Một số suy nghĩ về nền tảng và nội hàm của đổi mới tư duy đối ngoại Việt
Nam
Đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam là sự kế
thừa truyền thống và bản sắc của dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước, không ngừng được đúc rút, phát triển và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam luôn xuất phát từ lợi ích quốc gia -
dân tộc, nhằm đưa đất nước vào vị trí có lợi nhất trong dòng chảy của thời đại
và ứng phó linh hoạt với thực tiễn tình hình khu vực và thế giới.
Đổi
mới tư duy là quá trình tất yếu
Đổi mới tư duy đối ngoại là nhận thức và
tâm thế mới, đưa ra chính sách, phương cách thực hiện mới, hướng tới bước
chuyển giai đoạn về chiến lược, tháo gỡ khó khăn tạo nguồn lực mới, động lực
mới và cục diện mới.
Đổi mới tư duy luôn là khởi đầu cho mọi
quá trình phát triển mới. Trong đó, các quốc gia đều đặc biệt lưu tâm đến đổi
mới tư duy đối ngoại, thể hiện qua các học thuyết, văn bản chiến lược, chính
sách đối ngoại qua từng thời kỳ. Thực tế cho thấy, các quốc gia đều cần theo
dõi, phân tích và dự báo các xu thế lớn của thời đại, về chiến tranh và hòa bình,
về định vị bản thân trong trật tự quốc tế, không gian chiến lược, xác định hệ
thống đồng minh và kẻ thù..., từ đó xác lập đường hướng chiến lược đối ngoại
trong từng giai đoạn cụ thể nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Ở Việt Nam, đổi mới tư duy đối ngoại luôn
là một nội dung trọng tâm trong đường lối đối ngoại của Đảng. Xuyên suốt sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, bài học thành công của đổi mới tư duy đối ngoại
Việt Nam là luôn nắm bắt thời cuộc, đánh giá đúng và trúng thời cơ trong từng
giai đoạn cụ thể của cách mạng, xác định và phân biệt giữa đối tác và đối
tượng, từ đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế, tận
dụng thế và lực, nhằm bảo vệ thành quả của cách mạng.
Trong thời kỳ chiến tranh, nhiệm vụ của đối ngoại là bảo vệ chính quyền
cách mạng còn non trẻ, chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc xâm lược. Tư duy của
Đảng trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại xác định rõ “ngoại
giao là một mặt trận” và phương châm kết hợp “vừa đánh, vừa đàm” đã góp phần
quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, thu non sông về một mối.
Trong thời kỳ đổi mới, quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Việt Nam
do Đảng khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo được thể hiện rõ nét và đặc sắc nhất.
Trải qua hơn 35 năm đổi mới với 8 kỳ Đại hội Đảng, nhận thức và thực tiễn đổi
mới tư duy đối ngoại của Việt Nam đã có những bước tiến lớn(1).
Nếu như sự đổi mới tư duy của Đảng trong thập niên 80 của thế kỷ XX xuất phát
từ nhu cầu đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và
bị bao vây cô lập, thì giai đoạn sau đó là sự chủ động đổi mới tư duy để tạo
dựng vận hội mới, mở ra cơ hội phát triển mới trong thế giới toàn cầu hóa. Đó
là quá trình đổi mới tư duy từ định hướng đổi mới bên trong nội bộ của quốc gia
đến từng bước hội nhập vững chắc vào khu vực và thế giới. Quan tâm về chiều
rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, trọng tâm từ an ninh sang phát triển, nâng
cao vị thế; với tâm thế từ tham gia sang chủ động đóng góp, định hình và dẫn
dắt.
Có thể thấy, chỉ thông qua đổi mới tư duy,
đối ngoại mới có thể vừa góp phần quan trọng trong bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và an ninh của đất nước từ sớm, từ xa, xây dựng và củng cố môi trường
chính trị, kinh tế, an ninh, đối ngoại thuận lợi và ổn định, vừa tranh thủ mọi
nguồn lực cho phát triển và nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.
Nền
tảng của đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam
Đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam là luôn
nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn giữa ổn định, đổi mới và phát
triển. Đó là quá trình phát triển từng bước vững chắc, luôn được kiểm
nghiệm trong thực tiễn và được đúc rút từ nhiều bài học kinh nghiệm, có sự kế
thừa, bổ sung và tiếp nối, phù hợp với thế và lực của đất nước và bối cảnh bên
ngoài. Để đổi mới và phát triển thì cần dựa trên nền tảng vững chắc. Có thể
khái quát quá trình đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam dựa trên ba nền tảng sau:
Thứ nhất, kế thừa những tinh hoa về truyền
thống ngoại giao của dân tộc.
Truyền thống ngoại giao Việt Nam là những
triết lý ngoại giao được đúc kết xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ
nước của ông cha ta, luôn coi trọng hòa bình, hữu nghị, nhân văn, nhân nghĩa và
thủy chung; quan hệ láng giềng thân thiện, “ngoại giao công tâm”, lấy lẽ phải,
công lý, chính nghĩa để thuyết phục lòng người(2). Về
đối nội, truyền thống dân tộc là sự chú trọng đồng thuận xã hội,
“trong ấm, ngoài êm”, coi trọng “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà
chung sức”. Về đối ngoại, ngoại giao của ông cha ta xem trọng
việc giữ gìn hòa khí, khiêm nhường với nước lớn, hữu nghị với các nước lân
bang, phấn đấu cho sự thái hòa(3). Trong Binh thư yếu lược, Trần Hưng Đạo
đã viết: “Hòa mục là đạo rất hay trong việc trị nước, hành binh. Hòa ở trong
nước thì ít phải dùng binh, hòa ở ngoài biên thì không sợ báo động”(4).
Khi buộc phải chiến đấu chống kẻ thù, nhân
dân Việt Nam luôn có ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia, gìn giữ từng tấc đất của tiền nhân để lại. Ông cha ta đã hết sức coi trọng
đấu tranh bằng ngọn cờ chính nghĩa, trên cơ sở tiến hành phương pháp “ngoại
giao tâm công”, thu phục lòng người bằng lẽ phải, đạo lý, nhân tính, “lấy đại
nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân để thay cường bạo”.
Thứ hai, trên cơ sở vận dụng sáng tạo,
linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho đường lối đối ngoại Việt Nam, với
phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đó là lấy cái “bất biến” là lợi ích
quốc gia - dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa để làm căn cứ, điểm xuất phát
cho đề xuất các chiến lược, sách lược, đối sách phù hợp với cái “vạn biến” là
thực tiễn đang vận động không ngừng. Trong đó, quan trọng nhất là phép biện
chứng duy vật cùng quan điểm toàn diện, hệ thống để tiếp cận quốc tế và giải
quyết mối quan hệ giữa Việt Nam với thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên vận
dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, chuyển
phong trào cách mạng từ tự phát sang tự giác, dẫn dắt dân tộc giành độc lập,
thống nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại được hun đúc và kết tinh từ giá
trị truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, được hình thành, bổ
sung phát triển trong thực tiễn quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân
tộc, tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nguồn gốc tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh xuất
phát từ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, truyền thống ngoại giao Việt
Nam, kết hợp với tiếp thu tinh hoa nhân loại cũng như kinh nghiệm ngoại giao
thế giới.
Thứ ba, kế thừa và phát triển nhận thức
qua các kỳ Đại hội Đảng, gắn với thực tiễn trong nước và bối cảnh quốc tế trong
từng thời kỳ.
Đối ngoại Việt Nam có đặc điểm riêng và là
thế mạnh khác biệt: là nền đối ngoại dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và
thống nhất của Đảng. Đường lối đối ngoại của Việt Nam là thống nhất, liên tục
và nhất quán, có sự kế thừa, phát huy và bổ sung qua các giai đoạn phát triển
của đất nước.
Trải qua quá trình đó, tư duy, kinh nghiệm
và lực lượng của đối ngoại từng bước được trưởng thành, hun đúc nên những bài
học kinh nghiệm quý báu. Đó là bài học về kiên định đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế; kiên trì về nguyên
tắc, linh hoạt về sách lược, kết hợp nhuần nhuyễn, biến hóa, sáng
tạo giữa chiến lược và chiến thuật; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại nhằm tranh thủ tối đa ngoại lực, tạo sức mạnh cộng
hưởng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh đó, tư duy đối ngoại của Việt Nam
còn là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển sáng tạo những bài học lý luận và
thực tiễn của ngoại giao thế giới, dựa trên thực tiễn tình hình và nhiệm vụ
trong nước. Điều này càng được củng cố qua quá trình mở cửa và hội nhập quốc
tế. Sự tiếp thu có chọn lọc và phê phán các kinh nghiệm từ bên ngoài giúp Việt
Nam hiểu hơn về sự vận động của thế giới, quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia,
qua đó đánh giá chính xác hơn về đối tác - đối tượng, hợp tác - đấu tranh, cơ
hội - thách thức và xác định rõ hơn vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế để
đưa ra những định hướng chính sách phù hợp.
Chính vì sự vận dụng sáng tạo và không
ngừng đổi mới tư duy đó, lý luận của Đảng ta luôn được kế thừa và phát triển,
giữ vững và phát huy giá trị trong thời đại mới trước những biến động nhanh
chóng của thế giới.
Nội
hàm của đổi mới tư duy đối ngoại thời kỳ đổi mới
Trên cơ sở ba nền tảng trên, có thể tổng
kết năm nội dung của đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam.
Một là, đổi mới tư duy trong nhận thức thế
giới. Đảng ta luôn chú trọng nhận thức về bản
chất, cơ chế vận hành và những nhân tố tác động tới chiều hướng diễn biến của
thế giới; đặc biệt, tập trung vào biến chuyển của cục diện thế giới, các dòng
chảy chính và những mâu thuẫn của thời đại, về chiến tranh và hòa bình, tập hợp
lực lượng và các xu thế lớn trong đời sống chính trị quốc tế, từ đó nhận diện
những cơ hội và thách thức từ thế giới và thời đại đối với môi trường đối ngoại
của Việt Nam.
Tháng 5-1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ban
hành Nghị quyết số 13/NQ-TW “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình
hình mới”, đưa ra những quan điểm mới về an ninh và phát triển, khẳng định mục
tiêu đối ngoại là “củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và
phát triển kinh tế”. Đó là sự đổi mới tư duy quan trọng bước đầu, mở đường cho
Việt Nam có cơ hội và điều kiện để “biến nguy thành cơ”, phá thế bao vây cô
lập, mở rộng quan hệ đối ngoại cả với những quốc gia có chế độ chính trị và
kinh tế khác(5).
Nghị quyết số 13/NQ-TW là một cuộc đổi mới mạnh mẽ tư duy trong đánh giá tình
hình thế giới, đã đề ra mục tiêu và chuyển hướng chiến lược đối ngoại của Việt
Nam.
Sau Chiến tranh lạnh, nhận thức về thế
giới không còn là “hai phe, hai cực” mà là một thế giới với xu hướng toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế, chủ nghĩa đa phương, với các đặc điểm và xu thế thời đại
mới được Việt Nam tiếp cận dưới góc độ mới. Đảng ta khẳng định rằng, chủ nghĩa
xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải
qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử. Đây là sự thể hiện lập
trường vững vàng, nhất quán của Đảng đối với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, chỉ rõ thời
đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cả một thời kỳ lịch sử lâu dài, trải qua
nhiều giai đoạn gay go, phức tạp.
Bên cạnh đó, đổi mới tư duy về thế giới
quan (bao gồm việc xác định bốn nguy cơ, tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, tư duy
mới về mối quan hệ giữa an ninh và phát triển,...) trở thành nền tảng cho đổi
mới tư duy về cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.
Hai là, đổi mới tư duy trong định vị đất
nước. Đổi mới tư duy nhằm xác định vị thế và vai
trò mới của đất nước, dựa trên thực tiễn thế và lực của đất nước luôn không
ngừng được nâng cao, và nhận thức đúng đắn tình hình thế giới. Từ đó định hình
mối quan hệ biện chứng về cái riêng và cái chung giữa
đất nước và thế giới. Trong xác định mối quan hệ giữa Việt Nam với thế giới,
đổi mới tư duy đã chuyển từ “muốn là bạn” sang “sẵn sàng là bạn” và “là bạn, là
đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Việt Nam
đã xác định rõ trọng tâm trong quá trình hội nhập quốc tế của mình, đó là hội
nhập bắt đầu từ kinh tế và dần mở rộng sang các lĩnh vực khác, hướng tới hội
nhập toàn diện và sâu rộng. Trong đó, đối ngoại đa phương cần phải được nâng
tầm, từ tham gia ban đầu sang chủ động đóng góp, dẫn dắt, định hình, tùy theo
khả năng và điều kiện cụ thể.
Ba là, đổi mới tư duy về đối tác - đối
tượng. Trên cơ sở kế thừa, phát triển từ
phương châm “thêm bạn, bớt thù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 khóa IX (năm 2003) đã đưa ra quan điểm mới về “đối tác - đối
tượng” và “hợp tác - đấu tranh”, thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong chiến
lược ngoại giao, nhằm gia tăng điểm tương đồng, hóa giải sự khác biệt trong
thúc đẩy quan hệ với các nước. Đây là mối quan hệ biện chứng, phù hợp với xu
thế chung của thế giới là hợp tác và đấu tranh linh hoạt trên cơ sở bảo đảm về
lợi ích và phù hợp về giá trị chung.
Tư duy này tạo tiền đề để gia tăng điểm
đồng, hóa giải điểm khác biệt, qua đó đưa quan hệ với các nước đối tác đi vào
chiều sâu, khéo léo cân bằng quan hệ nước lớn, nâng cấp quan hệ đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện ngay cả khi vẫn còn tồn tại những bất đồng với các đối
tác này. Việt Nam là một trong những nước sớm khởi động quá trình xây dựng quan
hệ đối tác chiến lược với các nước trên thế giới, cũng là nước đầu tiên trong
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng khuôn khổ quan hệ này với các
nước thành viên chủ chốt. Việt Nam đã xây dựng mạng lưới quan hệ đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện với 30 quốc gia, trong đó bao gồm tất cả 5 thành viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, thành viên Nhóm các nền công nghiệp
lớn nhất thế giới (G-7) và 16/20 nước trong Nhóm các nền kinh tế hàng đầu thế
giới (G-20), góp phần tạo nên cục diện đối ngoại vững chắc cho Việt Nam.
Bốn là, đổi mới tư duy về lợi ích quốc gia
- dân tộc. Điều này bao gồm những nội hàm cụ thể của
lợi ích quốc gia - dân tộc và mối quan hệ giữa lợi ích của Việt Nam với lợi ích
chung của khu vực và quốc tế. Đổi mới tư duy ở đây liên quan đến việc cụ thể
hóa lợi ích quốc gia - dân tộc trong từng thời kỳ, xác định ưu tiên lợi ích,
cách thức xử lý hài hòa mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố của lợi ích
quốc gia - dân tộc để tạo ra được hiệu ứng cộng hưởng trong nhận thức và hành
động.
Lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam là sự
bảo đảm chủ quyền và an ninh quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát
triển đất nước toàn diện và bền vững, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất
nước. Đại hội XI của Đảng lần đầu tiên chính thức khẳng định mục tiêu về lợi
ích quốc gia - dân tộc. Đại hội XII của Đảng xác định “bảo đảm lợi ích tối cao
của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
bình đẳng cùng có lợi”. Trong quan hệ quốc tế hiện nay, hợp tác - đấu tranh dựa
trên lợi ích chính là phương châm phù hợp với xu thế chung của quan hệ quốc tế.
Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam luôn phù hợp với lợi ích và giá trị
chung của nhân loại.
Năm là, đổi mới tư duy về vai trò và
phương thức triển khai đối ngoại. Đổi
mới trên phương diện này chủ yếu tập trung vào vai trò, nhiệm vụ của đối ngoại
trong tổng thể đường hướng chiến lược của đất nước. Mục tiêu của đường lối đối
ngoại là phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đối ngoại phải làm thế nào để “nhìn trước,
đi trước” nhằm đón thế, vận thế và tạo thế, mở ra vận hội mới cho đất nước. Từ
đó, đối ngoại góp phần vào nỗ lực chung giải quyết những vấn đề đặt ra cả về
đối ngoại lẫn đối nội, an ninh và phát triển, đặc biệt hóa giải từ sớm, từ xa
mọi nguy cơ đối với đất nước và tạo dựng cũng như tận dụng mọi nguồn lực từ bên
ngoài cho đất nước.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Đảng ta coi
việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là
lợi ích cao nhất của Tổ quốc(6). Từ đó, phương hướng triển khai các hoạt động đối
ngoại liên tục có sự đổi mới để phù hợp với yêu cầu cụ thể của đất nước trong
mỗi giai đoạn, thể hiện qua các bước trưởng thành trong việc đề ra các nhiệm vụ
chiến lược trong đối ngoại về song phương, đa phương, ngoại giao kinh tế, ngoại
giao văn hóa, công tác người Việt Nam ở nước ngoài, công tác bảo hộ công dân,
công tác thông tin đối ngoại...
Bên cạnh năm nội dung trên, đổi mới tư duy
đối ngoại luôn là quá trình tìm tòi, đúc kết từ thực tiễn và lý luận, như việc
chỉ ra những nhận thức đã rõ, những vấn đề mới còn chưa rõ và những mối quan hệ
lớn cần giải quyết.
Tiếp
tục phát huy mạnh mẽ tinh thần đổi mới tư duy đối ngoại
Đại hội XIII của Đảng là dấu mốc quan
trọng, mở ra vận hội mới cũng như định hướng phát triển cho đất nước trên mọi
phương diện trong thời gian tới. Văn kiện Đại hội đã thể hiện mạnh mẽ tinh thần
đổi mới tư duy, phù hợp với thực tiễn luôn thay đổi không ngừng, tạo nên thế và
lực mới của đất nước.
Đại hội XIII chỉ ra rằng sau 35 năm đổi
mới, đất nước đã có thế và lực, uy tín và tiềm năng chưa từng có trong lịch sử,
trở thành những tiền đề và cơ sở vững chắc để phát triển thuận lợi, phồn vinh,
thịnh vượng và vươn xa hơn nữa. Việt Nam có đủ điều kiện để mở ra vận hội mới,
gây dựng và tận dụng cơ hội để vượt qua thách thức, vừa hài hòa với thế giới
hiện đại, vừa chủ động tham gia vận hành thế giới hiện đại.
Nhận thức về thế giới của Đại hội XIII của Đảng phản ánh khách quan thực
tiễn thế giới trong 5 năm qua, với những chuyển biến rất phức tạp, với tính bất
ổn, bất định và khó lường. Đại hội đã đánh giá tình hình một cách biện chứng,
chỉ ra nhiều thách thức mới, có tác động sâu rộng và phức tạp tới Việt Nam,
đồng thời cũng nêu bật những khác biệt về đặc điểm tình hình mới so với giai
đoạn trước và các xu thế dòng chảy chính hiện nay. Việc dự báo những nguy cơ
tiềm tàng trong Văn kiện Đại hội XIII cho thấy tư duy bảo vệ Tổ quốc từ
sớm, từ xa được thể hiện rõ nét.
Về đường lối đối ngoại, Đại hội XIII của Đảng khẳng định tư tưởng chỉ
đạo, đó là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng”(7).
Qua đó, Đại hội làm rõ mối quan hệ biện
chứng giữa ba nội dung lớn về độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và
hội nhập quốc tế. Đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn gia tăng như hiện
nay, độc lập, tự chủ và đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ là con đường phù hợp
và hiệu quả nhất để Việt Nam bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc. Độc lập,
tự chủ là việc Việt Nam kiên định trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Độc lập về quyết sách, đường lối, hoạt động, chính sách và nhận định
đánh giá tình hình. Tự chủ là tâm thế và khả năng để triển khai những quyết
sách, đường lối đó. Đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế là điều kiện
để bảo đảm độc lập, tự chủ hiệu quả và bền vững, mở ra những cơ hội phát triển
và bảo vệ lợi ích của Việt Nam.
Về định vị đất nước với thế giới, tiếp nối các kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng
đã đề ra phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích
cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(8). Đây là phương châm phù hợp với đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa như đã nêu ở trên, đồng thời là sự
khẳng định giá trị của đối ngoại Việt Nam là “hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển”. Yếu tố “tích cực” là điểm mới, thể hiện quyết tâm
của Việt Nam trong kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hội nhập
quốc tế, sẵn sàng tham gia đóng góp cho cộng đồng quốc tế cũng như giải quyết
các vấn đề khu vực và toàn cầu, phản ánh tinh thần của Chỉ thị số 25-CT/TW,
ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến
năm 2030”.
Về lợi ích quốc gia - dân tộc, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Bảo đảm cao nhất
lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương
Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(9).
Lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là phương châm của đối ngoại.
Việc khẳng định điều này ở phần “quan điểm chỉ đạo”, cho thấy sự thống nhất
nhận thức cao nhất. Mọi phương hướng, nhiệm vụ trong giai đoạn tới đều vì lợi
ích quốc gia - dân tộc và mọi lợi ích khác đều phải phục tùng lợi ích quốc gia
- dân tộc. Đồng thời, trong môi trường quốc tế với sự nổi lên của chủ nghĩa dân
tộc, chủ nghĩa cường quyền, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp
hòi, mà thúc đẩy lợi ích của mình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế(10).
Về vai trò và nhiệm vụ đối ngoại, điểm mới quan trọng trong Văn kiện Đại hội XIII là
lần đầu tiên xác định “vai trò tiên phong” của đối ngoại trong
tổng thể các nhiệm vụ chung của đất nước. Qua đó, chỉ ra nhiệm vụ thường xuyên
của đối ngoại là “tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi
cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Trong đó, giữ vững hòa bình, ổn định là nhiệm
vụ trọng yếu, thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm;
nâng cao vị thế và uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng(11).
Có thể thấy, sứ mệnh của đối ngoại là đưa đất nước vào vị trí có lợi nhất trong
mọi diễn biến của tình hình thế giới, khu vực cũng như trong dòng chảy của các xu
thế quốc tế và tương quan lực lượng chính trị thế giới, nhằm tạo ra bước đột
phá mới và mở ra vận hội mới cho đất nước, đi đầu và đóng góp trực tiếp cho
việc thực hiện và bảo vệ lợi ích an ninh và phát triển(12).
Đối ngoại vì thế phải toàn diện và hiện đại,
thiết thực và hài hòa giữa tính thời đại với tính định hướng lâu dài. Lần đầu
tiên vấn đề xây dựng “nền ngoại giao toàn diện, hiện đại” được đưa vào Văn kiện
Đại hội XIII, với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối
ngoại nhân dân. Đó là nền ngoại giao kiên định với lập trường quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng tới mục tiêu triển khai hiệu
quả đường lối đối ngoại của Đảng, tạo cục diện đối ngoại thuận lợi nhất, năng
động, sáng tạo, thích ứng với mọi chuyển biến của tình hình, ngang tầm khu vực
và vươn tầm quốc tế.
Xuyên suốt quá trình phát triển của lịch
sử dân tộc, đổi mới tư duy luôn là một yêu cầu tất yếu và bức thiết để Việt Nam
vững bước đi lên, giúp đất nước tận dụng được cơ hội, nhìn trước và vượt qua
thách thức để phát triển bứt phá.
Những đổi mới tư duy đối ngoại nêu trên
bảo đảm cho định hình đường lối đối ngoại đúng đắn để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa./.
Nguồn: TCCS
(1)
Có thể chia làm ba giai đoạn: 1- Giai đoạn phá thế bao vây cấm vận (1986 -
1995), tập trung giải quyết vấn đề Cam-pu-chia, bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc, Mỹ và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); 2- Giai
đoạn mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế (1996 - 2010), Việt Nam trở
thành thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), gia nhập Diễn đàn Hợp
tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc; 3- Giai đoạn đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế
sâu rộng, toàn diện (từ năm 2011 đến nay), thúc đẩy mạng lưới đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện, ký kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đảm
nhiệm vai trò kép là Chủ tịch ASEAN và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc
(2) Trần Minh Trưởng (Chủ biên): Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng, nghệ thuật
ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.
23
(3) Nguyễn Dy Niên: Tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 58
(4) Dẫn theo Phạm Bình Minh: “Phát huy vai trò của ngoại giao Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Cộng sản, số 955, tháng 12-2020, tr. 11
(5) Nguyễn Vũ Tùng: “Sự phát triển nhận thức về đường lối đối ngoại của Đảng
ta”, Trang
thông tin điện tử Hội đồng lý luận Trung ương, ngày 1-6-2019, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/su-phat-trien-nhan-thuc-ve-duong-loi-doi-ngoai-cua-dang-ta.html
(6) Vũ Khoan: “Đổi mới tư duy và chính
sách trong lĩnh vực đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Trang thông tin điện
tử Bộ môn Lịch sử, Khoa Khoa học xã hội và nhân văn, Trường Đại học Khoa học,
Đại học Thái Nguyên, ngày 27-2-2013, http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/351-Vu-Khoan-Doi-moi-tu-duy-va-chinh-sach-trong-linh-vuc-doi-ngoai-cua-Dang-Cong-san-Viet-Nam
(7), (8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t. I, tr. 161 - 162, 162, 110
(10) Các nguyên tắc này bao gồm: bình đẳng về chủ quyền quốc gia, tôn trọng
toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia, không đe dọa sử dụng vũ lực
hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, không can thiệp công việc nội bộ các
nước, tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế, giải quyết các tranh
chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. Đó là những nguyên tắc phổ quát và tiến
bộ mà toàn thể nhân loại đang nỗ lực gìn giữ
(11) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc
(tháng 12-2021), https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-doi-ngoại-toan-quốc.html
(12) Xem: Bùi Thanh Sơn: “Phát huy vai trò đối ngoại phục vụ sự nghiệp phát
triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 8-6-2021, https://dangcongsan.vn/tieu-diem/phat-huy-vai-tro-doi-ngoai-phuc-vu-su-nghiep-phat-trien-dat-nuoc-vi-muc-tieu-dan-giau-nuoc-manh-dan-chu-cong-bang-van-minh-582594.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét