135 bài thơ chữ Hán trong "Ngục trung nhật ký" (Nhật ký trong tù) được Hồ Chí Minh viết trong khoảng thời gian từ tháng 8-1942 đến 9-1943, tại các nhà ngục ở Quảng Tây, Trung Quốc là sự kiện rất đặc biệt và cũng có thể là bất ngờ đối với tác giả. Đặc biệt bởi tác giả dường như chưa có một chuẩn bị gì cho sự kiện này. Nói như GS Đặng Thai Mai, đây là tập thơ Hồ Chí Minh ngẫu nhiên mà hái lượm được.
Cho đến nay, hành trình của nguyên tác vẫn còn nhiều chỗ chưa sáng tỏ. Ai đã giữ hộ Bác tập thơ? Ai đã gửi tập thơ về Hà Nội? Từ Hà Nội hành trình của nguyên tác là đi theo những con đường nào? Đến với Triển lãm cải cách ruộng đất ở phố Bích Câu? Trở về kho lưu trữ của Trung ương Đảng? Rồi chuyển về Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)? Tất cả hành trình đó là do chủ ý của Bác hay của một tổ chức nào? Đã có một số bài báo và luận án tiến sĩ về đề tài này, nhưng tất cả theo tôi vẫn chỉ là các giả thuyết.
Tôi xin khẳng định: "Ngục trung nhật ký" là tập thơ ngẫu nhiên mà có trong một hoàn cảnh đặc biệt: Bác sang Trung Quốc và bị giam giữ ở nhiều nơi trong 14 tháng. Nếu không có hoàn cảnh đó, chắc chắn sẽ không có tập thơ. Một tập thơ Bác làm từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943, nhưng phải 17 năm sau bản dịch tiếng Việt mới đến được với công chúng rộng rãi trong nước và qua các bản dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài mà đến được với công chúng thế giới. Với điểm dừng cuối cùng là Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, như được nói trong "Lời nói đầu" bản dịch "Nhật ký trong tù", in lần đầu năm 1960. Với khoảng cách 17 năm trong im lặng của nó, chứng tỏ người viết không quá quan tâm đến một sản phẩm do chính mình làm ra; nói cách khác, phải chăng Hồ Chí Minh đã không xem đó là một áng văn chương, hoặc có giá trị văn chương thực sự?
Trong 14 tháng bị giam giữ, hoàn cảnh sinh hoạt cực khổ và bị giải tới, giải lui qua nhiều huyện của tỉnh Quảng Tây nhưng Hồ Chí Minh đã làm được 135 bài thơ (hình thức thơ-nhật ký). Đó là một kỷ lục!
Điều tôi quan tâm ở đây là Hồ Chí Minh đã chọn chữ Hán và thể thơ Đường luật bảy chữ-bốn và tám câu, sau 23 năm viết bằng chữ Pháp và chữ Việt. Vì sao có sự chọn lựa như thế? Câu trả lời nên chăng là, việc làm thơ, việc bộc lộ các ý tưởng và cảm xúc của mình đối với Bác chỉ chữ Hán mới là phương thức chuyên chở và thể hiện thích hợp nhất. Bởi nguồn gốc xuất thân, môi trường đào luyện nhân cách và học vấn của Bác là nằm trong truyền thống Nho học có lịch sử hàng ngàn năm cho kẻ sĩ ở xứ ta, mà gia đình Bác là thuộc dòng chân Nho. Ở tuổi ngoài 50, dẫu có 30 năm xa xứ, nói và viết bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài, khi trở về với riêng mình, thì chữ Hán vẫn là phương tiện cô đọng và hàm súc nhất cho việc phô diễn và tự sự. Vậy thì, sau khai mở là bài "Thượng sơn" (năm 1941), ngay sau ngày về nước, bây giờ là lúc mạch nguồn ấy được khơi dậy, để thành một dòng chảy cho con người thơ trong trạng thái tự nhiên có dịp soi vào và nhận diện.
Lý do thứ hai, theo tôi hiểu, với "Ngục trung nhật ký", khác với tất cả các tác phẩm viết trong 23 năm về trước, đó là tập thơ Bác chỉ viết cho riêng mình. Không phải cho công chúng của tiếng Pháp khi ở phương Tây, hoặc của tiếng Việt sau khi về nước, ở đây là một nhu cầu ghi chép thực tại và các trạng huống của nội tâm, mà người đọc không có ai khác ngoài bản thân mình. Để hiểu 4 câu trong bài "Khai quyển": Ngâm thơ ta vốn không ham/ Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây/ Ngày dài ngâm đợi cho khuây/ Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do" (Nam Trân dịch).
Hiện tượng tìm đến chữ Hán, trong thể Đường luật, theo tôi hiểu là với các lý do như thế, chứ không phải vì bất cứ lý do gì khác, như là phải “giữ bí mật” đối với kẻ thù là bọn quản giáo của Quốc dân đảng! Bác ở trên đất Tàu và viết bằng chữ Tàu thì có gì là bí mật đối với họ?
Như vậy, "Ngục trung nhật ký" đã được ra đời một cách ngẫu nhiên, không có chuẩn bị. Cũng có nghĩa tác giả ở đây là một nhà thơ không chủ định. Không có ý định làm thơ, không ham làm thơ, như 4 câu thơ trong bài "Khai quyển", thế nhưng giá trị thơ lại được khẳng định ngay sau khi ra mắt, trên cả hai văn bản chữ Hán và chữ Việt vào tháng 5-1960; và trên các bản dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, như: Pháp, Nga, Anh, Tây Ban Nha, A Rập, Thụy Điển, Hàn Quốc, Nhật Bản...
Kể từ năm 1960 trở đi, thông qua số lượng hàng triệu bản in, hàng chục bản dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài; hàng trăm công trình giới thiệu; hàng nghìn buổi nói chuyện của những học giả và thi nhân hàng đầu trong nước và trên thế giới, "Ngục trung nhật ký" đã có thể can dự một cách tích cực vào sinh hoạt văn hóa, tinh thần của dân tộc và nhân loại.
Một nhà thơ không chủ định, nhưng những gì được viết ra trong hoàn cảnh bị giam giữ, mất tự do lại mang theo chất thơ và những giá trị thơ đích thực, đó là câu chuyện đã được bàn kỹ lưỡng và thấu đáo qua nhiều thế hệ học giả và độc giả, tôi cảm thấy không có tư cách để nói gì hơn, nhằm tránh sự trùng lặp và nhàm tẻ.
Viết về mình trong tính chất một nhật ký-thơ ghi chuyện hằng ngày; và viết cho mình, gần như không nhằm vào bất cứ một đối tượng nào khác ngoài mình, "Ngục trung nhật ký" có tất cả ưu thế để trở thành một chân dung tự họa, trung thực nhất và sâu sắc nhất của Hồ Chí Minh. Một tự họa không cần đến bất cứ sự tô điểm nào, hoặc bất cứ sự che giấu nào; để lần lượt, từ bài này qua bài khác, Hồ Chí Minh hiện lên trước mắt ta trong rất nhiều tư thế: Nhà cách mạng mất tự do, với khát vọng lớn nhất là được tự do; một tù nhân với muôn nỗi khổ; một nạn hữu với bao cảm thông với những người thấp bé; một hồn thơ gắn bó với thiên nhiên; một con người không trốn tránh những phút yếu lòng nhưng luôn luôn chiến thắng ngoại cảnh... Như vậy là có nhiều con người trong một con người qua cách tự biểu hiện ở 135 bài thơ. Nhưng nếu thu lại cho thật gọn thì chỉ còn hai con người-đó là một chiến sĩ cách mạng và một thi nhân, với chất thép và chất thơ-như được đúc kết trong bài "Khán “thiên gia thi" hữu cảm”: Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp/ Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông/ Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong (Nam Trân dịch).
“Nay ở trong thơ nên có thép”. Quả chất thép là cần vì sự định hướng cao cả và triệt để cho hoạt động của con người nhằm vào cái tốt, cái thiện. Nhưng đây lại là chất thép trong thơ, như vậy chất thơ lại cần cho sự phát triển và hoàn thiện con người, như một sản phẩm của tự nhiên và xã hội nhằm vào cái đẹp. Có cái trước để có cái sau. Rất cần nhấn mạnh tầm quan trọng của cái trước, nhưng cái sau mới là hệ quả, là mục tiêu mà con người cần theo đuổi. Những ai nói đến Hồ Chí Minh như là người theo đuổi đến cùng mục tiêu cách mạng, nếu có dịp dừng lại, đi sâu vào phẩm chất nghệ sĩ này sẽ thấy đó là con người luôn tạo được thế hài hòa, luôn tìm được sự bù đắp và thư giãn cho mình trong những hoàn cảnh gieo neo, khốc liệt. Đó chính là biểu hiện, là bản lĩnh của sự kết hợp giữa người chiến sĩ và người nghệ sĩ.
Con người đó, cho đến hôm nay, trong sự soát xét lại các giá trị của thời gian, vẫn nguyên vẹn sự trọn vẹn như trong câu thơ của Tố Hữu: Bảy mươi chín tuổi xuân trong sáng/ Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay ("Theo chân Bác").
Với "Nhật ký trong tù", ta may mắn có được bức chân dung tự họa của con người Hồ Chí Minh. Rồi với cuộc đời Hồ Chí Minh ta càng hiểu thêm giá trị "Nhật ký trong tù". Không có độ chênh giữa tác phẩm và tác giả. Hơn và khác với bất cứ ai khác, có thể có độ chênh ít nhiều, thậm chí có khi khác biệt giữa văn và người, với Hồ Chí Minh, con người thực là bảo đảm bằng vàng cho thơ. Dẫu vậy, thơ chỉ mới nói được một phần nhỏ về người. Con người Hồ Chí Minh lớn hơn bất kỳ sự thể hiện nào trong thơ. Nhưng thơ, để hiểu con người, và để hiểu rộng ra nhiều điều khác nữa; và thơ-trong những lay động sâu xa về tình cảm, khát vọng hướng tới cái đẹp, cái cao thượng... như trong "Nhật ký trong tù" lại là một sản phẩm quý giá, không gì thay thế được và so sánh được.
Kể từ "Yêu sách của nhân dân An Nam" (năm 1919) đến "Di chúc" (năm 1969), trên hành trình 50 năm viết, qua rất nhiều thể, loại thơ và văn, Hồ Chí Minh đã để lại hai tác phẩm như hai tượng đài kề sát nhau, đó là "Ngục trung nhật ký" và "Tuyên ngôn Độc lập" (năm 1945). Một được viết trong tư cách người tù. Một trong tư cách lãnh tụ dân tộc-Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Một như là viết cho riêng mình. Một là viết cho hàng triệu công dân Việt và bạn bè, anh em trên thế giới.
Nói Hồ Chí Minh, bất cứ ở phương diện nào cũng là nói đến một tầm vóc lớn, một chân dung lớn, với khát vọng cao đẹp nhất là độc lập cho dân tộc và tự do cho con người: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Hai khát vọng được biểu trưng một cách đột xuất trong "Ngục trung nhật ký" và "Tuyên ngôn Độc lập”, cả hai gắn nối với nhau để cùng xuất hiện trong một thời điểm trọng đại của lịch sử dân tộc Việt Nam.
GS PHONG LÊ - Báo QĐND
Trang bìa cuốn "Ngục trung nhật ký" được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, năm 1942-1943. Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét