Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa
XIII, “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” nhấn mạnh, đại đoàn kết
toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt
của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc… Vì vậy, cuốn sách “Phát huy truyền thống đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” của
đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là cẩm nang lý luận, thực tiễn quý giá, định
hướng phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn
hiện nay.
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, sức mạnh đoàn
kết là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Trên cương vị là người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng luôn thấu hiểu tầm quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, luôn quán triệt trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu
của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ
gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Các bài
viết trong cuốn sách là sự hiện thực hóa tư tưởng ấy, thể hiện tầm tư duy lý
luận sâu rộng, biện chứng, thực tiễn về đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như
trách nhiệm của người đứng đầu Đảng, Nhà nước đối với nhân dân, với sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, cuốn
sách của Tổng Bí thư sẽ góp phần quan trọng nâng cao nhận thức, tạo sự đồng
thuận trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu
nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Cuốn sách của Tổng Bí thư nhấn mạnh vai trò, tầm quan
trọng của đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh nội sinh, nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dân tộc
Việt Nam là lịch sử dựng nước gắn liền với lịch sử đấu tranh giữ nước. Chính
trong hoàn cảnh phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm cũng như
chống chọi với thiên tai, hiểm họa đã hun đúc nên con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam một truyền thống vô cùng quý báu, đó là tinh thần đoàn kết. Chỉ có
đoàn kết mới tạo nên sức mạnh để có thể “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch
nhiều”, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để dân tộc mãi trường tồn.
Đoàn kết là một trong những bài học mang giá trị lịch sử, là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá trình dựng nước, giữ nước; quá trình đấu tranh
cách mạng và thực hiện công cuộc đổi mới đất nước của Đảng và dân tộc ta. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta
đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta
không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”; “Không đoàn kết thì suy và mất. Có
đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ
gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”. Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc, từ thực tiễn của Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc, là cội
nguồn sức mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt
Nam”. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là một
công việc hết sức hệ trọng, to lớn và vô cùng khó khăn. Nhiệm vụ đó chỉ có thể
thành công khi quy tụ được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Nhờ tinh
thần đoàn kết muôn người như một đã tạo thành sức mạnh vô địch, giúp chúng ta
chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành và bảo
vệ vững chắc độc lập của Tổ quốc.
Trong công cuộc xây dựng xã hội mới, đặc biệt trong
thời kỳ đổi mới đất nước, việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, để xây dựng đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày nay, tạo tiền đề vững chắc cho nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc. Thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới tiếp tục khẳng định mạnh mẽ
đường lối đúng đắn của Đảng ta, trong đó có đường lối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh bài học này trong
những lần phát biểu của mình: Tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, nỗ lực phấn
đấu, chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta theo tinh thần
“Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông
suốt”. Đây không chỉ là tinh thần đoàn kết, thống nhất mà còn là bài học về ý
chí, hành động phải triệu người như một của cả hệ thống chính trị, các cấp, các
ngành và nhân dân ta ở mọi miền Tổ quốc trong tổ chức thực hiện đường lối của
Đảng, nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây cũng
chính là sự phát triển nhận thức trong quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn,
là tư duy và tầm nhìn của Đảng ta gần 94 năm qua: “Đoàn kết là truyền
thống cực kỳ quý báu, là đường lối chiến lược của Đảng; là cội nguồn sức mạnh,
là giá trị cốt lõi và động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết
định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong mọi thời kỳ”.
Từ vai trò, tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc,
Tổng Bí thư đã khái quát ngắn gọn quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng
Cộng sản Việt Nam, giúp cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ,
hiểu thấu đáo tầm tư duy chiến lược của Đảng. Tổng Bí thư khẳng định, trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa, phát huy bản sắc
cội nguồn văn hóa và truyền thống của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta đã không ngừng đổi mới, phát triển tư duy lý luận về xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, thể hiện trong văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng: “Từ
chỗ, chỉ nói đoàn kết, rồi nói đại đoàn kết toàn dân,
rồi phát triển lên thành đại đoàn kết toàn dân tộc là những
cột mốc đánh dấu sự đổi mới và phát triển quan trọng về tư duy nhận thức và lý
luận đối với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta, theo chiều hướng
ngày càng mở rộng về biên độ, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ còn những
“xơ cứng” đến ngày càng cởi mở hơn”. Tổng Bí thư cũng khẳng định, điểm tương
đồng để quy tụ, khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chính
là: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc làm điểm
tương đồng”. Đây là mục tiêu lớn nhất, cũng là lợi ích chung lớn nhất của các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội; của mọi người dân, của toàn dân tộc. Chính nhờ
điểm tương đồng này đã và sẽ tiếp tục động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân,
huy động được mọi nguồn lực, tranh thủ mọi thời cơ, sự đóng góp của nhân dân để
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổng Bí thư cho rằng,
điểm tương đồng này nếu biết khơi dậy đúng cách sẽ có sức cuốn hút, lay động
lòng người, là lời hiệu triệu toàn dân, nhân lên lòng tự hào, tự tôn, ý chí của
cả dân tộc. Đây cũng chính là định hướng cho việc đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm thu hút,
tập hợp, đoàn kết các lực lượng xã hội trong khối đoàn kết thống nhất của toàn
dân tộc.
Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung
của đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã làm rõ nội hàm của đại đoàn kết toàn dân tộc: “Nền tảng vững chắc của
của đại đoàn kết dân tộc là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với
nhân dân, là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta; là sự
đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo
các tôn giáo khác nhau; giữa người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; là
đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên
thế giới”. Như vậy, đại đoàn kết toàn dân tộc là tổng hòa của các mối quan hệ
đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, giới, thành phần kinh
tế, các vùng, miền; giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, trên nền tảng của liên
minh công nhân - nông dân - trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; là đoàn kết
với bạn bè quốc tế. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải được thể hiện trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Với nội
dung toàn diện ấy, những kết quả trong xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam thời gian qua đã giúp chúng ta vững vàng vượt
qua những khó khăn, thách thức to lớn do tác động của mặt trái toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch
COVID-19, nhờ có tinh thần đoàn kết, cùng ý chí, quyết tâm cao, chúng ta không
những đã vượt qua đại dịch mà còn đạt được những thành tựu về phát triển kinh
tế - xã hội được bạn bè quốc tế ghi nhận. “Trong gian khó, tinh thần yêu nước,
nghĩa đồng bào, truyền thống “thương người như thể thương thân” của dân tộc ta
và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy và nâng lên
một tầm cao mới”.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội là nòng
cốt. Tổng Bí thư đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên:
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam,...
phải quán triệt tư tưởng “dân là gốc”, lấy đó làm nền tảng cốt lõi cho mọi hoạt
động, ở tất cả các cấp. Cuốn sách đã nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là
các cán bộ trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội phải
lấy “an dân làm cốt, lấy lợi ích của nhân dân làm trung tâm, xây dựng thế trận
lòng dân, phát huy sự đồng thuận của nhân dân”, sự chung sức, đồng lòng của
toàn dân, từ đó góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng phát triển, văn minh và
vững mạnh.
Để tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của
Đảng, Tổng Bí thư đã nêu ra những giải pháp cơ bản mang tính hệ thống. Đó là:
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững sự đoàn
kết, thống nhất trong Đảng làm hạt nhân cho đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết
quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn coi việc giữ gìn đoàn kết thống nhất
trên cơ sở đường lối chính trị và các nguyên tắc xây dựng Đảng là sinh mệnh của
Đảng; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia
rẽ, bè phái, gây mất đoàn kết trong Đảng; “đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng
phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng”(12). Đây là
điều kiện tiên quyết để quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân, bởi chỉ có một
Đảng trong sạch, vững mạnh thì nhân dân mới thật sự tin tưởng, đoàn kết, ủng
hộ, phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp chung dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bản thân
Tổng Bí thư là một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, một nhà lãnh đạo
gần dân, trọng dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Hình ảnh dung
dị, sự quan tâm, tình cảm yêu thương, đồng cảm của người lãnh đạo cao nhất của
Đảng, Nhà nước ta với các tầng lớp nhân dân đã để lại ấn tượng sâu sắc, làm lay
động lòng người; có tác dụng to lớn cổ vũ mọi giai tầng luôn nêu cao tinh thần
yêu nước, tham gia tích cực vào các phong trào thi đua, các cuộc vận động; phát
huy mọi nguồn lực, khả năng sáng tạo, đóng góp vào sự phát triển chung của đất
nước.
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách,
pháp luật phù hợp với thực tiễn, với xu thế của thời đại, với nhu cầu, lợi ích
chính đáng của nhân dân. Tổng Bí thư đánh giá cao về vị trí, vai trò của các
giai tầng, các cá nhân tiêu biểu trong các giới đồng bào, các dân tộc, các tôn
giáo, người Việt Nam ở nước ngoài,. Đây là nguồn lực to lớn, tạo thành sức mạnh
để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật phải
hướng vào khơi dậy, phát huy mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của mỗi
người Việt Nam; động viên nhân dân phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, tích
cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Những quan điểm của Tổng Bí thư
về xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, doanh
nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, tôn
giáo, người Việt Nam ở nước ngoài là những định hướng quan trọng cho việc xây
dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật, nhằm củng cố, phát huy khối
đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Với vai trò quan trọng trong vận động, đoàn kết các
tầng lớp nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cần tiếp
tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ. Tổng Bí thư yêu cầu Mặt trận Tổ quốc phải phát huy vai trò cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân; đi sâu, đi sát vào các tầng lớp nhân dân để nắm
được những nhu cầu chính đáng của họ, từ đó thực hiện tốt vai trò bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tạo môi trường thuận lợi để nhân
dân phát huy quyền làm chủ, tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, lấy con người làm trung tâm, chủ thể, nguồn lực, động lực chủ
yếu, là mục tiêu của đại đoàn kết toàn dân tộc trong tổ chức và hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội; xây
dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội
quần chúng có năng lực, uy tín, tâm huyết, trách nhiệm, hết lòng vì công việc
chung…
Cuốn sách “Phát huy truyền thống đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” của
đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là tài liệu quý về xây dựng, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Cuốn sách giúp cho cán bộ trong hệ thống
chính trị, đảng viên và nhân dân hiểu rõ, nắm vững đường lối, chủ trương của
Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc - sức mạnh nội sinh, nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cuốn sách đặc biệt có ý nghĩa đối với lực
lượng Công an nhân dân Việt Nam bởi thực tế đã chỉ rõ, thành công trong thực
hiện sứ mệnh bảo đảm an ninh, trật tự của lực lượng công an bắt nguồn từ sự
đoàn kết thống nhất trong tổ chức. Đoàn kết, thống nhất là phẩm chất, đồng thời
còn là nét đặc sắc trong bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của Công an
nhân dân Việt Nam, là sức mạnh nội sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà
Đảng và nhân dân giao phó. Hiện nay, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế của nước ta đang diễn ra trong bối cảnh tình hình thế
giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch tiếp
tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, trong đó có Công an nhân
dân Việt Nam. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải hết sức quan tâm xây dựng lực
lượng Công an nhân dân Việt Nam thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, của Bộ
Chính trị khóa XIII. Muốn vậy, điều quan trọng hàng đầu là phải giữ vững sự
đoàn kết thống nhất trong Công an nhân dân Việt Nam, mà cốt lõi là sự đoàn kết
thống nhất của tổ chức đảng trong công an. Đây được xem là một vấn đề có tính
nguyên tắc trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam./.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét