bộ đội tham gia phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu giúp nhân dân; tập trung cao độ tinh thần, trí tuệ để tìm ra những phương pháp, cách thức tổ chức điều hành linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải hăng hái, xung phong nhận việc khó, nơi phức tạp, vị trí tiềm ẩn nhiều nguy hiểm để làm gương, mang lại sức mạnh hiệu triệu, cổ vũ tinh thần cho bộ đội trong thực hiện chức năng “đội quân công tác”. Bên cạnh đó, cấp ủy, chỉ huy đơn vị cần có biện pháp huy động sức trẻ, sự năng động, sáng tạo, xung kích của thanh niên Quân đội. Cần xác định đây là lực lượng nòng cốt ở các vị trí, thời điểm thiết yếu để thường xuyên giáo dục, động viên, nêu cao tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng xả thân vì nhân dân của đoàn viên, thanh niên. Tăng cường huấn luyện, rèn luyện và thường xuyên định hướng, uốn nắn, chỉ bảo để đoàn viên, thanh niên hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tham gia phòng, chống thiên tai, dịch bệnh; nhất là, khi hoạt động độc lập, dưới sự quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương.
Đổi mới tư duy và hành động trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp đối với tổ chức thực hiện Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Đặt trọng tâm Cuộc vận động vào việc giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” với nội dung mới phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Đồng thời, cũng cần hướng vào việc thu hút nhân tài, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của quá trình hiện đại hóa Quân đội trong những năm tới; nhất là, nguồn nhân lực phục vụ trực tiếp cho các lĩnh vực tiến thẳng lên hiện đại, như: tác chiến không gian mạng, tác chiến điện tử, không quân, hải quân, công nghiệp quốc phòng, thông tin liên lạc, v.v.
Tiếp tục triển khai các hoạt động xây dựng môi trường văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam, xây dựng cảnh quan, môi trường ngày càng “sáng, xanh, sạch, đẹp” và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Trong đó, tập trung xây dựng các mối quan hệ văn hóa ngày càng tốt đẹp, chuẩn mực, trở thành hình mẫu trong đời sống xã hội, như: quan hệ cấp trên - cấp dưới, đồng chí - đồng đội; đoàn kết gắn bó máu thịt quân - dân; đoàn kết hữu nghị, hiểu biết, tin cậy với quân đội và nhân dân các nước láng giềng của các đơn vị đóng quân ở các địa bàn biên giới, v.v. Cùng với đó, thường xuyên quan tâm đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức Quân đội ngày càng đông đảo về số lượng, tinh mạnh về chất lượng; có cơ chế mạnh mẽ động viên, khuyến khích đội ngũ này phát huy tối đa năng lực sáng tạo, lòng nhiệt huyết trong nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa quân sự Việt Nam trong tình hình mới. Đây cũng là lực lượng nòng cốt trong sáng tác, biểu diễn, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng cao phản ánh đầy đủ đời sống của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay, góp phần làm lan tỏa những giá trị cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong đời sống xã hội.
Bằng những hành động, việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả, cán bộ, chiến sĩ toàn quân tiếp tục phát huy và làm lan tỏa những giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” cao đẹp để góp phần đẩy lùi, dẹp bỏ những nhận thức, hành vi phi văn hóa, phản văn hóa, xây dựng xã hội mới, con người mới xã hội chủ nghĩa./.
Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Có thể là hình ảnh về 5 người và văn bản
Tất cả cảm xúc:
2