Thứ Tư, 22 tháng 11, 2023

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng

 Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh đạo đức là cái gốc của con người trong mọi thời đại, mà còn đưa ra khái niệm đạo đức mới, với nội dung mới, phản ánh đạo đức ở tầm cao hơn, rộng hơn, sâu sắc hơn, đó là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng làm nên sức mạnh của Đảng và là một nhân tố quan trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức bắt nguồn từ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó còn là sự vận dụng và phát triển sáng tạo đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; sự tiếp thu và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại mà Người đã tiếp cận được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách, vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đối với cách mạng Việt Nam, sự đòi hỏi về đạo đức còn cao hơn, bởi cách mạng Việt Nam phải tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt: Tiến hành ở một nước nông nghiệp lạc hậu và phải đương đầu với các thế lực thù địch, phản động nhất, xảo quyệt nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng nhất định sẽ thành công, nhưng thành công nhanh hay chậm, mức độ thành công lớn hay nhỏ... tùy thuộc vào đạo đức cách mạng của những người làm cách mạng, trình độ giác ngộ cách mạng và ý chí chiến đấu của quần chúng nhân dân. Người nhấn mạnh: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(2). “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(3).

Đề cao vai trò của tư tưởng, tinh thần, đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Có người nói: Lúc này mà xem trọng tinh thần tư tưởng là không duy vật biện chứng. Các cô, các chú có biết vì sao mà cách mạng của ta thành công không? Vì tinh thần. Lúc bấy giờ thực dân, phong kiến có công an, quân đội, cảnh sát, chính quyền - tất cả, Đảng ta chỉ có hai bàn tay không. Vì sao ta thành công? - Vì ta đoàn kết! Lấy gì mà đoàn kết? Lấy tinh thần!”(4).

Với tinh thần ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người không ngừng giáo dục những phẩm chất đạo đức cách mạng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đạo đức cách mạng, một mặt, là một yêu cầu tất yếu của sự nghiệp cách mạng trước đây cũng như hiện nay; mặt khác, là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của những người lãnh đạo. Trong lịch sử các nước phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, những vị vua nắm quyền trị nước cũng như những lãnh tụ dân tộc muốn lãnh đạo được nhân dân và được nhân dân tin theo, đều phải là những người gương mẫu về đạo đức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Bản thân Người nêu cao tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng - những phẩm chất đạo đức cao đẹp, trong đó bao hàm nhiều giá trị mới, tích cực và tiến bộ. Người quan niệm đạo đức cách mạng là nền tảng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của người cách mạng. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước, khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần chất phác, giản dị, khiêm tốn; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Người chỉ rõ: “Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”(5).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò, tác dụng cũng như những biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng và chứng thực điều đó qua tấm gương của những chiến sĩ cộng sản tiền bối đã làm nên truyền thống vẻ vang của Đảng, của cách mạng: “Trong Đảng ta, các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập”(6).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và tài năng, Người khẳng định đạo đức là gốc, quyết định sức mạnh tinh thần to lớn của con người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc; nhờ đó mà đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng, góp phần to lớn vào sự thành công của cách mạng nước ta. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức nói chung cũng như đạo đức cách mạng nói riêng cho mọi người, trước hết là cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. 

Tựu trung lại, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng gồm những điểm cơ bản sau đây:

Một là, phẩm chất trung với nước, hiếu với dân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ quan niệm đạo đức cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong xã hội phong kiến phương Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, cao rộng hơn là “trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(7). Chỉ dẫn đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà còn lâu dài mãi mãi về sau.

Hai là, tình yêu thương con người. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tình yêu thương con người rất toàn diện và độc đáo. Người xác định tình yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp nhất trong tình cảm đạo đức của loài người. Người luôn dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng bào, đồng chí rất bao la, sâu rộng và toàn diện, không phân biệt vùng, miền, trẻ, già, trai, gái..., hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt là đối với những người phạm phải sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác”(8). Chính vì vậy, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn Đảng: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(9); mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến tình yêu thương con người.

Ba là, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. 

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, sáng tạo, có kế hoạch, có năng suất cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to. Kiệm còn có nghĩa là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước, của nhân dân; phải trong sạch, không tham lam, không tham địa vị, không ham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, nhờ đó mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn; đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình; đối với người thì không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc; đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Chí công vô tư tức là “làm việc vì sự nghiệp chung, đặt lợi ích công lên trên hết, trước hết; không tư lợi, vụ lợi, không vì lợi ích riêng”(10). Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình phải đi sau, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi người, nhất là những người có vị trí ảnh hưởng đối với xã hội, cộng đồng, phải luôn phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và thực hành theo bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính; thiếu một đức tính cũng không thể thành người. Bởi, “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/Thiếu một mùa, thì không thành trời/Thiếu một phương, thì không thành đất/Thiếu một đức, thì không thành người”(11).

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. 

Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một câu thơ “Quan sơn muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em!(12), là tinh thần đoàn kết giữa những người cộng sản với các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động trên thế giới mà Người đã dày công vun đắp bằng thực tiễn hoạt động cách mạng của mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Đó cũng là tinh thần đoàn kết, hợp tác và hữu nghị của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, vì mục tiêu hòa bình, công lý, tiến bộ xã hội và độc lập dân tộc.

Đánh giá cao vai trò của đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ phải vừa có tài, vừa có đức, trong đó, đức là gốc. Chính Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, là kết tinh tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất của người Việt Nam và những phẩm chất đạo đức cộng sản cao quý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những quy tắc đạo đức mà Người nêu ra đã trở thành vũ khí tinh thần mạnh mẽ của cả dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới. Trong suốt 53 năm thực hiện Di chúc của Người, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng tiếp tục là ngọn đuốc soi đường, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của đất nước ta, nhất là trong bối cảnh mới hiện nay.

LHQ-ST

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét