Điều có ý
nghĩa quyết định để đấu tranh chống
các luận điệu sai trái, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng là Đảng, Nhà nước
phỉ lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật, chống
quan liêu, tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả, khắc phục những yếu kém, khuyết điểm;
chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diến biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.Tổ
chức thực hiện thắng lợi, có hiệu quả sự nghiệp đổi mới đất nước là vũ khí mạnh
mẽ nhất, có tính thuyết phục nhất để bác bỏ các quan điểm sai trái, luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Công cuộc đổi
mới do Ðảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào năm 1986 đã mở ra bước ngoặt quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên con đường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Là một nước nghèo, vừa thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa
thực dân, đế quốc, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cũng như nhiều
nước khác có lý do để áp dụng mô hình và cách làm - một thời có hiệu quả của
Liên Xô trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước - mô hình kinh tế kế
hoạch tập trung.
Trên thực tế, mô hình, cách làm này đã đáp ứng được yêu cầu
của cách mạng Việt Nam trong điều kiện đất nước có chiến tranh (1954-1975 ở
miền Bắc). Nhưng khi thực tiễn đã đổi thay, mô hình này dần dần bộc lộ những
khuyết tật của nó, mà biểu hiện rõ nhất là việc các chủ thể cầm quyền phạm phải
những sai lầm, bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội không tôn trọng quy luật khách quan, không chú ý đến tính
đặc thù trong phương thức và con đường phát triển mang tính dân tộc và thời đại.
Nhận ra sự thật của những vấp váp, sai lầm ấy, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986)
đã kịp thời phát hiện: “Trong nhận thức cũng như trong hành động chúng ta chưa
thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đang tồn tại trong
một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất”.
Để khắc phục những khuyết điểm ấy, Đảng đã chỉ rõ: “Quá trình
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa nền kinh tế
còn nhiều tính tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa... việc sử dụng đầy đủ
và đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân
là một tất yếu khách quan... việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ đòi hỏi
sản xuất phải gắn với thị trường”.
Có thể nói, đó là bước khởi đầu quan trọng trong việc chuyển
đổi tư duy kinh tế của Đảng sang hướng xây dựng, phát triển kinh tế thị trường.
Việc xem đổi mới, trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, qua
thực tiễn cho thấy đây là cách tiếp cận chính xác - khoa học của Đảng ta, là
khâu đột phá về nhận thức luận, phương pháp luận của chủ thể lãnh đạo công cuộc
đổi mới.
Theo tinh thần đó, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước, để làm tròn vai trò nhân tố lãnh đạo, đòi hỏi Đảng phải giải quyết hàng
loạt vấn đề liên quan đến việc xác lập một mô hình phát triển và triển khai có
hiệu lực, hiệu quả mô hình trong thực tiễn.
Nắm vững phép biện chứng duy vật, biết kế thừa những thành
tựu của nhân loại trong tiến trình phát triển, biết sử dụng những hình thức
trung gian quá độ để tìm ra những hình thức, bước đi phù hợp với điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hóa của dân tộc mình, Đảng đã tạo lập và hoàn thiện dần mô
hình phát triển mới; đồng thời tìm được những phương thức huy động các nguồn
lực để từng bước hiện thực hóa mô hình đó.
Mô hình phát triển đó được khái quát cô đọng trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) với 6
đặc trưng cơ bản, sau đó tiếp tục được cụ thể và hoàn thiện thêm một bước trong
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), và hiện nay đang được tiếp tục triển
khai thực hiện.
Cả về lý luận cũng như trên thực tế cho thấy, công cuộc đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo thực hiện, về cơ bản đã hội tụ trong đó biện
chứng của quá trình nhận thức và vận dụng các khả năng của sự phát triển vì sự
phát triển bền vững của quốc gia dân tộc trong thế giới có nhiều đổi thay.
Trong đó, giải phóng con người, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người,
vì con người là tư tưởng bao trùm.
Mô hình đó vừa bao hàm tính mục tiêu, vừa phản ánh
nhịp điệu, bước đi, phương thức để hiện thực hóa các mục tiêu cụ
thể, trong từng thời kỳ, giai đoạn với những nguồn lực cụ thể. Nhìn
tổng thể, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang tập
trung tạo lập và phát triển đã hàm chứa trong đó các trụ cột hay động lực
cho sự phát triển chung mà thế giới đương đại đều hướng tới là: Nền kinh tế
thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa); thể chế chính trị dân chủ (xã
hội chủ nghĩa) mà cốt lõi là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trọng
dân, gần dân và, xã hội công dân với những thiết chế tổ chức để bảo đảm “dân
là chủ, dân làm chủ”.
Có thể khái quát rằng, khởi xướng đổi mới, đặc biệt với việc
“lắng nghe dân”, hiểu dân, dũng cảm nhận ra sai lầm trong nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã thực sự
từng bước nâng tầm cả về trí tuệ và bản lĩnh chính trị; cả về năng lực hoạch
định quyết sách và phương thức tổ chức thực hiện các quyết sách đó.
Đó là cơ sở khách quan để khẳng định: Đổi mới là một giai
đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự
trưởng thành về mọi mặt của Đảng, của nhân dân ta. Những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới đã tạo nên cơ đồ và vị thế mới để đất nước chủ
động hội nhập phát triển.
Nếu như giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng
GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng GDP
đạt 7%. Tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Nghị quyết Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Kinh tế nước ta duy
trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 6%/năm)”[1].
Năm 2020, trong bối cảnh dịch COVID-19 tác động mạnh đến nước
ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội. “Kinh tế thế giới suy thoái, tăng
trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong
những nên kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới”[2].
Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, vượt qua các thử
thách và khó khăn to lớn, tiến hành công cuộc đổi mới trên mọi mặt: kinh tế,
chính trị, xã hội... đến nay, Việt Nam có đủ cơ sở để khẳng định rằng đổi mới
đất nước là sự lựa chọn đúng đắn, đã đặt Việt Nam vào quỹ đạo phát triển mới về
chất, phù hợp với xu thế của thời đại và với ý nguyện của nhân dân. “Với tất cả
sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rẳng: đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[3]
Công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Ðại hội VI đến nay là một công trình
sáng tạo lớn. Trải qua 35 năm phấn đấu bền bỉ, phải vượt qua biết bao khó khăn
thử thách, dù trong hoàn cảnh thời cơ và nguy cơ đan xen nhau, có lúc nguy cơ
lấn át cả thời cơ, công cuộc đổi mới đã giành được những thắng lợi to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Bộ mặt đất nước có sự thay đổi cơ bản và toàn diện.
Trong thời gian tới, với hướng đi đúng đắn, hợp quy luật, ý
chí vươn lên mãnh liệt, tinh thần đổi mới sáng tạo và quyết tâm chính trị cao,
đất nước ta nhất định sẽ lập nên kỳ tích phát triển mới, sẽ bước vào một giai
đoạn phát triển mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, tập 1, tr.20.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, tập 1, tr.23.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, tập 1, tr.25.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét