Các dân tộc
thiểu số đã được bình đẳng về chính trị
Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, công
tác dân tộc ở nước ta đã đạt những thành tựu quan trọng; tất cả mọi công dân
không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giới đều bình đẳng về chính trị,
bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống và bình đẳng trước pháp luật. Đại
đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố, tôn trọng. các dân tộc tôn trọng,
đoàn kết giúp đỡ cùng phát triển, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Đồng bào các dân tộc thiểu số
được hưởng các quyền bình đẳng với dân tộc Kinh. Trong những năm qua, số lượng đại biểu là
người dân tộc thiểu số trong các khoá quốc hội luôn chiếm tỷ lệ cao hơn so với
người dân tộc thiểu số của cả nước. Ở địa phương, người dân tộc thiểu số cũng
chiếm tỷ lệ cao hơn trong tham gia hội đồng nhân dân. Nhiều người dân tộc thiểu
số đã và đang giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan lãnh đạo, các cơ
quan quyền lực của đất nước. Quốc hội khóa 14 có 86 đại biểu quốc hội là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 17,4%; 49/53 dân tộc thiểu số có đại biểu trong Quốc hội; Đại biểu trong
hội đồng nhân dân các cấp khoảng 20%. Nhiều lãnh đạo Đảng, Nhà nước là người
dân tộc thiểu số như Tổng bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, ban bí thư, ủy viên
Trung ương Đảng, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Bộ trưởng, Bí thư,
Chủ tịch tỉnh,...
Kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, bộ mặt đô thị, nông thôn vùng dân tộc được cải thiện
rõ rệt
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, bộ mặt đô thị,
nông thôn vùng dân tộc được cải thiện rõ rệt.Những năm qua quy mô, mạng lưới
trường lớp ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi được củng cố, phát triển từ mầm
non, phổ thông đến cao đẳng, đại học. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội
trú, bán trú được phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh, thành phố, tạo điều kiện cho
con em dân tộc thiểu số được học tập, ăn ở tại trường. Triển khai đề án củng cố
các trường phổ thông dân tộc nội trú, đã có nhiều lớp học, phòng phục vụ học
tập được nâng cấp và đầu tư xây dựng mới. Hiện nay có 316 trường phổ thống dân
tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành phố với 109.245 học sinh, trong đó có khoảng 40 %
số truwngf được công nhân đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục ở các trường
phổ thông dân tộc nội trú ngày càng được nâng lên qua từng năm học. Trường phổ
thông dân tộc bán trú đã được thành lập ở 28 tỉnh, với quy mô 1.097 trường và
185.671 học sinh. Tỷ lệ học sinh bán trú hoàn thành cấp tiểu học đạt 98,9%; cấp
trung học cơ sở đạt 92%. Có 15,2% số trường phổ thông dân tộc bán trú được công
nhận đạt chuẩn quốc gia.
Cùng với đó, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo phát
triển sản xuất, đẩy nhanh công tác xóa đói giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, miền núi. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy thoái, tình hình
đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng nhà nước đã ưu tiên bố trí nguồn lực kết hợp
với nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp và địa phương
để hỗ trợ, đầu tư phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Chỉ tính giai đoạn 2011-2015, Nhà nước đã đầu tư khoảng 135,000 tỉ đồng (tăng
gấp 3 lần so với 5 năm trước)[1])
giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu. Nhờ đó sản xuất hầu hết các địa bàn vùng
dân tộc thiểu số và miền núi đều phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông
nghiệp. Đồng bào đã thay đổi phương thức canh tác truyền thống, áp dụng tiến bộ
khoa học - kỹ thuật, giống mới có chất lượng, năng xuất cao. Các huyện, xã đều
có điển hình sản xuất giởi; một số vùng đã có sản xuất hang hóa với các sản
phẩm chủ lực như: cà phê, hồ tiêu, cao su (ở các tỉnh Tây Nguyên); chè, lúa,
gạo, cây ăn quả (ở miền núi phía Bắc); cây ăn quả (ở các tỉnh Tây nam Bộ). Việc
làm và thu nhập của người dân tăng lên. Nhờ đó tốc độ tang trưởng kinh tế của
vùng dân tộc thiểu số và miền núi khá cao; giai đoạn 2016-2018 đạt bình quân
07% và tăng dần hằng năm. Đời sống vật chất của đồng bào các dân tộc thiểu số
ngày càng được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hang năm, bình quân toàn
vùng dân tộc thiểu số và miền núi giảm 4%/năm trở lên; các huyện nghèo giảm
05%-06%/năm trở lên. Giai đoạn 2015-2019, đã có 8/64 huyện nghèo theo Nghị
quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27-12-2008 của Chính phủ thoát nghèo; 14/30 huyện
nghèo hưởng cơ chế theo nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27-12-2008 của Chính
phủ thoát khỏi tình trạng khó khăn; 124/2.139 xã, 1.322/20.176 thôn đặc biệt
khó khăn ra khỏi diện đầu tư của chương trình 135. Từ năm 2013 -2020, bộ mặt
nông thôn cả nước nói chung và vùng dân tộc thiểu số nói riêng được đổi thay rõ
rệt; thu nhập và điều kiện sống của người dân được cải thiện và nâng cao. Đồng
thơi, chính phủ tập trung xây dựng hang vạn công trình nước sạch, trường, lớp
học, trạm y tế, nhà văn hóa, mạng lưới chợ, tạo thuận lợi, có ý nghĩa quyết
định đến sự phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Nhiều
trường lớp học, trạm y tế đã được xây dựng mới. Đến nay 100% huyện có đường đến
trung tâm huyện; 98,4 xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% xã và 97,2% thôn,
bản có điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng điện đạt 93,9%; 100%
xã có trường tiểu học và trung học cơ sở; 99,7% xã có trường mầm non, mẫu giáo;
99,3% xã có trạm y tế; 65,8% số xã và 76,7% số thôn có nhà văn hóa hoặc nhà
sinh hoạt cộng đồng
Văn hóa- xã hội phát triển; văn hóa truyền
thống được bảo tồn, tiếng nói, chữ viết, tôn giáo tín ngưỡng của các dân tộc
thiểu số được tôn trọng
Văn hóa các dân tộc tiếp tục được
giữ gìn và phát huy. Thiết chế văn hóa cơ sở nhiều nơi được củng cố gắn với
phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới. Đời sống tinh thần của đồng bào các
dân tộc thiểu số được nâng lên. Mạng lưới thông tin, phát thanh, truyền hình
phủ rộng khắp, giúp người dân tiếp cận được nhiều hơn chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đời sống chính trị- xã hội của đất
nước, tiến bộ khoa học- kỹ thuật góp phần quan trọng mở mang dân trí. Các giá
trị văn hóa dân tộc được bảo tồn, phát huy góp phần làm phng phú, sống động hơn
văn hóa Việt Nam. Nhiều di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc được Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận (không gian văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên) và một số di sản được công nhận là di sản quốc gia
(sử thi Đam San- Tây Nguyên, Hát then - dân tộc Tầy, Nùng),v.v...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét