Quan
điểm Đại hội XIII của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Bài viết tập trung làm rõ quan điểm Đại hội XIII của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
1. Quan điểm của Đảng ta về phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao
Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ tư tưởng chỉ đạo,
phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng con người Việt Nam trong điều kiện
mới, nhất là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trước tác động
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cũng như bối cảnh kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế được thể hiện ở các nội dung
sau:
Một là, khẳng định con người là trung tâm của sự
phát triển và kiên định phát triển con người Việt Nam toàn diện
Đảng ta chủ trương: “coi con người là trung tâm, chủ
thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn
hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự
phát triển bền vững”(1). Đồng thời khẳng định: “mọi chính sách của
Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh
phúc của nhân dân”(2); thực hiện “phát huy nhân tố con người, lấy
nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của
xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển”(3). Đảng khẳng
định, nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là tinh thần yêu nước,
ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của mỗi người dân. Do vậy, phải “Phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt
Nam;… phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội
sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(4).
Để thực hiện chủ trương trên, Đại hội XIII của Đảng đã
chỉ rõ: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng
lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và
Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng
cao...”(5); thực hiện phương châm: “Đào tạo con người theo hướng có
đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng
sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy
sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”(6).
Hai là, quan tâm bảo đảm quyền con người, quyền
công dân và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới
Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Hoạt động tư pháp phải
có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”(7). Theo đó, phải tiến hành
đồng bộ các biện pháp “Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người
dân và doanh nghiệp. Phát triển hoạt động dịch vụ pháp lý và các thiết chế giải
quyết tranh chấp ngoài tòa án. Nâng cao hiệu quả và rút ngắn thời gian giải
quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh
doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng”(8).
Về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đại hội
XIII chủ trương: “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và
hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú
trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân
lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc
sống, chăm sóc con người”(9). Đồng thời định hướng: “ưu tiên
nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ
sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng
giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy
mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ; khơi
dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn
lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”(10).
Ba là, thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách và
coi trọng giáo dục, khoa học để con người có điều kiện phát triển toàn
diện
Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Có kế hoạch, cơ chế và
giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế
- xã hội”(11). Thực hiện “Xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại”(12). Đồng thời, “Thực hiện
tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh
con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của
nhân dân. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều,
bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa
dạng, đa tầng, hiện đại. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội,
quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân”(13).
Chủ trương coi trọng giáo dục, đào tạo để phát triển
con người đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, “Chú trọng hơn giáo dục
đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục
tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý
thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với
giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam”(14).
Cùng với đó, Đại hội XIII của Đảng khẳng định vai trò
của khoa học trong phát triển nguồn lực con người: “Khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây
dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây
dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ
quốc”(15); thực hiện “Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y
học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người”(16).
Như vậy, quan điểm Đại hội XIII của Đảng về con người
và phát triển nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là hệ
thống toàn diện và có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực
trong bối cảnh mới của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng. Đảng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát
triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải thực hiện chiến lược
giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người, nguồn nhân lực chất
lượng cao một cách toàn diện cả thể lực, trí lực, tâm lực. Nhiệm vụ của giáo
dục và đào tạo đó là đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm
văn hóa và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện
thành công sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng
XHCN.
2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra định hướng phát
triển đất nước giai đoạn 2021-2030, đó là: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu
hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế
để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở
một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”(17).
Theo đó, để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần tập trung thực
hiện tốt một số giải pháp sau:
Thứ nhất, chú trọng thực hiện gắn kết tốt các
khâu đào tạo, sử dụng, đãi ngộ để phát triển được nguồn nhân lực chất lượng
cao.
Công tác đào tạo nguồn nhân lực phải dựa trên nhu cầu
của xã hội, xu hướng phát triển của nền kinh tế, đúng địa chỉ sử dụng nhằm tạo
ra sự cân bằng trong đào tạo và sử dụng nhân lực ở các ngành nghề, vùng, miền
và các thành phần kinh tế, khắc phục tình trạng đào tạo nhân lực có bằng cấp
chuyên môn nhưng không được sử dụng đúng với ngành nghề được đào tạo. Hệ thống
giáo dục quốc dân cần được hoàn thiện theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập
suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Để rút ngắn khoảng cách về trình độ học vấn cũng như
trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động giữa khu vực thành thị và khu
vực nông thôn, cần xây dựng cơ chế hỗ trợ người dân vùng nông thôn, các dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa… Đầu tư cho giáo dục, đào tạo cần được tăng cường
bằng nhiều nguồn lực, trong đó tăng thêm đầu tư từ ngân sách nhà nước, đồng
thời tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội nhằm đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục, xây dựng xã hội học tập.
Trong điều kiện cạnh tranh nhân tài ngày càng gay gắt
như hiện nay, việc phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài là
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và phải trở thành “quốc sách”, thành chủ trương,
chính sách nhất quán, có hiệu quả cao để tăng cường sức mạnh của đất nước. Chính
vì vậy, phải “trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học
và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài,
nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm
vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng”(18). Việc thu hút
nhân tài phải trở thành ưu tiên hàng đầu đối với mỗi tổ chức, cơ quan, đơn
vị.
Thứ hai, đổi mới công tác tuyển dụng, lựa chọn
được những người thực đức, thực tài
Thi tuyển là một cách thức tốt để lựa chọn được người
tài tham gia vào các tổ chức bộ máy lãnh đạo, quản lý. Công khai, minh
bạch trong thi tuyển sẽ giúp chọn ra người có đủ năng lực, trình độ, đáp ứng
yêu cầu công việc. Ngược lại, nếu bất kỳ khâu nào trong quá trình thi tuyển thiếu
minh bạch, bị làm sai lệch vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, thì việc thi tuyển
sẽ thất bại.Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Phải có nhận thức sâu
sắc, dày công chăm lo cho công tác này (công tác lựa chọn nhân sự, người có
“đức” và “tài”); trong quá trình tổ chức thực hiện, cần thực hiện đúng nguyên
tắc, quy định, quy chế, quy trình, tiến hành từng bước, từng việc, từng khâu
một cách kỹ lưỡng, thận trọng, bảo đảm dân chủ, khách quan, công tâm, công
khai, minh bạch, làm đến đâu chắc đến đó”(19).
Trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, tuy
hệ thống giáo dục chưa toàn diện, rộng khắp nhưng thông qua thi tuyển đã lựa
chọn được rất nhiều người tài giỏi, lưu danh sử sách. Ngày nay, với hệ thống
giáo dục rộng khắp, toàn diện, cần phải xây dựng hệ thống thi tuyển một cách
bài bản, khoa học để lựa chọn những “hạt giống” cho đất nước. Việc tổ chức thi
tuyển cần có sự thống nhất giữa các cơ quan, đơn vị để bảo đảm công bằng giữa
các ứng viên với cùng yêu cầu về trình độ, vị trí việc làm. Nội dung đề thi cần
sát thực tế để khai thác tối đa trí tuệ, kỹ năng giải quyết vấn đề của ứng
viên. Một đề thi mang tính khoa học không chỉ đánh giá năng lực người học mà
còn là cơ sở điều chỉnh quá trình dạy và học. Việc kiểm tra, giám sát
trong quá trình thi tuyển cũng cần được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc để tránh
những gian lận, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Chỉ khi có đủ tính cạnh
tranh và công khai, minh bạch mới có được sự sàng lọc giữa các ứng viên, thông
qua đó phát hiện và chọn được cán bộ phù hợp.
Thứ ba, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trong quá trình công tác
Vừa làm việc, vừa đào tạo, bồi dưỡng qua công việc
giúp cán bộ cập nhật kiến thức, bổ sung kỹ năng, nâng cao trình độ chuyên môn
và phương pháp công tác. Đào tạo, bồi dưỡng trong giai đoạn này mang tính
thường xuyên, liên tục và đòi hỏi sự chủ động, tự giác của cán bộ. Các lớp đào
tạo, bồi dưỡng giúp gợi mở, cung cấp thông tin mới, phương pháp để người học
nâng cao kiến thức.
Trong bối cảnh hiện nay, cần chú trọng hình thức đào
tạo vừa học, vừa làm với các đối tượng nghiên cứu chuyên sâu, hướng tới hình
thành đội ngũ cán bộ là chuyên gia trong các lĩnh vực, khắc phục tình trạng
thiếu hụt chuyên gia đầu ngành như hiện nay. Giai đoạn đào tạo, bồi dưỡng này
không tách rời các giai đoạn trước đó mà là sự bổ sung, tiếp nối các thành quả
của giáo dục, đào tạo trước đó. Đào tạo, bồi dưỡng mang tính chất hệ thống hơn,
chương trình chuyên sâu hơn để hướng tới mục tiêu giáo dục, đào tạo suốt đời.
Việc nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, tay nghề…phải trở thành một nhu cầu thiết yếu, thường xuyên của mỗi
người chứ không phải sự bắt buộc, gò ép theo các tiêu chuẩn. Từ đó cũng hình
thành lối sống văn minh, tích cực, hình thành lớp thế hệ nhân lực, nhân tài có
tầm nhìn xa, có chiến lược, bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách
nhiệm, có khát vọng xây dựng đất nước hùng cường.
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài, xây dựng
đội ngũ cán bộ là công việc quan trọng hàng đầu tạo ra nguồn sức mạnh nội sinh
to lớn cho đất nước, dân tộc. Gắn liền công tác giáo dục, đào tạo với việc phát
triển nguồn nhân lực, nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực làm việc
trong bối cảnh hội nhập chính là việc tác động tổng thể vào các nhân tố, các
giai đoạn của quá trình nêu trên.
Thứ tư, xây dựng môi trường làm việc dân chủ,
sáng tạo, nền nếp, kỷ cương, tôn trọng cá nhân, đồng thời chống chủ nghĩa cá
nhân
Sau khi tuyển dụng được người tài, cần tạo môi trường
làm việc năng động, sáng tạo, dân chủ để họ yên tâm công tác, phát triển và
cống hiến. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất khéo dùng người, tạo mọi điều
kiện để nhân tài phát triển và cống hiến, nhất là trong bối cảnh đất nước vô
cùng khó khăn về kinh tế, thù trong giặc ngoài. Người khẳng định: “E vì
Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể
xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó, và trọng
dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người
tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho
Chính phủ biết”(19). Để dùng được nhân tài, Người luôn nhắc nhở
những người làm cán bộ lãnh đạo, quản lý phải dân chủ, nêu gương. Một môi
trường dân chủ là môi trường để người tài được trọng dụng và cống hiến. Môi
trường thiếu dân chủ sẽ là mảnh đất cho chủ nghĩa cá nhân sinh sôi nảy nở, với
những hành vi tham ô, lãng phí…
Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng quan điểm mới
của Đảng về phát triển con người, nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay
có ý nghĩa quan trọng, là yêu cầu cấp thiết ở các ngành, các lĩnh vực của
đời sống xã hội nhằm thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống
chính trị và các tầng lớp nhân dân trong triển khai thực hiện, nhất là xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, góp phần đưa Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống.
Nguồn LLCT:
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14),
(15), (16), (18) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 215 - 216, 216, 99, 34, 231, 232 -
233, 117, 287, 231, 54, 145, 47, 47 - 48, 136, 63 - 64, 267, 167.
(17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr.
329.
(19) Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội
nghị cán bộ toàn quốc tổng kết công tác tổ chức đại hội đại biểu các cấp nhiệm
kỳ 2020 - 2025, ngày 19-11-2020, https://moha.gov.vn.
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.504.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét