Thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch đặt
trọng tâm là chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt nam,
đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tìm mọi cách để xuyên
tạc, hạ thấp và phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời
sống, tinh thần xã hội Việt Nam. Vì vậy, tăng cường bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là
nhiệm vụ cấp bách trong công tác tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay. Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, không ngừng vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn
Việt Nam trong từng giai đoạn” và “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai
trái, thù địch, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra
đời từ giữa thế kỷ XIX và được tiếp tục phát triển, trở thành một học thuyết có
ảnh hưởng lớn nhất trong trong toàn bộ lịch sử khoa học của nhân loại. Sau gần
180 năm phát triển, dẫn dắt cả một hệ thống các quốc gia, dân tộc với hàng tỷ
người dân hiện thực hóa mô hình xã hội mới, mang lại những thành tựu vĩ đại,
đánh dấu một thời đại cách mạng chưa từng có trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa
Mác – Lênin khẳng định những giá trị bền vững không thể phủ nhận. Đó là:
(1)
Phương pháp biện chứng duy vật: Phương pháp biện chứng duy vật Mác - Lênin là sự kết tinh toàn bộ những
thành tựu tinh hoa của lịch sử phát triển tư tưởng duy vật của nhân loại. Nó
cũng được bổ sung, làm phong phú thêm và minh chứng bởi những thành tựu khoa học
lớn của thời đại Mác, Ăngghen và Lênin sống, cũng như nhiều thành tựu khoa học
của thời đại ngày nay. Phương pháp biện chứng Mác - Lênin xuất phát từ những
nguyên lý, quy luật và những mối quan hệ cơ bản của tự nhiên và xã hội. Vì thế,
một khi những quy luật đó còn còn phản ánh đúng bản chất của tự nhiên, xã hội
và tư duy của con người thì phương pháp biện chứng duy vật còn có giá trị, còn
là công cụ nhận thức của con người. Ví dụ, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
cho rằng, toàn bộ thế giới thống nhất trong tính vật chất và cho dù các sự vật,
hiện tượng có đa dạng, phong phú, phức tạp đến đâu thì chúng cũng chỉ là những
dạng, bộ phận của thế giới vật chất duy nhất, có những mối liên hệ chặt chẽ lẫn
nhau. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, người ta rút ra quan điểm
toàn diện, lịch sử, cụ thể trong nhận thức hay trong hoạt động thực
tiễn. Hoặc Lênin đã phát triển lý luận nhận thức và chỉ ra rằng: “Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách
quan”. Đây chính là quy luật về tư duy của con ngườitrong quá trình nhận thức
thế giới. Nó chỉ ra rằng, chính thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình nhận
thức của con người về thế giới xung quanh mình. Đến lượt nó, cũng chính thực tiễn
là tiêu chuẩn của chân lý, tiêu chuẩn đánh giá kết quả nhận thức. Cũng như phép
hùng biện ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, thuyết tiến hóa của Đác-uyn từ giữa thế
kỷ XIX…, đến nay vẫn có giá trị, vẫn không lỗi thời, phương pháp luận biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn có giá trị không thể thay thế, giúp con
người không phân biệt hệ tư tưởng, bước lên con đường đúng đắn trong nhận thức,
hiểu biết và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày.
(2)
Quan niệm duy vật về lịch sử: Lần đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại, Mác đã phát hiện ra
tính quy luật của sự phát triển xã hội loài người, điều mà Lênin đã nhận xét rằng,
đó là “thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Quan niệm duy vật về lịch
sử cho thấy lịch sử xã hội loài người vận động trên cơ sở những động cơ vật chất,
nhất là là động cơ lợi ích kinh tế. Quan niệm duy vật về lịch sử cũng xuất phát
từ trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất xã hội để lý giải về đời sống
tinh thần, những tư tưởng, văn hóa, điều kiện xã hội của quần chúng nhân dân và
vai trò của họ trong lịch sử. Hơn thế nữa, quan niệm duy vật về lịch sử xem xét
xã hội một cách toàn diện, chỉnh thể, trên nền của sự phát sinh, phát triển và
suy tàn của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong khi khẳng định vai trò quyết
định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, quan niệm duy vật về lịch
sử cũng nhấn mạnh vai trò tích cực, sự tác động trở lại của đời sống tinh thần
đối với đời sống vật chất, của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Mặc dù con
người không thể tùy tiện thay đổi hay xóa bỏ các quy luật của xã hội, nhưng
thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người có thể tác động để các quy luật
xã hội diễn ra nhanh hơn hay chậm đi. Nói chung, quan niệm duy vật về lịch sử
là cơ sở phương pháp luận giúp con người nhận thức xã hội, thực tiễn một cách
đúng đắn và còn nguyên giá trị, không thể lỗi thời cho dù trong điều kiện của Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra.
(3)
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội: Trên cơ sở nghiên cứu tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển
của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, sự phát triển của xã
hội loài người rất phong phú, đa dạng, nhưng đó là sự phát triển có quy luật.
Những yếu tố cốt lõi quy định tiến trình phát triển của xã hội chính là mối
quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất,quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng- những yếu tố căn bản tạo nên và quy định tính
chất, trình độ của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Và toàn bộ dòng
chảy lịch sử của nhân loại là quá trình lịch sử - tự nhiên với sự thay thế, tiếp
nối các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao (cộng sản nguyên thủy, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản). Nguyên nhân
khách quan, nội tại dẫn tới sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội
là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng. Cho dù sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trên
thế giới đều rất phong phú với những biểu hiện sinh động về đời sống vật chất,
tinh thần, tuy nhiên tất cả vẫn phải trải qua những nấc thang, những giai đoạn
tương đồng nhất định của hình thái kinh tế - xã hội. Đó có thể là sự tương đồng
về tuần tự từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội. Cũng có thể là sự
tương đồng về sự bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó nếu điều kiện cho
phép. Chính điều này đã dẫn tới tình trạng phát triển không đồng đều của các
dân tộc, quốc gia trên thế giới. Sự phát triển không đồng đềuthể hiện ở chỗ,
trong cùng một thời đại, những các quốc gia dân tộc không ở cùng một hình thái
kinh tế - xã hội như nhau, hoặc cùng một hình thái kinh tế - xã hội như nhau
nhưng ở mỗi quốc gia, dân tộc lại có những biểu hiện, đặc điểm khác nhau. Mặt
khác, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng, con người không thể chủ quan, tùy
tiện xóa bỏ quy luật khách quan của lịch sử, nhưng con người thông qua động cơ
lợi ích, ước muốn, có thể tác động, thúc đẩy quy luật đó diễn ra nhanh hay chậm.
Cùng với quan niệm duy vật về lịch sử, lý luận về hình thái
kinh tế - xã hội tạo thành cơ sở cho phương pháp luận khoa học trong
nhận thức thực tiễn xã hội, giúp cho con người, các lực lượng chính trị - xã hội
tiến bộ có thái độ, hành vi hợp lý trong việc thúc đẩy sự phát triển tích cực của
xã hội.
(4) Lý luận về giá trị
thặng dư: Nghiên cứu phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư, trên cơ sở đó,
ông đã vén lên bức màn bí mật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nguyên
nhân và cơ chế vận hành của sự bóc lột đối với công nhân, người làm thuê. Cho đến
nay, chưa có học giả nào có thể đưa ra một lý luận có thể khả dĩ bác bỏ được lý
luận về giá trị thặng dư của Mác. Cùng với lý luận về giá trị thặng dư, lý luận
về sở hữu, về khả năng xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất,
lý luận về sự ra đời tất yếu của sở hữu xã hội là những giá trị bền vững của
kinh tế - chính trị Mác - Lênin.Ngày nay, chính sự phát triển vũ bão của khoa học
- công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã không làm cho lý
luận về giá trị thặng dư, về mối quan hệ sở hữu, trở nên lỗi thời, mà ngược lại,
đã và đang minh chứng cho tính đúng đắn của những lý luận đó.
(5) Lý luận về chủ
nghĩa xã hội khoa học: Khi Mác và Ăngghen
nói về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì đó mới chỉ là dự báo trên những
dường nét cơ bản, đặc trưng nhất. Theo họ, chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ thay thế
chủ nghĩa tư bản dựa trên tính quy luật của sự phát triển thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và sự diệt vong của chủ
nghĩa tư bản là do tất yếu kinh tế quy định và đều tất yếu như nhau. Về sau, Lênin
là người trực tiếp vận dụng học thuyết của Mác và Ăngghen để tiến hành cách mạng
đánh đổi chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga và
Liên Xô.
Mác, Ăngghen và Lênin là
những thiên tài, nhưng họ cũng bị quy định bởi thời gian, không thể suy nghĩ và
giải đáp mọi vấn đề đặt ra trong tương lai. Nói như cách hiểu của Ăngghen, việc
dự báo càng sâu, càng chi tiết về tương lai cũng chính là càng rơi vào chủ
nghĩa duy tâm. Bởi thế, rất có thể một số nhận định, dự báo của các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin có thể bị vượt qua hoặc không còn phù hợp nữa sau
hàng trăm năm vận động, phát triển của loài người, tuy nhiên trong sự vận động
tổng thể theo quy luật của xã hội loài người, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin vẫn chưa thể bị thời gian vượt qua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét