Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta xác định: Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó các lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Về
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, V.I. Lê-nin cho rằng: “Một
cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
từng căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước”. Đây là triết lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển đất nước
theo tinh thần “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì” chính là quy luật của cách mạng Việt Nam. Nội dung
của quy luật này gồm học thuyết giải phóng và học thuyết phát triển, trong đó
chứa đựng cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,
nhân dân ta giành được chính quyền, trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”. Khi kẻ thù trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Người kêu gọi: “Tất cả
quốc dân Việt Nam phải đứng dậy bảo vệ Tổ quốc”.
Hai tháng sau khi đồng bào miền Nam bước
vào cuộc kháng chiến, ngày 25-11-1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ
thị “Kháng chiến, kiến quốc”. Thực dân Pháp và các thế lực phản động đang âm
mưu thôn tính nước ta, “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là một cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng… Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn
thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc
trên hết”, “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập
trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” đã thể
hiện rõ tư tưởng trong khi đặt nhiệm vụ kháng chiến lên hàng đầu, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đồng thời coi trọng nhiệm vụ xây dựng đất nước về mọi mặt; xây dựng
chế độ mới phải đi đôi với bảo vệ chế độ mới; phải vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc. Kháng chiến để đánh bại thế lực đế quốc xâm lược, kiến quốc để xóa bỏ tàn
dư chế độ cũ, phát triển đất nước, củng cố hậu phương vững chắc. Hai nhiệm vụ
chiến lược này được kết hợp chặt chẽ trong suốt quá trình chiến tranh cách
mạng. Bên cạnh đó, Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cụ thể về nội chính, quân sự,
ngoại giao, kinh tế, văn hóa, chỉ rõ những nội dung về xây dựng Đảng, cải tổ
Chính phủ, về kháng chiến ở miền Nam và đoàn kết với nhân dân các nước…
Để đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, Chủ
tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào tăng gia sản xuất, “thực túc, binh
cường”. Người nhấn mạnh: “Vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận,
vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng. Chiến sĩ ra sức giữ gìn nước
non. Nhà nông ra sức giúp đỡ chiến sĩ. Hai bên công việc khác nhau, nhưng thật
ra là hợp tác. Cho nên hai bên đều có công với dân tộc, đều là anh hùng”.
Thực hiện chủ trương vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc, quân và dân ta đã giải quyết cả ba nhiệm vụ diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại
xâm; không ngừng củng cố và tăng cường hệ thống chính trị nhằm thúc đẩy cả
hai mặt xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, vùng tự do được bảo vệ, vùng giải
phóng ngày càng được mở rộng; từng bước xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ mới
trong vùng ta kiểm soát, thực hiện được “thực túc, binh cường” và giải quyết
vấn đề vũ khí, trang bị, kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Bên cạnh việc đánh và
cướp vũ khí của địch, Chính phủ đã phát động nhân dân tự tạo, sắm sửa vũ khí,
đồng thời xây dựng các công binh xưởng sản xuất, sửa chữa, cải tạo vũ khí. Đại
hội II của Đảng (2-1951), với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương: Các mặt công tác chính trị,
kinh tế, văn hóa đều nhằm mục đích làm cho quân sự thắng lợi, đồng thời đấu
tranh quân sự phải kết hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế.
Với tư tưởng vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dựng nước và
giữ nước trong từng thời điểm lịch sử cụ thể, đưa cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp tới thắng lợi.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng
lợi, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, Mỹ
- Diệm trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, đàn áp dã man những người cộng
sản và đồng bào yêu nước. Trong báo cáo “Tình hình mới, nhiệm vụ mới” tại Hội
nghị Trung ương 6, ngày 17-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiện nay
đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó đang trở thành kẻ thù
chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ” và “chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của
mọi người Việt Nam yêu nước”. Đồng thời, Người chỉ rõ vai trò của miền Bắc
trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà: “Nền có vững, nhà mới chắc; gốc
có mạnh, cây mới tốt. Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của
toàn dân ta, cho nên chúng ta phải làm cho nó thật vững, thật mạnh”.
Khai mạc Đại hội lần thứ III của Đảng
(năm 1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam: “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà
bình thống nhất nước nhà”. Đại hội xác định những nhiệm vụ của cách mạng ở hai
miền Nam - Bắc. Nhiệm vụ của miền Bắc là xây dựng chủ nghĩa xã hội, thuộc chiến
lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của miền Nam là tiến hành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thuộc chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Song cách mạng hai miền đều có mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước. Hai
nhiệm vụ chiến lược nói trên có quan hệ mật thiết, thúc đẩy lẫn nhau. Nhiệm vụ
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong đó có sự nghiệp đấu
tranh thống nhất đất nước. Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp
đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
trong cả nước. Đến đây, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng đã phát triển lên một trình độ mới, trở thành đường lối cách
mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng đã vận dụng và xử lý hài
hòa quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Thực hiện đường lối trên, miền Bắc thể
hiện xuất sắc vai trò của mình, đó “vừa là căn cứ địa cách mạng của cả nước,
vừa là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, vừa là tiền tuyến trực
tiếp chiến đấu ác liệt với máy bay và tàu chiến Mỹ” (11).
Chỉ có lập trường kiên định chống xâm lược, có chế độ chính trị ưu việt, có
cách tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống xã hội tốt, miền Bắc mới có thể làm
tròn nghĩa vụ với tiền tuyến lớn, làm tròn vai trò lịch sử của mình.
Đặc biệt, trong thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược cách mạng là việc giải quyết nhuần nhuyễn, sáng tạo quan hệ giữa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Đó là, trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta vừa giành được độc lập, chính quyền
cách mạng còn non trẻ và kẻ thù đã đứng chân ngay trên đất nước ta. Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta có miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền
Nam vẫn trong sự thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Như vậy, việc giải quyết
mối quan hệ giữa kháng chiến và kiến quốc, xây dựng và bảo vệ đất nước có khác
nhau.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh,
trong 30 năm kháng chiến, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có mối quan hệ
mật thiết, bền vững, thúc đẩy lẫn nhau. Có xây dựng được vùng tự do, cụ thể là
xây dựng được miền Bắc vững mạnh mới có đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Ngược
lại, có đánh bại được mọi âm mưu chiến lược của địch mới có thể bảo vệ vững
chắc vùng tự do và hậu phương chiến lược, tiến tới giải phóng hoàn toàn Tổ
quốc. Đây cũng là bài học quý báu trong thời bình. Chỉ có xây dựng đất nước
giàu mạnh với chế độ tốt đẹp, chế độ xã hội chủ nghĩa, mới tạo ra được nguồn
lực dồi dào cho sự nghiệp giữ nước. Và, chỉ có xây dựng được nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh, đủ sức đánh bại mọi kẻ thù thì mới giữ được hòa bình, ổn
định, tạo môi trường thuận lợi cho xây dựng đất nước.
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là tổng thể
các công việc không tách rời nhau, rất khó khăn, phức tạp, hết sức to lớn, nặng
nề, nhưng cũng rất vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đây là một cuộc
chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt
tươi”. Tư tưởng khoa học, cách mạng và nhân văn này của Người đã được Đảng ta
vận dụng, phát triển sáng tạo trong tình hình mới.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới. Mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được xác định là mối
quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ. Xây dựng “nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” là một quá
trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái mới và cái cũ
nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện cả trên phương
diện lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất, “bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích
quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh
quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành
mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bảo đảm quốc
phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” của
Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân.
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Về
lĩnh vực chính trị, là
xây dựng, bảo vệ đường lối chính trị, hệ tư tưởng của Đảng ta, bảo vệ Cương
lĩnh, xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa…
Về
lĩnh vực kinh tế, là
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những cơ sở vật chất kỹ
thuật kinh tế trọng yếu của đất nước, đấu tranh giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay; giải quyết hài
hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc
phòng, an ninh.
Về
lĩnh vực văn hóa, là
xây dựng, bảo vệ nền văn hóa xã hội chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc;
xây dựng giá trị chuẩn mực của văn hóa xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống lại
tư tưởng, quan điểm phản giá trị văn hóa, nhất là những tàn dư của văn hóa
phong kiến lạc hậu, sự thâm nhập của cái gọi là “giá trị văn hóa phương Tây”.
Về
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, là xây dựng, bảo vệ tiềm lực, thế trận quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng và bảo vệ các lực lượng vũ trang nhân dân,
quân đội nhân dân và công an nhân dân, xây dựng và bảo vệ nền ngoại giao Việt
Nam...
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc thể hiện ở tất cả các cấp, các ngành, trên quy mô toàn quốc cũng như trên
từng địa phương, cơ sở, đơn vị, doanh nghiệp, trong nhận thức cũng như trong tổ
chức hoạt động thực tiễn. Đảng, Nhà nước, nhân dân và cả hệ thống chính trị là
chủ thể nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn, thể hiện ở
việc đề xuất giải pháp, biện pháp, phương thức xây dựng và tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách kết hợp giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển
kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhận thức rõ và giải quyết
tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là
phòng ngừa mà trước hết phải chăm lo xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt,
nhất là phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế; đi đôi với đấu tranh
phòng, chống tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, đấu tranh
làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Thành tựu to lớn và có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa là chúng ta giữ vững và kiên trì, kiên quyết đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, lợi
ích quốc gia - dân tộc, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và kiên định xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an
toàn xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ; tạo lập và
củng cố môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập sâu
rộng quốc tế; củng cố và tăng cường nội lực, nâng cao vị thế và uy tín của đất
nước trên trường quốc tế. Nhận thức về quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội có bước tiến mới; trong quá trình xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội, luôn quan tâm và chú trọng đến nhiệm vụ quốc
phòng; nâng cao khả năng huy động các nguồn lực kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo
dục, khoa học - công nghệ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân từng bước chính quy, hiện đại, nâng cao khả
năng dự báo chiến lược, ngăn chặn, loại trừ nguy cơ chiến tranh và chủ động
chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống; hình thành thế chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận
an ninh nhân dân được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn, củng cố được
“thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc… Những thành tựu cơ bản đó đã chứng
minh tính đúng đắn, sáng tạo trong đường lối cách mạng của Đảng ta, đồng thời
khẳng định tiềm năng và sức mạnh to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, quá trình giải quyết mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về mối quan hệ
giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữa bảo vệ Tổ quốc
và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có lúc,
có nơi vẫn còn có biểu hiện tách rời hai mặt hoặc tuyệt đối hóa chỉ một mặt của
nhiệm vụ này hoặc coi bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của riêng lực lượng vũ
trang, của quân đội và công an. Ý thức về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của một
số cơ quan, đơn vị, địa phương, của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân
chưa cao. Thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch,
quy hoạch phát triển kinh tế có lúc, có nơi còn làm ảnh hưởng đến quốc phòng,
an ninh, nhất là đối với yêu cầu xây dựng cơ sở xã hội và thế bố trí chiến lược
quốc phòng, xây dựng thế trận của nền quốc phòng toàn dân. Việc giải quyết mối
quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng, đầu tư nước ngoài ngày
càng tăng, còn nhiều bất cập và hạn chế. Sự phối hợp hoạt động giữa quốc phòng
và an ninh trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xử lý các tình
huống cụ thể có lúc, có nơi thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ; chưa gắn chặt giữa
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chiến lược quốc phòng, an ninh, chưa
tạo nên sức mạnh tổng hợp cao...
Quá trình nhận thức và giải quyết mối
quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay đặt
ra nhiều vấn đề cần phải tổng kết, phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Cần
tăng cường quán triệt, tuyên truyền, giáo dục nhận thức về mối quan hệ giữa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết, phát triển lý luận, đúc
kết và vận dụng các bài học kinh nghiệm giải quyết nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nhận thức và giải quyết
kịp thời những mâu thuẫn, bất cập, khó khăn cản trở việc tăng cường mối quan hệ
giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục, củng cố niềm tin của nhân
dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; giáo dục lòng yêu nước với yêu chủ
nghĩa xã hội.
Nhận thức và giải quyết mối quan hệ này
không chỉ thể hiện trong quan điểm, chủ trương, chính sách ở tầm vĩ mô, mà còn
phải trở thành nhận thức thường trực trong mỗi tổ chức, mỗi người dân, với
niềm tin, trách nhiệm, ý chí quyết tâm hành động, góp phần xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang diễn ra trong bối cảnh tình hình
thế giới, khu vực tiếp tục có những biến động lớn, diễn biến nhanh chóng, phức
tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột về lợi ích
dẫn đến bất ổn về an ninh đối với nhiều quốc gia. Ở trong nước, mặc dù “thế và
lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày
càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”, song vẫn còn nhiều “khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề
mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. Các nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Trước
tình hình đó, càng cần kết hợp tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:
Giải
quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải đặt ra trong tổng thể và
không thể tách rời các mối quan hệ lớn khác. Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Trong nhận thức
và giải quyết các mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện
chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, cần
tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (16). Đây là vấn đề rất quan trọng, vừa là
kết quả kinh nghiệm của hơn 35 năm đổi mới, vừa là phương hướng cơ bản cần thực
hiện trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Giải
quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển bền vững trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
với bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, một trong những vấn
đề đặt ra là xây dựng cơ chế phù hợp để các ngành, các cấp, mọi tổ chức và lực
lượng thực hiện có hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế, văn hóa, xã
hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và ngược lại để sự phát triển bền vững
đáp ứng được nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
đó của các thế hệ tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường… Tiếp
tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược
quân sự, chiến lược quốc phòng, chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên
ngành khác nhằm bảo vệ đất nước; chủ động nhận diện các nhân tố bất lợi,
nhất là các nhân tố bên trong có thể gây đột biến; giữ nước từ sớm, từ xa, từ
khi nước chưa nguy, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức
mạnh của thời đại. Xác định rõ một số tình huống quân sự, quốc phòng, dự kiến
các tình huống có thể xảy ra, phù hợp với thực tiễn, đủ cơ sở để xác định quyết
tâm, chủ động phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ về chiến lược và sẵn sàng
đối phó thắng lợi trong mọi tình huống.
Xây
dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp để bảo
vệ Tổ quốc, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao. Xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân là
đường lối đúng đắn và khoa học trong thời bình, sẵn sàng chuyển hóa thành lực
lượng, thế trận chiến tranh nhân dân, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, kể cả
chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.
Giữ
vững độc lập, chủ quyền về quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập quốc
tế. Độc lập, tự
chủ về quốc phòng, an ninh là khả năng tự quyết định những vấn đề liên quan đến
quốc phòng, an ninh; là năng lực tự bảo vệ của đất nước trước các hành động xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, các quyền, lợi ích
quốc gia, khả năng chống lại sự can thiệp từ bên ngoài vào công việc nội bộ của
đất nước. Quá trình hội nhập quốc tế là quá trình tham gia và mở rộng các mối
liên kết quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, có nhiều cơ hội và thách thức đối với
độc lập, tự chủ của đất nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hội nhập quốc
tế và độc lập, tự chủ về quốc phòng, an ninh có mối quan hệ biện chứng; là tiền
đề cơ sở của nhau, tác động thúc đẩy nhau phát triển. Trong đó, hội nhập quốc
tế tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, làm tiền đề vật chất cho tăng
cường quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập, tự chủ về quốc phòng, an
ninh sẽ thúc đẩy hội nhập quốc tế đi đúng hướng, sâu rộng và đạt hiệu quả cao.
Do đó, cần tỉnh táo, kiên định với những vấn đề mang tính nguyên tắc, nhưng
khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, xử lý các mối quan hệ, xác định rõ
và luôn kiên định lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất trong quá
trình hội nhập quốc tế, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ đối ngoại và hội nhập
quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia - dân tộc. Bảo đảm cao nhất lợi
ích quốc gia - dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế.
Chủ động phòng, chống một cách hiệu quả,
làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chống phá ta
của các thế lực thù địch; nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu
vực, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Cần nhận thức và xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, giữa hợp tác và đấu tranh trong từng tình huống cụ thể để có những
ứng phó phù hợp, góp phần triển khai hiệu quả nhiệm vụ hội nhập quốc tế và đối
ngoại quân sự, quốc phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét