Quyền
con người (Human rights) là những giá trị thiêng liêng cao quý kết tinh từ
nhiều nền văn hoá, văn minh của các dân tộc trên thế giới
+ Dưới góc độ
tôn giáo, đạo đức khái niệm về quyền con người được hiểu không chỉ bắt đầu
từ bản tuyên ngôn thế giới về quyền con
người (UDHR, 1948), mà ý thức tư tưởng về quyền con người đã xuát hiện sớm
trong lịch sử, nó thuộc nhiều truyền thống văn hoá, tôn giáo khác nhau.
+ Dưới góc độ
pháp lý, xét về mặt lịch sử, quyền con người đã được công nhận trong nhiều văn
bản pháp lý quan trọng như: Bộ luật Hammủabi (khoảng năm 1700 Tr.CN), Hiến
chương MagnaCarta (1215), Bộ luật về các quyền của Anh (1689), Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp (1789) và Hiến pháp của Mỹ năm 1791…, Hiến chương
Liên Hiệp quốc 1945 và 3 năm sau đó là UDHR.
+ Trong Tuyên bố
Viên và chương trình hành động (1993) định nghĩa “quyền con người và tự do cơ
bản là quyền bẩm sinh của mọi người được hưởng; việc thúc đẩy và bảo vệ các
quyền đó là trách nhiệm trước tiên của chính phủ”.
+ Tài liệu hỏi
đáp về quyền con người của LHQ quan niệm: “Quyền con người là những gì bẩm
sinh, vốn có của con người mà nếu không được bảo đảm thì chúng ta sẽ không thể
sống như một con người”
+ Theo văn phòng
cao uỷ LHQ về quyền con người (OHCHR) “quyền con người là những bảo đảm pháp lý
toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động
hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phảm, những sự được phép và tự do cơ bản
của con người.
+ Giáo trình lý
luận và pháp luật về quyền con người của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
viết “ quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thoả
thuận pháp lý quốc tế”
Các định nghĩa
trên mặc dù có điểm khác nhau về nội dung và phương pháp tiếp cận, song đã phản
ánh một số đặc điểm chung của khái niệm quyền con người như sau:
Một
là,
quyền con người là các quyền bẩm sinh thuộc sở hữu vốn có của mọi người, nó gắn
liền với hành động công nhận, thừa nhận chứ không phải là ban phát, từ chối hay
tước đoạt vô cớ.
Hai
là,
trung tâm của khái niệm quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của mọi
thành viên trong gia đình nhân loại.
Ba
là,
quyền con người là các quyền được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người mà
không có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo,
chính kiến, quan điểm, nguồn gốc dân tộc hoặc địa vị xã hội…
Bốn
là, quyền con người là các quỳen được bảo đảm minh bạch về pháp lý nhằm
giúp các nhân, các nhóm xã hội đạt được nhu cầu, lợi ích một cách độc lập trên
các lĩnh vực.
Năm
là,
quyền con người xác lập nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm của nhà nước và xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét