Mối quan tâm đặc biệt và thường xuyên trong đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh được thể hiện nổi bật không chỉ trong các tác phẩm lý luận mà còn trong hoạt động thực tiễn phong phú của Người gần 6 thập kỷ, từ ngày tìm đường cứu nước đến khi trở về với thế giới người Hiền (1911-1969). Người không chỉ là nhà tư tưởng kiệt xuất, nhà tổ chức thiên tài của cách mạng Việt Nam mà còn là nhà hoạt động thực tiễn sôi nổi, suốt đời gần gũi, gắn bó máu thịt với nhân dân và dân tộc mình, với nhân dân các dân tộc trên thế giới. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Người gắn liền với sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, giương cao ngọn cờ giải phóng, thực hiện nguyện vọng Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho đồng bào mình và cho toàn thế giới nhân loại. Người là hiện thân mẫu mực của sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế chân chính xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay - Thời đại của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là biểu tượng cao quý của sự hy sinh, dấn thân và dâng hiến cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đấu tranh quên mình vì độc lập của Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Vào cuối đời, khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Cuba, nữ đồng chí Mácta Rôhát, ngày 14/7/1969, Người đã nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”[1]. Người còn nói “... Tôi vô cùng yêu mến nhân dân Cuba. Tôi xin gửi lời chào đến toàn thể nhân dân Cuba, từ các đồng chí lãnh đạo đến các cháu thiếu nhi... Đồng thời, tôi cũng chúc nhân dân các nước khác ở Mỹ Latinh tự giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc Yăngki. Về phần mình, chúng tôi sẽ tiếp tục đấu tranh và quyết chiến thắng”2. Quả thật là, tư tưởng và tình cảm của Người đã từ dân tộc đến với nhân loại. Thế giới ngợi ca Người không chỉ ở tầm vóc tư tưởng mà còn ở đạo đức trong sáng, tiêu biểu cho lòng nhân ái, vị tha và sự khoan dung của một lãnh tụ cộng sản, đồng thời là một nhà văn hóa kiệt xuất. Tên tuổi và sự nghiệp Hồ Chí Minh sáng mãi trong lòng dân và trong trái tim nhân loại.
Lãnh tụ Cuba - đồng chí Phiđen Catxtơrô Rugiơ
đã nói lời vô
cùng cảm động và
sâu sắc: “Đồng chí
Hồ Chí
Minh thuộc lớp những người
đặc biệt mà cái chết
là
mầm mống của sự sống và
là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”[2].
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh làm nên sự bất diệt đó.
Suốt đời Hồ Chí Minh quan tâm đến đạo đức cách mạng và tự mình nêu gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng. Đó là điểm phát sáng, chói sáng trong tư tưởng và hành động của Người. Xét trên các văn phẩm lý luận thì hầu như tác phẩm nào của Người cũng đề cập tới vấn đề đạo đức, nhất là
các tác phẩm về xây
dựng Đảng cách
mạng chân
chính. Nói tới cán
bộ, đảng viên,
bao giờ Người cũng nhấn mạnh đức là
gốc. Đức và
tài không tách rời nhau nhưng đức là
gốc, phải có
đủ 4 đức cần, kiệm, liêm,
chính mới là
người toàn
vẹn. Thiếu một đức thì
không thành người. Muốn có
đạo đức cách
mạng thì
phải kiên
quyết chống chủ nghĩa cá
nhân. Đó là cuộc đấu tranh suốt đời,
phải tự vượt lên những
thiếu xót,
yếu kém,
thậm chí
những tầm thường, xấu xa, hư hỏng
của chính
mình, nó xa lạ với phẩm chất đạo
đức cách
mạng. Đấu tranh từ bỏ chủ nghĩa
cá
nhân là cuộc đấu tranh với chính
mình, phải có
dũng khí tự phê
phán và sẽ có
không ít sự đau đớn ở trong lòng.
Chỉ dẫn đó của người thật thấm thía, sáng suốt về lý trí và sâu sắc về mặt tình cảm. Không có chủ đề nào như chủ đề đạo đức và đạo đức cách mạng lại chiếm vị trí nổi bật và nhất quán trong tư duy, tư tưởng, trong hành động, việc làm, phép ứng xử và lối sống của Hồ Chí Minh đến như vậy.
Vì vậy, xét trên bình diện thực tiễn và hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh thực sự là nhà đạo đức học mácxít. Người thực hành đạo đức cũng như thực hành phép biện chứng một cách xuất sắc, nhuần nhuyễn, tự nhiên,
trở thành
một nhu cầu văn hóa,
một mẫu mực điển hình
về đạo đức, nhân
cách, có sức ảnh hưởng rộng lớn
và
thúc đẩy mạnh mẽ mọi người vươn tới cái
tốt đẹp, sự hoàn
thiện, làm
cho cái xấu, cái
ác, cái dở mất dần đi và
cái hay, cái tốt nảy nở như hoa mùa
xuân như Người hằng mong, hằng
tin như vậy.
Nhà tư tưởng, nhà đạo đức Hồ Chí Minh ở tầm vóc lãnh tụ sáng lập Đảng và rèn luyện Đảng ta, ở tầm vóc lãnh tụ dẫn đường của cách mạng Việt Nam và trở thành ngọn cờ dẫn đường cho các dân tộc trong sự nghiệp cách mạng giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh thực sự là người thức tỉnh lương tâm và lương tri nhân loại, Người truyền cảm hứng vĩ đại của dân
tộc; truyền lửa cho thế hệ trẻ,
thắp sáng
lên niềm tin và
hy vọng vào
sự chiến thắng của chân
lý và đạo lý
- ở đời và
làm người, chính
tâm và thân dân trên lập trường Cộng
sản. Một lý tưởng
và
một sự nghiệp vĩ đại, cao thượng
như thế đòi hỏi
nghị lực phi thường với lực đẩy mãnh liệt của trí tuệ khoa học và đạo đức cách mạng. Sâu xa, đó là văn hóa với hệ giá trị chân - thiện - mỹ. Đạo đức cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh được đề cập ngay ở phần đầu, trong mở đầu của tác
phẩm Đường cách
mệnh năm 1927, khi Đảng còn
chưa ra đời. Tác
phẩm lý
luận truyền bá
chủ nghĩa Mác
vào Việt Nam, Người nhấn mạnh trước hết
đến “Tư cách một
người cách
mệnh”, trong đó
nổi bật 23 tiêu
chí chuẩn mực về đạo đức,
nổi bật hai điều hệ trọng, “giữ chủ nghĩa cho vững” và
“ít lòng tham muốn về vật chất”[3].
Muốn làm
cách mệnh đến nơi, tức là
triệt để, phải có
chí, kiên quyết và
đức hy sinh, phải toàn
tâm toàn ý vì sự nghiệp chung.
Hai mươi năm sau, vào năm 1947, khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thành công, Đảng đã là Đảng cầm quyền, Đảng nhận trọng trách
lãnh đạo toàn
dân giữ vững nền độc lập tự do của Tổ
quốc, “... thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[4], ra sức chống thực dân Pháp xâm lược trở lại bằng cách “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, giữ vững đức tin “kháng
chiến tất thắng, kiến quốc tất thành”,
tại an toàn
khu Việt Bắc, Người đã
viết hai văn kiện chính
trị quan trọng mà
cũng là hai tác phẩm lý
luận xuất sắc: Đời sống mới (Tân
Sinh, tháng 3/1947) và Sửa
đổi lối làm việc
(X.Y.Z, tháng 10/1947). Cả hai tác phẩm này đều đặt vấn đề đổi mới, trong điều kiện Đảng cầm quyền mà
nổi bật là
xây đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, xây đi liền với chống.
Người nêu cao tính Đảng, “phê bình và sửa chữa”, nhấn mạnh dũng khí tự phê bình và phê bình, không ít lần Người đòi hỏi phải “tẩy sạch”, phải chữa cho “tiệt nọc” chủ nghĩa cá
nhân, thói quan liêu, xa rời
thực tế, xa dân, khinh dân, bệnh chủ quan, “coi khinh lý luận”, bệnh hẹp hòi, nhất là trong dùng người, thói ba hoa, nói nhiều làm ít, lời nói không đi đôi với việc làm, và bao nhiêu chứng bệnh, thói hư tật xấu khác. Tất cả đều là phát sinh từ một bệnh gốc, bệnh mẹ, đó là chủ nghĩa cá nhân - một thứ “giặc nội xâm”, giặc ở trong lòng. Người đã từng cảnh báo, mọi sự suy đồi, tha hóa đều bắt đầu từ tha hóa về đạo đức, nhất là khi đã có chức, có quyền. Người đòi hỏi, phải nghiêm túc học hành lý luận và ra sức rèn luyện đạo đức. Thái độ và hành vi của cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo phải có ảnh hưởng tới quần chúng, tới phong trào, hoặc tốt hoặc xấu, hoặc thành hay bại... đều do đạo đức cách mạng có chiến thắng chủ nghĩa cá nhân hay không? Đề cập tới vấn đề cán bộ và công tác cán bộ là công việc gốc của Đảng, về cách dùng người, cách lãnh đạo bao giờ Người cũng nêu cao vai trò của đạo đức, của trách nhiệm và sự nêu gương. Phải giáo dục, uốn nắn cán bộ, nghiêm khắc mà khoan dung, thường xuyên kiểm tra cán bộ để bảo vệ cán bộ, không để mất cán bộ vì hư hỏng. Do đó phải ráo riết phê bình và tự phê bình, từ đảng viên đến toàn Đảng. Phải thực hành đời sống mới, giải quyết thấu đáo
quan hệ giữa cũ và
mới. Cách
mạng không
có gì khác, chính là “phá cái cũ đổi
ra cái
mới”, “phá
cái xấu đổi ra cái
tốt”[5]. Mọi việc lớn, nhỏ, trước
mắt cũng như lâu dài, không có đạo đức cách mạng thì tài giỏi mấy cũng hỏng, không làm nên trò chống gì, xa dân thì không làm nổi việc gì như sau này Người nhấn mạnh.
Năm 1948, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc, năm 1949 Người viết bài báo nổi tiếng “Dân vận”, chỉ ra bản chất, vai trò
của công
tác vận động quần chúng,
coi dân chủ là
nền tảng lý
luận của dân
vận, là
cơ sở khoa học và
đạo đức của “Dân
vận khéo”,
phê phán gay gắt căn bệnh nguy hiểm
của không
ít người là
“xem khinh việc dân
vận”[6]. Đặc biệt là
vào tháng 12/1958, Người tập trung
viết tác
phẩm lý
luận có
dung lượng lớn với tựa đề
nổi bật Đạo đức cách mạng. Người phân tích thấu đáo về những biểu hiện của đạo đức cách
mạng, đặt nó
đối lập với chủ nghĩa cá
nhân, nhấn mạnh phải đấu
tranh đánh
bại, tiêu
diệt chủ nghĩa cá
nhân. Không như vậy không
thể đưa sự nghiệp cách
mạng tới thắng lợi, không
thể xây
dựng thành
công chủ nghĩa xã
hội. Tác
phẩm này
chứa đựng nhiều tư tưởng lớn về đạo
đức cách
mạng, có
thể coi đó
là một tác
phẩm kinh điển về đạo đức cách
mạng của Hồ Chí
Minh với bút
danh Trần Lực.
Hai năm sau, năm 1960, vào dịp Đảng ta tròn 30 năm lịch sử, Người khẳng định “Lịch sử Đảng ta là
một pho lịch sử bằng vàng”,
“Đảng ta là
đạo đức, là
văn minh”.
Gần một thập kỷ sau, vào năm 1969, năm cuối cùng trong cuộc đời hữu hạn của mình, cũng vào dịp sinh nhật Đảng lần thứ 39 (03/02/1930 - 03/02/1969),
Người đã
công bố tác
phẩm Nâng
cao đạo đức cách
mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá
nhân. Đó là một tổng kết lớn về
đạo đức cách mạng,
từ lý
luận đến thực tiễn, trình
bày một hệ thống các
vấn đề về xây
dựng đạo đức cách
mạng và
kiên quyết đánh
bại chủ nghĩa cá
nhân, phân biệt một cách
chính xác và vô cùng tinh tế,
chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là coi thường cá nhân, không phải là giày xéo lên những gì chính đáng và hợp lý của cá nhân con người. Khi viết tác phẩm quan trọng này, Người cũng đã soạn thảo, sửa chữa, bổ sung “Tài
liệu tuyệt đối bí
mật”, đó
là Di chúc được Người chuẩn bị và
khởi thảo từ tháng
5/1965. Người khiêm
nhường gọi là
“thư cho đồng bào,
đồng chí”,
là “mấy lời để lại”. Đây
là nơi quy tụ, hội tụ, chắt lọc
những gì
tinh túy nhất về đạo đức cách
mạng, về chống chủ nghĩa cá
nhân. Đủ thấy Hồ Chí
Minh là hiện thân
sinh động, là
biểu tượng cao quý
biết nhường nào
về đạo đức cách
mạng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét