Thứ Năm, 1 tháng 9, 2022

LẤY “THƯỚC ĐO” LÒNG DÂN ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHỐNG THAM NHŨNG


Hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực được đong đếm bằng “thước đo” lòng dân – loại thước cho kết quả minh bạch, chính xác, rõ ràng nhất. Niềm tin của nhân dân với Đảng trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng lãng phí hiện nay là rất lớn. Đó là dẫn chứng sinh động nhất cho quyết tâm đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng; là sự phủ định đanh thép đối với những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực. Với lý lẽ như vậy, việc các thế lực thù địch phản động xuyên tạc cho rằng trong đấu tranh phòng chống tham nhũng Đảng ta đang “giơ cao đánh khẽ” là hoàn toàn phi thực tế.
Thực tiễn đã chứng minh hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực mà Đảng đang lãnh đạo, chỉ đạo đã thu được kết quả rất lớn. Trong 10 năm qua, cấp ủy Đảng các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, 168.000 đảng viên, trong đó riêng kỷ luật và xử lý các hành vi tham nhũng là 7.390 đảng viên. Đảng cũng đã xử lý 170 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 ủy viên, nguyên ủy viên trung ương, có 4 ủy viên, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, 50 tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang. Số tiền thu hồi trong đấu tranh chống tham nhũng của 10 năm qua lên tới 975.000 tỷ đồng.
Nhìn vào các vụ việc Đảng ta quyết liệt xử lý hiện nay như vụ Việt Á, vụ thao túng thị trường chứng khoán, vụ việc liên quan đến tham nhũng trong bất động sản, trong quản lý xuất nhập cảnh…, chúng ta sẽ thấy được rất rõ sự quyết liệt của Đảng. Nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chưa bao giờ công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực lại được thực hiện mạnh mẽ, đồng bộ, quyết liệt, bài bản và hiệu quả như hiện nay. Thực tế này đủ để vạch trần xuyên tạc chống phá của các thế lực thù địch, không thể gọi như thế là “giơ cao đánh khẽ”.
Khi quyết định thành lập Ban Chỉ đạo ở địa phương để đấu tranh phòng chống tham nhũng, Đảng ta đã có những tiêu chí, quy định nhất định, mục đích của việc thành lập là để đấu tranh phòng chống tham nhũng lãng phí tiêu cực ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Muốn vậy, rõ ràng cơ quan chỉ đạo phải có đủ tâm, đủ tầm thì mới thực sự hiệu lực, hiệu quả; quy chế, quy định của trung ương phải rất rõ. Nhưng thực tế sẽ cho thấy, đơn vị, địa phương nào thực hiện tốt, quyết liệt sẽ thành công; ngược lại nơi nào còn có vấn đề này vấn đề khác sẽ khó thành công. Vai trò của người đứng đầu, sự gương mẫu của người chủ trì quyết định việc đó.
<Nguyễn Anh>
Có thể là hình ảnh về 10 người, mọi người đang đứng và văn bản
1

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 01/9

“Để lãnh đạo quân đội tiến bộ không ngừng, các đồng chí cần phải trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị, gần gũi quần chúng và gương mẫu về mọi mặt”.
Là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ cao cấp trong quân đội, ngày 01 tháng 9 năm 1959. Đây là thời điểm miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 3 năm (1958-1960) cải tạo và bước đầu thực hiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; quân dân miền Nam đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chuyển từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đưa phong trào cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ người cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ cấp tướng phải luôn phấn đấu, không ngừng trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị, gần gũi với bộ đội, với nhân dân, gương mẫu về mọi mặt. Đội ngũ sĩ quan cấp tướng quân đội đã trở thành những người lãnh đạo có uy tín, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Lời căn dặn của Bác đã trở thành phương châm hành động của mọi cán bộ, đảng viên của Đảng, nhất là đội ngũ tướng lĩnh quân đội đã thấu triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, tạo niềm tin trong quần chúng, cổ vũ, động viên quân và dân trên khắp hai miền Nam - Bắc nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ ở từng miền, góp phần vào thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Hiện nay, bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, lời căn dặn của Bác vẫn là một trong những định hướng quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất cách mạng, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, làm cơ sở ngăn ngừa, đẩy lùi những nguy cơ tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nói chung, cán bộ cấp tướng nói riêng cần phải học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn giữ vững, phát huy và không ngừng xây dựng bản chất cách mạng, đặc biệt là bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; xây dựng Quân đội vừa là lực lượng chính trị, vừa là công cụ bạo lực sắc bén, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân; đấu tranh bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát triển các quan hệ đối ngoại quân sự song phương và đa phương phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc trong tình hình mới.
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và văn bản cho biết 'ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CHỦ TỊCH Há CHÍ MINH'

LẤY VĂN TRỊ NƯỚC CỦA CÁC BẬC THÁNH NHÂN.


Nếu ai yêu lịch sử của dân tộc, chắc hẳn sẽ cùng đồng ý với tôi một điều: Tất cả các minh quân lỗi lạc qua các triều đại Việt Nam, đã được lưu danh trong lòng dân Việt, đều rất giỏi về văn thơ. Và đều dùng văn để trị nước.
Để minh chứng cho các bạn, tôi xin được bắt đầu từ thời nhà Lý, cái nôi của nền văn học nước nhà.
Chắc chắn các bạn đều nghe đến Lý Công Uẩn, một minh quân đã khai sinh ra triều đại nhà Lý. Sau khi lên ngôi, ông đã làm thay đổi vận mệnh Quốc gia bằng “chiếu dời đô” từ Hoa Lư về thành Đại La, sau đổi thành Thăng Long mà âm vang vẫn còn vang vọng đến bây giờ. Ông cũng chính là người lấy văn trị nước đầu tiên bằng các tổ chức hành chính được sắp xếp từ trên xuống dưới.
Dưới thời của ông, văn hoá Việt Nam phát triển rực rỡ. Ngoài ra, ông cũng là một nhà thơ xuất chúng.
Sử xưa còn chép lại “trong Công Dư Tiệp Ký của Vũ Phương Đề” bài thơ “Tức cảnh” của Ông:
“Trời làm chăn gối đất làm nệm/ Trời, trăng cùng đối diện giấc ngủ của ta/ Đêm tối quá không dám duỗi dài chân / Chỉ sợ núi sông đất nước nổi loạn“.
Tương truyền kể lại, khi Ông còn trẻ, rất nghịch ngợm nên một lần bị Thầy giáo phạt trói nằm dưới đất, vì không ngủ được, Ông đã ngâm nga bài thơ. Tuy tức cảnh, nhưng lời thơ vẫn ẩn chứa đầy hào sảng của một minh quân tương lai.
Vâng! Nếu thời Lý chúng ta chỉ nhắc đến Lý Công Uẩn mà quên đi danh tướng Lý Thường Kiệt thì quả chính chúng ta đã đắc tội với lịch sử, với các bậc Thánh Nhân. Bởi ông là tác giả của bài thơ Thần: “Sông núi nước Nam vua Nam ở / Rành rành định phận ở sách trời / Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” Bài thơ như một lời khẳng định bất di, bất dịch về chủ quyền của dân tộc ta và cũng là lời tuyên chiến đanh thép về ý chí quật cường của dân tộc ta chống giặc ngoại xâm: “Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”. Có thể nói, đó là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước ta và cũng là bản tuyên ngôn hay nhất của tất cả các bản tuyên ngôn trên thế giới, bởi nó được viết và tuyên bố trước trận đánh. Đó mới là cái xuất chúng, tài giỏi của người viết, người cầm binh.
- Thời nhà Trần, tôi cho rằng đây mới là thời kỳ hội tụ của nhưng bậc minh quân, tướng sĩ lỗi lạc nhất của các triều đại phong kiến. Các tướng lĩnh, từ Thống soái tối cao như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải... đến các tướng quân như Phạm Ngũ Lão, văn quan như Trương Hán Siêu… đều đồng thời là những bậc trí nhân kỳ tài có các tác phẩm lưu để ngàn năm. Văn như Trần Hưng Đạo, chỉ với bài Hịch tướng sĩ, cũng đã đủ tạo nên một tượng đài kỳ vĩ, khiến hậu thế phải nghiêng mình kính nể. Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, với những bài thơ còn lưu lại, cũng đủ làm nên tên tuổi tác giả vạn tuế tới mai sau. Đặc biệt là vua Trần Nhân Tông, với những câu thơ hào sảng: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã / Sơn hà thiên cổ điện kim âu (Đất nước hai phen chồn ngựa đá / Non sông nghìn thuở vững âu vàng) còn lưu truyền trong lịch sử đến mai sau.
- Thời nhà Lê. Chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến Nguyễn Trãi, một quan văn luôn sát cánh cùng Lê Lợi bầy binh bố trận, thao lược quân cơ, vang danh sử Việt. Ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm mang âm hưởng của hồn thiêng sông núi nhưng lại đậm chất nhân văn, lưu danh cùng tuế nguyệt. Một trong các tác phẩm đó phải nói đến “Bình Ngô đại cáo” đây có thể coi là bản tuyên ngôn thứ hai của đất nước ta.
Thời đại Hồ Chí Minh. Không những nhân dân ta, dân tộc ta mà ngay cả Thế giới đều phải thừa nhận Người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không những là một nhà chính trị kiệt xuất, mà còn là một danh nhân văn hoá của Thế giới, một nhà thơ lớn của dân tộc. Những áng văn, lời thơ bất hủ của Ông đã tạo nên tư cách, phẩm giá, con người Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những tác phẩm của Ông, đều ánh lên những tư tưởng sáng chói cho chúng ta học tập. Người đã soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập lần thứ ba, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chấm dứt thời kỳ phong kiến và đô hộ. Người đã trút lòng viết bản di chúc khi sắp về với Người hiền, mà đến bây giờ chúng ta vẫn đang phải học tập và làm theo. Người đã để lại cho chúng ta biết bao nhiêu di huấn, áng thơ tuyệt tác mang đầy nghị lực, tính triết lý, tư tưởng cách mạng, đúng với tầm nhìn của một nhà thơ mang tầm vóc chính trị lỗi lạc.
Trong các bài thơ của Người, chúng ta đã được học, được nghiên cứu tính triết lý, tư tưởng lý luận của Người. Nhưng chắc ít ai biết đến sự tài hoa, sắc sảo của một bậc Thánh Nhân với cái tầm hơn hẳn người đời.
Chắc ít người biết đến giai thoại Bác Hồ của chúng ta đã từng đối thơ chan chát với Nguyễn Hải Thần để phân cao thấp. Lúc đó Nguyễn Hải Thần đang giữ chức vụ phó chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà “Đây là một trong 70 ghế đại biểu quốc dân Đảng bổ xung vào quốc hội không qua phiếu bầu vào năm 1946”.
Khi Bác Hồ sang Pháp, Người đã trao quyền chủ tịch nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng một sĩ phu yêu nước thay mình nắm triều chính chỉ bằng một câu “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Nguyễn Hải Thần đã lộ nguyên mặt của một kẻ tiểu nhân, hằn học viết bài thơ đường tặng Bác Hồ với hàm ý bỡn cợt, coi thường Người. Nguyên văn lời như sau:
“Gánh vác việc đời ông với tôi
Con đường gai góc xẻ làm đôi
Cùng chung đất nước, chung bờ cõi
Cũng một ông cha, một giống nòi
Ðành chịu nước cờ thua nửa ngựa
Còn hơn miệng thế chế mười voi
Mấy lời nhắn nhủ cùng ông biết
Nước ngược buông câu phải lựa mồi.”
Thật bất ngờ cái hằn học, ngông cuồng của bộ mặt Nguyễn Hải Thần trong từng câu chữ, đã toát lên cái tiểu nhân của một kẻ mắt mù không nhìn thấy núi Thái Sơn. Hắn dám cao ngạo: “...miệng thế chế mười voi” ý của hắn muốn chơi chữ “Trăm voi không được bát nước xáo”. Hắn dám lấy tình thiêng liêng của dân tộc ta, tình đất nước, tình cha ông để khuyên nhủ Hồ Chủ tịch “đành chịu nước cờ thua nửa ngựa” Hắn ngông cuồng đến nỗi hỗn xược khi khuyên Cụ Hồ phải biết nhẹ nhàng, nhũn chịu với Trung Hoa Quốc dân đảng mới có cơ hội tồn tại.
Nhưng hắn đã nhầm, với một đấng minh quân, một Thánh nhân như Cụ Hồ đâu dễ để “chuột vuốt râu hùm”.
Cụ Hồ đã làm bài thơ đối ý chan chát từng câu, từng chữ đè dập bài thơ của Nguyễn Hải Thần. Thế mới biết cái tài cao thấp của người lãnh đạo. Bài thơ như một cái tát dạy dỗ kẻ hỗn xược bằng ý chí của Cụ sẽ giành độc lập tự do cho dân tộc, cho nước nhà. Bài thơ thể hiện được đủ cả cái cái uy, cái dũng, cái tài hoa, học thức của bậc thánh nhân, làm mở mắt kẻ tiểu nhân như ông Nguyễn Hải Thần.
Toàn văn bài thơ đối của Bác như sau:
“Ông biết phần ông, tôi biết tôi,
Quyết giành thắng lợi, chẳng chia đôi.
Ðã sinh đầu óc, sinh tai mắt,
Nỡ bỏ ông cha, bỏ giống nòi.
Họ trót sa chân vào miệng cọp,
Tôi đành ghé đít cưỡi đầu voi.
Cờ tàn mới biết tay cao thấp,
Há phải như ai cá đớp mồi.”
Thế mới biết các vị thánh nhân làm lãnh đạo bao giờ tài Đức cũng hơn hẳn một cái đầu và luôn biết dùng văn trị nước và đặc biệt đều ứng thơ rất giỏi.
NTD
Có thể là hình ảnh về 1 người và đang đứng

LÀM CÁN BỘ, ĐỪNG “ĐẼO CÀY GIỮA ĐƯỜNG”


Thấy đúng không bảo vệ! Thấy sai lờ đấu tranh! Cấp trên nói gì cũng vâng! Cấp dưới, quần chúng ý kiến gì cũng gật! Khi cần đưa ra quyết định thì lừng chừng, đùn đẩy trách nhiệm cho tập thể...
Phong cách làm việc kiểu “đẽo cày giữa đường” khiến không ít cán bộ mắc sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý, gây hậu quả nghiêm trọng. Những biểu hiện suy thoái ấy cần được nhận diện, kiên quyết đấu tranh để khắc phục, loại bỏ...
“Đẽo cày giữa đường” và những hệ lụy
Phiên tòa do Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội mở, xét xử vụ án thâu tóm “đất vàng” tại tỉnh Bình Dương vừa khép lại. Đây được coi là một “đại án”, thu hút sự chú ý đặc biệt của công luận suốt thời gian dài, bởi số lượng bị cáo đông, lên đến 28 người, phạm tội có tổ chức, gây hậu quả nghiêm trọng cả về kinh tế, uy tín chính trị của cán bộ, ảnh hưởng tâm lý xã hội nặng nề. Trong vụ án này, cựu Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương Trần Văn Nam và cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Trần Thanh Liêm cùng bị tuyên phạt 7 năm tù. Theo dõi diễn biến quá trình điều tra, xét xử vụ án, dư luận xã hội thấy rõ quá trình phạm tội của hai cựu quan chức từng giữ cương vị lãnh đạo cao nhất tỉnh Bình Dương. Một trong những nguyên nhân mấu chốt khiến họ vướng vòng lao lý trong vụ án này chính là sự thiếu bản lĩnh, thiếu kiên quyết, thiếu tư duy độc lập, không thể hiện rõ chính kiến của người lãnh đạo, để cho doanh nghiệp, cấp dưới tham mưu sai, dẫn đến sai phạm kéo dài; khi xảy ra hậu quả lại hùa theo cấp dưới và doanh nghiệp, chỉ đạo xử lý văn bản trái pháp luật. Đó chính là kiểu “đẽo cày giữa đường”, biến cái sai này thành cái sai khác, đi từ sai phạm nhỏ đến sai phạm lớn, gây hậu quả rất nghiêm trọng. Chính bị cáo Trần Văn Nam khi tự bào chữa trước tòa đã thừa nhận điều này, rằng: "... Còn chậm trễ khi không quyết liệt và làm việc rõ ràng với Tổng công ty 3-2 để cho sai phạm kéo dài...".
Nhìn lại các vụ án trọng điểm về tham nhũng, tiêu cực được các cấp đưa ra xét xử trong thời gian qua, chúng ta thấy, không ít cựu cán bộ vì kiểu làm việc “đẽo cày giữa đường” nên đã bị “lợi ích nhóm” chi phối, lũng đoạn, tự đánh mất vị thế, vai trò cá nhân. Một số bị cáo khi nhận bản án nghiêm khắc của pháp luật, được nói lời sau cùng trước tòa, đã rất ân hận bày tỏ, do thiếu bản lĩnh, thiếu kiên quyết, nể nang, nghe theo ý kiến tham mưu của cấp dưới và doanh nghiệp nên không nhận thức được hậu quả. Cũng từ kiểu làm việc đó mà rất nhiều dự án liên tục phải điều chỉnh, bổ sung, đội vốn, thi công sai thiết kế... và cuối cùng là “đắp chiếu”, vừa gây hậu quả nặng nề về kinh tế, vừa tạo hệ lụy cho môi trường và đời sống xã hội.
Trong công tác xây dựng Đảng cũng vậy. Không ít cán bộ vì nghe quá nhiều ý kiến, góp ý nên cứ phải “xoay như chong chóng”, “tiền hậu bất nhất”, không thể hiện chính kiến cá nhân, đùn đẩy trách nhiệm sang cho tập thể, tự đánh mất vai trò của người chủ trì, người đứng đầu. Tình trạng này gây ra những hệ lụy không nhỏ về tư tưởng chính trị, làm cho nội bộ cơ quan, đơn vị rối ren, cán bộ, đảng viên dè chừng lẫn nhau, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, dẫn đến chia bè kéo cánh, mất đoàn kết nội bộ.
Tuân thủ nguyên tắc, sử dụng “vũ khí” hiệu quả
Để xảy ra tình trạng “đẽo cày giữa đường” trong công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay có nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân đó là cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm. Trong bối cảnh Đảng ta đang đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái trong nội bộ, tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm càng dễ bộc lộ. Trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ta đã chỉ rõ nguyên nhân của biểu hiện này, đó là: Lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài... Không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân... “Đẽo cày giữa đường”, tự đánh mất vai trò cá nhân cũng chính là biểu hiện của “đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức”.
Biết lắng nghe, phát huy dân chủ là một thuộc tính của khoa học lãnh đạo mà bất cứ cán bộ nào, ở cấp nào cũng cần có. Tuy nhiên, nếu lắng nghe mà không có chọn lọc, dân chủ mà thiếu tập trung thì sẽ dẫn đến quá tả hoặc quá hữu trong tư duy và phương pháp lãnh đạo. Trong lĩnh vực quản lý kinh tế, nếu cán bộ chủ trì có những biểu hiện này sẽ rất dễ bị các thành phần có tư tưởng cá nhân chủ nghĩa lợi dụng. Họ sẽ khoét sâu vào “gót chân Achilles” của cán bộ để duy trì lợi ích nhóm, nhằm thực hiện các hành vi tham ô, tham nhũng, tiêu cực. Những vụ án kinh tế lớn, nguyên nhân do cán bộ “thiếu trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng” trong thời gian qua là những dẫn chứng, bài học nhãn tiền. Trong công tác xây dựng Đảng, nhất là công tác cán bộ, nếu người đứng đầu “đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức”, không thể hiện được vai trò, chính kiến, uy tín cá nhân... thì rất khó để tạo ra một tập thể mạnh, rất khó duy trì đoàn kết thực chất.
Làm thế nào để cán bộ khắc phục, nói không với kiểu lãnh đạo, quản lý “đẽo cày giữa đường”? Bài học, vũ khí, phương tiện... của khoa học lãnh đạo, nghệ thuật lãnh đạo là không hề thiếu, nếu không muốn nói là hiện nay cán bộ đã được Đảng “vũ trang” đầy đủ. Vấn đề căn cốt vẫn là cách vận dụng trên thực tế. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách của Đảng chính là kim chỉ nam, là cơ sở bảo đảm cho cán bộ có tư duy đúng, hành động đúng, nhằm phát huy cao nhất trí tuệ tập thể, ý chí tập thể trước khi cá nhân đưa ra các quyết định.
Quy định số 08-QĐi/TW của Bộ Chính trị về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên đã chỉ rõ, mỗi cán bộ phải luôn giữ vững nguyên tắc, dân chủ, công tâm, khách quan, công khai, minh bạch...; chủ động, tích cực phát hiện, thu hút, trọng dụng người có đức, có tài, khát khao cống hiến; bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp của Đảng, vì lợi ích quốc gia-dân tộc.
Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng diễn ra ngày 9-12-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo: Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ những cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung. Cán bộ dù ở vị trí nào cũng phải luôn luôn có ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình, làm "đúng vai, thuộc bài", thật sự có chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu, quý trọng. Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung ban hành trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa như là “tấm khiên”, “lá chắn” vững chắc để bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm. Các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận... của Đảng đang triển khai hiện nay chính là những loại “vũ khí”, phương tiện của phương pháp lãnh đạo, khoa học lãnh đạo, nghệ thuật lãnh đạo... bảo đảm cho cán bộ giữ vững nguyên tắc, phát huy vai trò cá nhân trong sức mạnh tập thể.
Như vậy, cán bộ dù ở cấp nào, trong hoàn cảnh nào cũng cần nhận thức đầy đủ, thấu đáo hai mặt của một vấn đề có tính biện chứng, đó là mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa người đứng đầu với cấp ủy, tổ chức Đảng, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa người chủ trì với các cơ quan, bộ phận tham mưu, giữa dân chủ với tập trung... để không phải “đẽo cày giữa đường”.
QĐND

ÔN LẠI LỊCH SỬ 77 NĂM CHIẾU THOÁI VỊ

 

Buổi chiều 30 tháng 8, vua Bảo Đại đứng trước nhà mình. Ông kiên nhẫn chờ phái đoàn Trần Huy Liệu đến để trao ấn kiếm, vĩnh viễn chấm dứt chế độ vua chúa nghìn năm trên nước Việt.

Ngày 30/08/1945, vua Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện Chính Phủ Lâm Thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

Trong sử sách sử chỉ có trích một câu ngắn của vua Bảo Đại trong Chiếu thoái vị rằng " ...muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là Dân tự do, trong một nước độc lập".
Còn cả CHIẾU THOÁI Vị thì không được nhắc đến ! “Một mẩu bánh mì vẫn là bánh mì, một mẩu sự thật sẽ không còn là sự thật và tính khách quan không còn nữa”.
Dưới đây xin đăng toàn văn Chiếu thoái vị của Hoàng Đế Bảo Đại vị vua cuối cùng - Triều đại Phong kiến Việt Nam (công bố chính thức từ 25/08/1945)
CHIẾU THOÁI VỊ
" Vì hạnh phúc của dân tộc Việt Nam. Vì nền độc lập của Việt Nam.
Để đạt hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hy sinh tất cả, và ước mong rằng sự hy sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc. Nhận định rằng sự đoàn kết của toàn thể đồng bào chúng ta vào giờ phút này là một sự cần thiết cho Tổ quốc chúng ta, ngày 23 tháng 8, Trẫm đã nhắc lại cho toàn thể nhân dân ta là: Ở giờ phút quyết định này của Lịch sử, đoàn kết có nghĩa là sống, mà chia rẽ là chết.
Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm e ngại rằng một sự tranh chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm đợi sau cuộc trưng cầu dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc tranh chấp đó, đưa cả nước vào hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng.
Trẫm không thể không ngậm ngùi khi nghĩ đến các tiên đế đã chiến đấu trên bốn trăm năm để mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa đến Hà Tiên. Trẫm không khỏi tiếc hận là trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm không thể làm gì đem lại lợi ích đáng kể cho đất nước. Mặc dù vậy, và vững mạnh trong sự tin tưởng của mình, Trẫm đã quyết định thoái vị, và Trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa.
Trước khi từ giã ngai vàng, Trẫm chỉ có ba điều muốn nói:
—Thứ nhất: Trẫm yêu cầu tân chính phủ phải giữ gìn lăng tẩm và miếu mạo của hoàng gia.
—Thứ hai: Trẫm yêu cầu tân chính phủ lấy tình huynh đệ đối xử với các đảng phái, các phe nhóm, các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước, mặc dù không theo cùng đường hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp cho họ được tham gia vào sự kiến thiết đất nước, và chứng tỏ rằng tân chế độ đã được xây dựng trên tình đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân.
—Thứ ba: Trẫm yêu cầu tất cả các đảng phái, các phe nhóm, tất cả các tầng lớp xã hội cũng như toàn thể hoàng gia phải đoàn kết chặt chẽ để hậu thuẫn vô điều kiện cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa, hầu củng cố nền độc lập quốc gia.
Riêng về phần Trẫm, trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là Dân tự do, trong một nước độc lập. Trẫm không để cho bất cứ ai được lợi dụng danh nghĩa Trẫm, hay danh nghĩa hoàng gia để gieo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta.
Việt Nam độc lập muôn năm..."
Đại diện Việt Minh chấp nhận ba điểm của vua và đề nghị thêm:
1- Bảo Đại phải ra khỏi Hoàng cung và chỉ được mang theo những đồ dùng riêng.
2- Trừ của riêng, tài sản của triều đình là tài sản của chính quyền cách mạng.
Ảnh: Vua Bảo Đại đứng chờ phái đoàn của Chính phủ Lâm thời do ông Trần Huy Liệu (dẫn đầu), ông Nguyễn Lương Bằng và ông Cù Huy Cận vào điện Kiến Trung, chuẩn bị lễ trao ấn kiếm thoái vị.
Có thể là hình ảnh về 1 người và đang đứng

NƠI HỘI TỤ TÌNH CẢM CỦA NGƯỜI DÂN ĐẤT VIỆT!

         Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình văn hóa có ý nghĩa chính trị sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta, có giá trị thiết thực đối với việc giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách cho mỗi người dân Việt Nam.
     Giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát huy ý nghĩa chính trị, văn hóa của Công trình Lăng trong giai đoạn mới là nhiệm vụ chính trị đặc biệt. Hơn 4 thập kỷ qua (29/8/1975 - 29/8/2020).
     Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân giao phó, để Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là không gian thiêng liêng, nơi góp phần bồi đắp, hun đúc lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, nơi hội tụ tình cảm, niềm tin của các thế hệ người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.

Những ngày đầu xây dựng.
     Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, thể theo nguyện vọng thiết tha của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, ngày 29-11-1969, Bộ Chính trị quyết định: “Với tấm lòng kính yêu vô hạn và đời đời nhớ ơn Hồ Chủ tịch, chúng ta phải thực hiện đến mức tốt nhất nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chủ tịch và xây dựng Lăng của Người”. Nhiệm vụ thiêng liêng và trọng trách lớn lao đó được giao cho Quân đội mà trực tiếp là Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
     Quyết định xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được lan truyền rất nhanh đến mọi tầng lớp nhân dân qua các phương tiện thông tin. Một đợt sáng tác mẫu thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát động. Từ tháng 5 đến tháng 8-1970, Ban Tổ chức đã nhận được hơn 200 phương án thiết kế của 16 đơn vị, ngành và nhiều cá nhân gửi tới. Hội đồng sơ tuyển đã chọn được 24 phương án có nhiều ưu điểm nhất để triển lãm lấy ý kiến nhân dân từ tháng 9 đến tháng 11-1970 tại 5 địa điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Thái Nguyên, Sơn La.
     Từ ý kiến đóng góp của nhân dân, bản “Thiết kế sơ bộ” về Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được hoàn chỉnh. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, ngày 9-2-1971, Chính phủ hai nước đã ký kết Hiệp định Liên Xô giúp đỡ kỹ thuật cho Việt Nam giữ gìn thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và xây dựng Lăng của Người.
     Ngày 2-9-1973, Lễ khởi công xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn ra tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Với tấm lòng biết ơn và kính yêu vô hạn Hồ Chủ tịch, toàn dân và toàn quân đã đem hết trí tuệ, tinh thần tập trung cao độ để xây dựng ngôi nhà vĩnh cửu của Người. Cả nước hướng về công trình xây dựng Lăng, như một tiếng gọi thiêng liêng của mỗi người dân, mỗi địa phương muốn dành những gì ưu tú nhất của quê hương để được dâng lên Người: Nhà máy Xi măng Hải Phòng đã sản xuất hàng vạn tấn xi măng có chất lượng tốt nhất, trên mỗi bao bì đều in đậm dòng chữ: “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Đồng bào, chiến sĩ miền Nam đã vượt bao khó khăn gian khổ của chiến tranh ác liệt, đi hàng ngàn cây số để đưa nhiều vật liệu quý từ Nam Bộ, Tây Nguyên về xây dựng Lăng...

Vươn lên làm chủ khoa học, giữ gìn an toàn, lâu dài thi hài Bác.
     Ngày 29-8-1975, sau 2 năm xây dựng với sự đồng tâm, đồng lòng của toàn dân tộc, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành. Đón Bác về Lăng, nhiệm vụ giữ gìn lâu dài, bảo vệ tuyệt đối an toàn thi hài Bác chuyển sang một giai đoạn mới. Thi hài Bác được bảo vệ và giữ gìn trong một khu vực rộng, hàng ngày có hàng nghìn lượt người đến viếng Bác. Đồng thời, phải tổ chức lực lượng quản lý, vận hành các thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác y tế đặc biệt, bảo đảm an ninh khu vực, tổ chức gác tiêu binh danh dự và đón tiếp khách đến viếng Bác.
     Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ của Đảng, từ năm 1992, sau khi Liên Xô tan rã, trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế, một mặt ta tích cực làm việc với các chuyên gia, đàm phán với bạn bàn giao cho ta quản lý số dung dịch hiện có tại Lăng, đồng thời tăng cường giữ gìn mối quan hệ trực tiếp với các chuyên gia Trung tâm Nghiên cứu Y sinh Moscow từng bước nghiên cứu chuyển đổi cơ chế từ viện trợ không hoàn lại sang cơ chế thương mại song phương. Mặt khác, đơn vị chủ động phát huy nội lực và hợp tác với các nhà khoa học trong và ngoài Quân đội nghiên cứu sâu các lĩnh vực y học, sinh hóa, vi sinh vật, môi trường, phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ chính trị.
     Từ tháng 4-1995, không còn các chuyên gia y tế Liên bang Nga làm thuốc thường xuyên, nhưng khó khăn này cũng chính là thời cơ để các y sĩ, bác sỹ trong đơn vị vươn lên làm chủ khoa học giữ gìn lâu dài thi hài Bác. Đặc biệt năm 2004, sau nhiều năm đàm phán, chuẩn bị mọi mặt, phía bạn đã đồng ý chuyển giao công nghệ và phối hợp pha chế dung dịch đặc biệt tại Việt Nam. Từ quý I/2004 đến nay, Viện 69 (Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã 17 lần pha chế thành công dung dịch tại Việt Nam. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu kết quả to lớn của giai đoạn từng bước vươn lên làm chủ nhiệm vụ giữ gìn an toàn, lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Phục vụ gần 60 triệu lượt người đến viếng Bác.
     Bên cạnh nhiệm vụ giữ gìn lâu dài thi hài Bác, nhiệm vụ bảo đảm an ninh, nghi lễ trong tình hình mới được các lực lượng trong Ban Quản lý Lăng đặc biệt quan tâm. Từ ngày 19-5-2001, đơn vị đã thực hiện trang nghiêm nghi lễ chào cờ hàng ngày trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ khi mở cửa Lăng vào ngày 29-8-1975 đến ngày 29-7-2020, đơn vị đã đón tiếp, phục vụ chu đáo, an toàn gần 60 triệu lượt người, trong đó có hơn 10 triệu lượt khách quốc tế đến viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh; tổ chức đón tiếp hơn 1.000 Đoàn người có công với cách mạng về Lăng viếng Bác…
     Để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng này, 45 năm qua, lớp lớp cán bộ, chiến sỹ tiêu binh danh dự tại Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được quan tâm tuyển chọn chặt chẽ, kỹ lưỡng, toàn diện cả về quân dung, hình thể, lý lịch chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ văn hóa; được tổ chức huấn luyện, rèn luyện công phu, nghiêm ngặt về điều lệnh, nghi lễ, sức chịu đựng dẻo dai theo quy trình khoa học, hợp lý, hình thành nên những chiến sĩ tiêu binh trong đội hình danh dự với một yêu cầu tiêu chuẩn “đúng, đều, mạnh, đẹp, trang nghiêm”.
     Được canh giấc ngủ cho Người, mỗi cán bộ, chiến sỹ Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhận thức rõ, đây không chỉ là nhiệm vụ mà còn là niềm tự hào, vinh dự lớn lao. Chị Hoàng Thị Xuân, nhân viên đón tiếp, cơ quan văn phòng Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng cho biết: “Được gần Bác, phục vụ khách đến viếng Bác mỗi ngày là một vinh dự tuyệt vời không phải ai cũng có được. Tất cả xuất phát từ niềm kính yêu đối với Bác, mỗi cán bộ, chiến sỹ được làm việc, công tác tại đơn vị đều nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”.
     Phát huy truyền thống “Trung hiếu vẹn toàn, đoàn kết hiệp đồng, tự lực tự cường, chủ động sáng tạo”, bước vào giai đoạn mới, cán bộ, nhân viên, chiến sỹ Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị đặc biệt mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân giao phó, để Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi là nơi tôn nghiêm nhất, không gian thiêng liêng, nơi góp phần bồi đắp, hun đúc lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người Việt Nam theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh./.
Yêu nước ST.

LIÊN XÔ VĨ ĐẠI SỤP ĐỔ DƯỚI BÀN TAY CỦA GORBACHEV!

         Ông Gorbachev sinh ngày 2/3/1931, là Tổng Bí thư cuối cùng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (1985-1991) và là Tổng thống đầu tiên và duy nhất của Liên Xô cũ (1990-1991), trước khi Liên Xô tan rã vào năm 1991.
     Trước năm 1985, Mikhail Gorbachev là cái tên còn chưa được nhiều người biết đến, nhưng chỉ 5 năm sau đó, ông đã ghi tên mình vào lịch sử và địa chính trị thế giới. Gorbachev gần như được coi là người đã làm tan rã một nhà nước rộng lớn. Sự sụp đổ của Liên Xô không diễn ra ngay lập tức, mà đó là kết quả của một chương trình kinh tế và tư tưởng được lên kế hoạch kỹ càng. Câu khẩu hiệu “Cải tổ - Dân chủ - Công khai” đã thu hút sự quan tâm của giới trí thức, những người lúc đó không thể lý giải được ý nghĩa sâu xa của những từ trong câu khẩu hiệu này.

Từ năm 1985, Gorbachev bắt đầu kế hoạch 5 năm làm sụp đổ một cường quốc
     Với việc theo chân “kiến trúc sư cải tổ” Liên Xô là Alexander Yakovlev, quá trình hủy hoại này vào cuối những năm 1980 diễn ra không giống như một cuộc xung đột giai cấp, mà là sự thay đổi âm thầm trong nhận thức và tư tưởng của mỗi người. Gorbachev đã cùng với Yakovlev âm thầm phá hoại nền tảng văn hóa con người Xô Viết bằng cách “giết dần giết mòn” từng chút một vào nền tảng đó.
     Ngoài ra, hỗ trợ đắc lực cho quá trình “cải tổ” này còn có các nhóm văn hóa - xã hội của Liên Xô lúc đó như: Một bộ phận các cơ quan Đảng và Nhà nước muốn vượt qua cuộc khủng hoảng “danh chính ngôn thuận” đã chín muồi, mà vẫn giữ được vị thế của mình; một bộ phận giới trí thức mơ tưởng về tự do và chủ nghĩa phương Tây (chính bộ phận này đã thúc đẩy tư tưởng mơ hồ về tự do và dân chủ, cũng như hình ảnh “những quầy hàng chất đầy thực phẩm”); giới tội phạm có liên quan đến kinh tế ngầm.
     Vào thời gian cuối, sự sụp đổ của Liên Xô diễn ra hết tốc lực, trong khi giai đoạn đầu “cải tổ” là một cuộc “cách mạng về nhận thức” được che đậy bằng một thuật ngữ rất mĩ miều là “Công khai hóa”.

Gorbachev và thủ đoạn tinh vi bằng nhận thức
     “Công khai hóa” đã dần dần phá hủy toàn bộ nguyên tắc và nền tảng vốn đã hình thành từ trước đó rất lâu. Báo chí bắt đầu đăng tải những bài viết theo chính sách “ngu dân” về đề tài lịch sử và kinh tế kiểu như: “Cả đời các bạn chỉ được nghe những điều giả dối, nhưng bây giờ chúng tôi sẽ nói ra cho các bạn toàn bộ sự thật”.
     Để cổ vũ cho hành vi phá hoại của Gorbachev và Yakovlev, một cuộc trưng cầu dân ý về tương lai của Liên Xô đã được tổ chức. Chính việc này đã vi phạm tất cả những điều kiêng kỵ từ trước tới nay ở quốc gia này, bởi người dân Liên Xô vốn hàng thập kỷ qua đã sống trong một đất nước rộng lớn, nay lại đưa ra những vấn đề kỳ lạ đối với họ.

Một câu hỏi trưng cầu ý dân đã giúp Gorbachev làm sụp đổ Liên Xô
     Xin nói thêm về câu hỏi được đưa ra trong cuộc trưng cầu dân ý trên toàn quốc. Ngay từ đầu, cách diễn đạt câu hỏi ghi trên lá phiếu trưng cầu là rất khó hiểu, cụ thể là: “Theo bạn, Có hay Không nên duy trì Liên Xô như một liên bang đổi mới gồm những nước cộng hòa có chủ quyền bình đẳng, được đảm bảo đầy đủ quyền và tự do của con người thuộc mọi dân tộc?”
     Tuy nhiên tại thời điểm đó, cách diễn đạt này trông có vẻ nghiêm túc và đầy trách nhiệm, điều mà “kiến trúc sư cải tổ” Liên Xô Alexander Yakovlev rất quan tâm. Khi đề xuất mô hình “liên bang đổi mới gồm những nước cộng hòa có chủ quyền”, ông ta tỏ ra mâu thuẫn về mặt logic nhưng đã chủ ý làm việc này – đó là thủ đoạn bằng nhận thức trong hành động.

     Ý tưởng “phá hoại nhà nước Xô Viết” được áp dụng vào nhận thức xã hội trong suốt nhiều năm cuối cùng cũng đã chi phối trong hệ tư tưởng. Tuy nhiên, 76% người dân Liên Xô ngày 17/3/1991 đã bày tỏ ủng hộ việc duy trì Liên bang, mà không hề biết rằng, họ đang bỏ phiếu ủng hộ cho Liên Xô sụp đổ. Mikhail Gorbachev cũng đã lường trước được việc này. Cuối năm đó, bản đồ chính trị thế giới bất ngờ thay đổi, dẫn đến sự tan rã một nhà nước rộng lớn – Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết.

Hé lộ vai trò của Gorbachev đối với sự sụp đổ của Liên Xô
     Trong bài viết đăng trên tờ “Rambler” dẫn lời hãng tin “Deita” cho biết, tháng 10-1980 Milkhail Gorbachev trở thành Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Đúng 10 năm sau, vào tháng 10-1990, ông đoạt giải Nobel Hòa bình. Nhà hoạt động chính trị, cựu lãnh đạo một cơ quan tình báo đã hé lộ vai trò của Tổng thống đầu tiên và cũng là cuối cùng của Liên Xô Mikhail Gorbachev trong việc làm tan rã cường quốc này. Theo lời kể lại của ông này trên truyền hình ITON.TV, sau cuộc gặp với Gorbachev, điệp viên tình báo đã vô cùng ngạc nhiên rằng: “Tại sao người ta lại để cho một kẻ tiểu nhân như vậy lãnh đạo cả một đế chế? Chính ông ta cũng không thể hiểu được tại sao”. Theo Kedmi, vấn đề của nhà nước là ở chỗ, những người như vậy lại được lên nắm quyền lãnh đạo. Gorbachev còn không hề tham gia chạy đua quyền lực như Khrushev hay Brezhnev, mà chính các đồng chí đã đưa ông ta lên nắm quyền. Andropov và Gromyko dường như là những người thông minh khi hình thành nên giới tinh hoa. Nhưng theo Kedmi, chính giới tinh hoa này đã làm cho nhà nước sụp đổ.
     Theo nhận định, Gorbachev trên cương vị lãnh đạo nhà nước đã cho thấy sự ngây thơ đến kỳ lạ và niềm tin vào âm mưu diễn biến hòa bình của phương Tây. Gorbachev nghĩ rằng, đất nước của ông ta sẽ được để cho yên bình. Ông ta không nghĩ rằng, NATO có thể lừa dối trắng trợn như vậy. Vị cựu lãnh đạo cơ quan tình báo cho biết, dẫn chứng các thỏa thuận miệng không có trong văn bản của Tổng thống Mỹ và Liên Xô về việc không mở rộng liên minh quân sự về phía Đông. Đó là niềm tin của một kẻ ngu ngốc đầy ngây thơ. Mikhail Gorbachev không hề giải quyết một vấn đề nào trong không gian Xô viết, bao gồm cả vấn đề Karabakh, thậm chí còn khơi mào mọi vấn đề trong đó. Và có rất nhiều vấn đề đã bùng phát: từ Pridnestrov và Kyrgyzstan đến Baku, Vilnius và Tbilisi..

Alexander Yakovlev - “kiến trúc sư cải tổ”, “cha đẻ công khai hóa”
     Theo thông tin đăng trên “RIA Novosti”, Alexander Yakovlev (1923-2005) được biết đến với các biệt danh là “kiến trúc sư cải tổ” và “cha đẻ công khai hóa” của Liên Xô. Ông sinh ngày 2-12-1923 trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Korolevo, tỉnh Yaroslavl (Liên Xô). Nhờ thành tích chiến đấu trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, ông được kết nạp Đảng Cộng sản Liên Xô vào năm 1944.
     Năm 1946, ông tốt nghiệp Khoa lịch sử Trường Đại học Sư phạm Quốc gia Yaroslavl mang tên K.D. Ushinsky. Trong thời gian đi học, ông phụ trách Bộ môn huấn luyện thể dục quân sự. Ông còn tốt nghiệp Trường Đảng cao cấp trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.
     Năm 1958-1959, Alexander Yakovlev được cử sang thực tập tại Đại học Columbia (Hoa Kỳ), sau đó tiếp tục công việc tại Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ năm 1965 ông là Phó Trưởng ban tuyên truyền, và từ năm 1969 đến 1973 là Trưởng ban.
     Tháng 11-1972, báo Văn học đăng bài viết của ông có nhan đề “Chống chủ nghĩa phản lịch sử”. Vì bài báo này, năm 1973 ông đã bị cách chức và thuyên chuyển sang Canada làm đại sứ Liên Xô trong 10 năm.
     Công cuộc “cải tổ” đã cho Yakovlev cơ hội trở về Liên Xô hoạt động tích cực trên chính trường. Năm 1983, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev đã khăng khăng đề nghị cho Yakovlev trở về Mátxcơva.
     Từ năm 1983 đến 1985, Alexander Yakovlev giữ chức Viện trưởng Viện Kinh tế thế giới và Quan hệ quốc tế thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Năm 1984, ông được bầu làm đại biểu Hội đồng Tối cao Liên Xô. Mùa Hè năm 1985, ông được cử làm Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.
     Năm 1986, Yakovlev được bầu làm Ủy viên, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, phụ trách các vấn đề tư tưởng, thông tin và văn hóa.
     Tại Hội nghị Trung ương diễn ra vào tháng 01-1987, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, đến tháng 6-1987 cũng tại Hội nghị Trung ương, được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ tháng 9-1987, ông là Ủy viên Ủy ban của Bộ Chính trị về việc nghiên cứu bổ sung các tài liệu liên quan đến các vụ trấn áp những năm 1930-1940 và đầu những năm 1950, còn từ tháng 10-1988 - là Chủ tịch Ủy ban này.
     Năm 1988, tại Hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ XIX đã thành lập Ủy ban soạn thảo nghị quyết về công khai hóa do Alexander Yakovlev đứng đầu. Ủy ban này đã trình bày văn kiện đề cập đến việc cải tổ trong lĩnh vực tự do ngôn luận. Tại Hội nghị Trung ương tháng 9-1988 đã phân công nhiệm vụ cho các Bí thư Trung ương Đảng, và Yakovlev trở thành Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng về các vấn đề quốc tế.

Mùa xuân năm 1989, Yakovlev được bầu làm Đại biểu nhân dân Liên Xô.
     Từ tháng 3-1990 đến tháng 01-1991, ông là Ủy viên Hội đồng Tổng thống Liên Xô. Sau khi được cử giữ chức này một ngày, ông đã nộp đơn xin rút khỏi bộ máy các cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, tuy nhiên vẫn tiếp tục giữ chức Bí thư Trung ương và Ủy viên Bộ Chính trị cho đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XXVII.
     Sau khi giải tán Hội đồng Tổng thống, Alexander Yakovlev được cử làm cố vấn cấp cao của Tổng thống Liên Xô. Ngày 27-7-1991, ông nộp đơn xin thôi chức vụ này.
     Ngày 22-7-1991, ông cùng với Alexander Volsky, Nikolai Petrakovy, Gavriil Popovy, Anatoly Sobchak, Ivan Silaevy, Stanislav Shataliny, Eduard Shevardnadze và Alexander Rutsky, ký tuyên bố thành lập Phong trào cải cách dân chủ, sau đó tham gia vào Hội đồng chính trị của Phong trào này.
     Ngày 15-8-1991, Ủy ban kiểm tra Trung ương đề xuất khai trừ Đảng đối với Yakovlev vì những phát biểu và hành động gây chia rẽ nội bộ Đảng. Ngày 16-8-1991, ông tuyên bố rút khỏi hàng ngũ Đảng Cộng sản Liên Xô.
     Ngày 20-8-1991, ông phát biểu tại cuộc mít-tinh bên ngoài tòa nhà Hội đồng thành phố Mátxcơva nhằm ủng hộ chính quyền hợp pháp, chống lại vụ bạo động của Ủy ban Quốc gia về tình trạng khẩn cấp. Cuối tháng 9-1991, ông được cử làm Cố vấn phụ trách các nhiệm vụ đặc biệt kiêm Thành viên Hội đồng cố vấn chính trị của Tổng thống Liên Xô.
     Giữa tháng 12-1991, tại Đại hội thành lập Phong trào cải cách dân chủ, Alexander Yakovlev được bầu làm đồng Chủ tịch Phong trào này.
     Cuối tháng 12-1991, ông tham dự sự kiện chuyển giao chính quyền từ Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev cho Tổng thống Liên bang Nga Boris Eltsin.
     Trong những năm sau khi Liên Xô sụp đổ, Alexander Yakovlev tích cực viết và giảng dạy về lịch sử, chính trị và kinh tế. Ngoài ra, ông còn giữ chức lãnh đạo Đảng Dân chủ Xã hội Nga và tổ chức Dân chủ quốc tế. Dưới thời Tổng thống Boris Yeltsin (từ năm 1991 đến 1999), Yakovlev được ví như là “nhà tư tưởng chủ đạo của nền dân chủ Nga”. Ông qua đời ngày 18-10-2005 tại Moscow, thọ 82 tuổi.
     Theo hãng tin Nga RIA Novosti, kết quả thăm dò do Trung tâm nghiên cứu ý kiến dư luận toàn Nga (VTsIOM) thực hiện mới đây cho thấy, 51% người Nga cho rằng, Mikhail Gorbachev lúc đó nghĩ đến lợi ích quốc gia, nhưng đã tính toán sai lầm nghiêm trọng. 22% coi ông là “tội đồ” đã chủ ý làm tan rã một cường quốc vĩ đại, 11% coi ông là “người can đảm”, không sợ chịu trách nhiệm và tiến hành những cải cách cần thiết trong nước.
     Ngày 30/8/2022, Ông Mikhail Gorbachev, lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô, đã qua đời vì trọng bệnh ở tuổi 91. Tại Bệnh viện Lâm sàng Trung ương Nga./.
Yêu nước ST.

Lạm bàn về cái “Gốc”



Mải học những thứ "cao siêu", phát triển ở phần "ngọn" nên cháu đã quên mất "gốc".

Đây không chỉ là trường hợp cá biệt của cháu học sinh này mà đây là tình trạng phổ biến ở cả người lớn nói chung và những người chạy theo thời đại hướng Tây nói riêng, trong đó bao gồm một bộ phận cán bộ công chức, viên chức nhà nước.