Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề lý luận và
thực tiễn cơ bản, có nội dung rộng lớn, phong phú, phức tạp. Trên cơ sở vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, Đảng ta luôn bổ sung, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhận thức về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Vấn đề này một lần nữa được làm sâu sắc hơn trong tác phẩm “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin
vào điều kiện cụ thể của đất nước, từng bước xây dựng, hoàn thiện lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có quan
niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trước đây quan niệm về
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn bộc lộ một số hạn chế; về
cơ bản chưa đề ra được cách thức, biện pháp của con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hệ quả, kinh tế - xã hội rơi vào khủng
hoảng ngày càng trầm trọng vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ
XX.
Để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới (năm 1986), mà trước hết là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Chính vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991)
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
lần đầu tiên Đảng ta phác thảo ra mô hình và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Qua các kỳ Đại hội sau đó, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển,
làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực
hóa”. Vấn đề này một lần nữa được làm sáng rõ, sâu sắc hơn trong tác phẩm “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Trước hết, nội dung trong tác phẩm đã khẳng định tính
tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là “độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng
Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh… Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của
Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách
quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”.
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và bằng cách nào để
đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam là một vấn đề không hề
đơn giản cả về lý luận và thực tiễn, “đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn
trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm
và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam”. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam
đang phấn đấu xây dựng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Cho đến
nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng
ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt
Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho rằng, để chuyển từ hình
thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, lạc hậu lên hình thái kinh tế - xã hội mới
cao hơn phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ quá độ dài hay ngắn
tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, cách thức, biện pháp đi lên xây dựng chế độ
mới của từng quốc gia - dân tộc. Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam như thế nào? Đây là vấn đề không đơn giản, bởi trước đổi mới chúng ta
còn nhiều hạn chế trong nhận thức và hành động, muốn đốt cháy giai đoạn. Tổng
kết thực tiễn cách mạng, nhất là thực tiễn của công cuộc đổi mới xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
chỉ rõ: “Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng
đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục
tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn
mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ
yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự
tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa
tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...”. Vì vậy, “quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì
nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục
năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm
cách chống phá nên càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa;
bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với
chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn
minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương
nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa
học, phát triển”.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta phải thực hiện đồng thời các phương hướng, nhiệm vụ:
Một là, “đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức”. Đây là nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ, chuẩn bị đầy đủ điều kiện
kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội. Để chăm lo, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân trước hết phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
trong đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là
nội dung cốt lõi để thực hiện mục tiêu đó, nhất là trong điều kiện chịu tác
động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thì vai trò của kinh tế tri thức
ngày càng quan trọng. Để thực hiện mục tiêu này, phải phát triển nguồn nhân
lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa dựa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo,
từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước ta trở thành nước đang phát
triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở
thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Hai là, “phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cùng với quá trình
phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng đúng, đầy đủ, phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam, thì nhận thức về phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa cũng từng bước được hình thành và phát triển. Theo
đó, “đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là
thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Theo nhận thức của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển
của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu,
tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn chỉ rõ, nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát
triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo
động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác
và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản
lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và
lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội”.
Ba là, “xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Xây dựng nền văn
hóa và con người xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong
thời kỳ quá độ lên xây dựng chế độ mới. Xóa bỏ những tàn dư, yếu tố văn hóa lạc
hậu cản trở sự phát triển của xã hội; giữ gìn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
nhấn mạnh: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị
tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành
tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành
mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ
tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá
trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa
với lợi ích chính đáng của con người. Vì vậy, trong phát triển kinh tế phải gắn
với nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Theo đó,
“phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã
hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có
nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công
bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính
sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã
hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm
giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những
người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu
cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
Bốn là, “bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, phương châm đặt ra cần thực hiện là phải bảo đảm tăng cường
quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đây là điều kiện góp phần
ổn định chính trị, xã hội để phát triển đất nước trong điều kiện đổi mới và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Năm là, “thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Thực
hiện đường lối đối ngoại rộng mở trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân, vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc và lợi ích của toàn nhân loại.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện trên tất cả lĩnh vực của đời
sống xã hội, để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo và cầm
quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể
chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên
cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế
giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không
thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời
cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”.
Sáu là, “xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại”. Dân chủ hóa đời sống xã hội đang là xu
thế chung của sự phát triển loài người. Để thể hiện bản chất ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ,
mở rộng quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tạo ra sự đồng thuận xã hội, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh:
“Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi
ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô
hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý
và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”.
Bảy là, “xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân”. Cùng với quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì nhận thức về vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng từng
bước được hình thành và phát triển. Theo đó, “chúng ta nhận thức rằng, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền
tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công
cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp
luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính
trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân”. Vì vậy, “chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân,
đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”.
Tám là, “xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”. Yếu tố quyết
định nhất của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải xây dựng Đảng xứng
đáng là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý phát triển
đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và
bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta
đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then
chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa… Đảng
ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên
tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng
về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên;
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền
là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị
trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa,... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ
thống chính trị”.
Như vậy, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phải
xác định đúng đặc điểm, nội dung, thực chất của thời kỳ quá độ, để từ đó đề ra
phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện đúng định hướng. Đây là thời kỳ có sự đấu
tranh, đan xen giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh:
“Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa
được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi
xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự
đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị
trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh thành tựu, những mặt tích cực, sẽ
luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử
lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi
hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. “Đi lên theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát
huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo
và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn
của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng”. Đây là những chỉ dẫn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Đảng Cộng sản
Việt Nam trong quá trình lãnh đạo phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần tiếp tục nghiên
cứu, quán triệt trong nhận thức và hành động để từng bước hiện thực hóa chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam./.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét