Thứ Tư, 12 tháng 4, 2023

Những giá trị bền vững không thể phủ nhận của chủ nghĩa Mác – Lênin

         Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch đặt trọng tâm là chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt nam, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tìm mọi cách để xuyên tạc, hạ thấp và phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống, tinh thần xã hội Việt Nam. Vì vậy, tăng cường bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách trong công tác tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn” và “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ giữa thế kỷ XIX và được tiếp tục phát triển, trở thành một học thuyết có ảnh hưởng lớn nhất trong trong toàn bộ lịch sử khoa học của nhân loại. Sau gần 180 năm phát triển, dẫn dắt cả một hệ thống các quốc gia, dân tộc với hàng tỷ người dân hiện thực hóa mô hình xã hội mới, mang lại những thành tựu vĩ đại, đánh dấu một thời đại cách mạng chưa từng có trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định những giá trị bền vững không thể phủ nhận. Đó là:
(1) Phương pháp biện chứng duy vật: Phương pháp biện chứng duy vật Mác - Lênin là sự kết tinh toàn bộ những thành tựu tinh hoa của lịch sử phát triển tư tưởng duy vật của nhân loại. Nó cũng được bổ sung, làm phong phú thêm và minh chứng bởi những thành tựu khoa học lớn của thời đại Mác, Ăngghen và Lênin sống, cũng như nhiều thành tựu khoa học của thời đại ngày nay. Phương pháp biện chứng Mác - Lênin xuất phát từ những nguyên lý, quy luật và những mối quan hệ cơ bản của tự nhiên và xã hội. Vì thế, một khi những quy luật đó còn còn phản ánh đúng bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy của con người thì phương pháp biện chứng duy vật còn có giá trị, còn là công cụ nhận thức của con người. Ví dụ, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho rằng, toàn bộ thế giới thống nhất trong tính vật chất và cho dù các sự vật, hiện tượng có đa dạng, phong phú, phức tạp đến đâu thì chúng cũng chỉ là những dạng, bộ phận của thế giới vật chất duy nhất, có những mối liên hệ chặt chẽ lẫn nhau. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, người ta rút ra quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể  trong nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn. Hoặc Lênin đã phát triển lý luận nhận thức và chỉ ra rằng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”. Đây chính là quy luật về tư duy của con ngườitrong quá trình nhận thức thế giới. Nó chỉ ra rằng, chính thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình nhận thức của con người về thế giới xung quanh mình. Đến lượt nó, cũng chính thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, tiêu chuẩn đánh giá kết quả nhận thức. Cũng như phép hùng biện ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, thuyết tiến hóa của Đác-uyn từ giữa thế kỷ XIX…, đến nay vẫn có giá trị, vẫn không lỗi thời, phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn có giá trị không thể thay thế, giúp con người không phân biệt hệ tư tưởng, bước lên con đường đúng đắn trong nhận thức, hiểu biết và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày.
(2) Quan niệm duy vật về lịch sử: Lần đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại, Mác đã phát hiện ra tính quy luật của sự phát triển xã hội loài người, điều mà Lênin đã nhận xét rằng, đó là “thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Quan niệm duy vật về lịch sử cho thấy lịch sử xã hội loài người vận động trên cơ sở những động cơ vật chất, nhất là là động cơ lợi ích kinh tế. Quan niệm duy vật về lịch sử cũng xuất phát từ trình độ phát triển của nền sản xuất vật chất xã hội để lý giải về đời sống tinh thần, những tư tưởng, văn hóa, điều kiện xã hội của quần chúng nhân dân và vai trò của họ trong lịch sử. Hơn thế nữa, quan niệm duy vật về lịch sử xem xét xã hội một cách toàn diện, chỉnh thể, trên nền của sự phát sinh, phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong khi khẳng định vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, quan niệm duy vật về lịch sử cũng nhấn mạnh vai trò tích cực, sự tác động trở lại của đời sống tinh thần đối với đời sống vật chất, của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Mặc dù con người không thể tùy tiện thay đổi hay xóa bỏ các quy luật của xã hội, nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người có thể tác động để các quy luật xã hội diễn ra nhanh hơn hay chậm đi. Nói chung, quan niệm duy vật về lịch sử là cơ sở phương pháp luận giúp con người nhận thức xã hội, thực tiễn một cách đúng đắn và còn nguyên giá trị, không thể lỗi thời cho dù trong điều kiện của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra.
(3) Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội: Trên cơ sở nghiên cứu tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, sự phát triển của xã hội loài người rất phong phú, đa dạng, nhưng đó là sự phát triển có quy luật. Những yếu tố cốt lõi quy định tiến trình phát triển của xã hội chính là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất,quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng- những yếu tố căn bản tạo nên và quy định tính chất, trình độ của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Và toàn bộ dòng chảy lịch sử của nhân loại là quá trình lịch sử - tự nhiên với sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao (cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản). Nguyên nhân khách quan, nội tại dẫn tới sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cho dù sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới đều rất phong phú với những biểu hiện sinh động về đời sống vật chất, tinh thần, tuy nhiên tất cả vẫn phải trải qua những nấc thang, những giai đoạn tương đồng nhất định của hình thái kinh tế - xã hội. Đó có thể là sự tương đồng về tuần tự từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội. Cũng có thể là sự tương đồng về sự bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó nếu điều kiện cho phép. Chính điều này đã dẫn tới tình trạng phát triển không đồng đều của các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Sự phát triển không đồng đềuthể hiện ở chỗ, trong cùng một thời đại, những các quốc gia dân tộc không ở cùng một hình thái kinh tế - xã hội như nhau, hoặc cùng một hình thái kinh tế - xã hội như nhau nhưng ở mỗi quốc gia, dân tộc lại có những biểu hiện, đặc điểm khác nhau. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng, con người không thể chủ quan, tùy tiện xóa bỏ quy luật khách quan của lịch sử, nhưng con người thông qua động cơ lợi ích, ước muốn, có thể tác động, thúc đẩy quy luật đó diễn ra nhanh hay chậm. Cùng với quan niệm duy vật về lịch sửlý luận về hình thái kinh tế - xã hội tạo thành cơ sở cho phương pháp luận khoa học trong nhận thức thực tiễn xã hội, giúp cho con người, các lực lượng chính trị - xã hội tiến bộ có thái độ, hành vi hợp lý trong việc thúc đẩy sự phát triển tích cực của xã hội.
(4) Lý luận về giá trị thặng dư: Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư, trên cơ sở đó, ông đã vén lên bức màn bí mật của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nguyên nhân và cơ chế vận hành của sự bóc lột đối với công nhân, người làm thuê. Cho đến nay, chưa có học giả nào có thể đưa ra một lý luận có thể khả dĩ bác bỏ được lý luận về giá trị thặng dư của Mác. Cùng với lý luận về giá trị thặng dư, lý luận về sở hữu, về khả năng xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, lý luận về sự ra đời tất yếu của sở hữu xã hội là những giá trị bền vững của kinh tế - chính trị Mác - Lênin.Ngày nay, chính sự phát triển vũ bão của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã không làm cho lý luận về giá trị thặng dư, về mối quan hệ sở hữu, trở nên lỗi thời, mà ngược lại, đã và đang minh chứng cho tính đúng đắn của những lý luận đó.
(5) Lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học: Khi Mác và Ăngghen nói về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì đó mới chỉ là dự báo trên những dường nét cơ bản, đặc trưng nhất. Theo họ, chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản dựa trên tính quy luật của sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản là do tất yếu kinh tế quy định và đều tất yếu như nhau. Về sau, Lênin là người trực tiếp vận dụng học thuyết của Mác và Ăngghen để tiến hành cách mạng đánh đổi chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga và Liên Xô.
Mác, Ăngghen và Lênin là những thiên tài, nhưng họ cũng bị quy định bởi thời gian, không thể suy nghĩ và giải đáp mọi vấn đề đặt ra trong tương lai. Nói như cách hiểu của Ăngghen, việc dự báo càng sâu, càng chi tiết về tương lai cũng chính là càng rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Bởi thế, rất có thể một số nhận định, dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin có thể bị vượt qua hoặc không còn phù hợp nữa sau hàng trăm năm vận động, phát triển của loài người, tuy nhiên trong sự vận động tổng thể theo quy luật của xã hội loài người, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn chưa thể bị thời gian vượt qua.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét