Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

Không gian mạng – vùng “lãnh thổ đặc biệt” của Tổ quốc

Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ hiện đại, đặc biệt là phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xuất hiện một không gian xã hội mới - không gian mạng. Đây là phần không gian đặc thù, được hình thành từ cơ sở hạ tầng thông tin và hoạt động của các thành phần xã hội trên đó, dần trở thành không gian chiến lược mới - vùng “lãnh thổ đặc biệt”, gắn kết chặt chẽ với các môi trường tự nhiên (đất liền, biển, đảo, trên không, vũ trụ) để các quốc gia khai thác, phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng

Thực chất, không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Không gian mạng được hình thành và phát triển trên cơ sở hai yếu tố cơ bản: cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và hoạt động, tương tác của các thành phần xã hội ở trên đó. Chính vì điều này mà không gian mạng đã, đang trở thành không gian xã hội đặc biệt, bao phủ toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội và không bị giới hạn bởi các yếu tố: không gian, thời gian.

Khác với không gian vật lý (luôn gắn liền với từng cộng đồng người và bị giới hạn bởi một không gian, thời gian nhất định), không gian mạng là không gian ảo - môi trường thông tin do con người tạo lập, phát triển, không có biên giới rõ ràng; ở đó, thông tin được cung cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi trên nền tảng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin; nơi mà mọi thông tin, hoạt động của cá nhân, tổ chức và toàn xã hội đã được số hóa. Mặc dù là không gian ảo, song không gian mạng cũng mang yếu tố thực, bởi nó diễn ra các hoạt động giao tiếp, làm việc, giải trí của con người; phản ánh đầy đủ các hoạt động, sinh hoạt của xã hội; tác động đến mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,…; gắn kết chặt chẽ với các môi trường tự nhiên, trở thành không gian sinh tồn rộng mở và có khả năng kiến tạo và gia tăng sức mạnh quốc gia với nguồn tài nguyên số cực lớn để các quốc gia khai thác, phát triển.



Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp Ban Chỉ đạo An toàn, An ninh mạng quốc gia lần thứ hai. Ảnh: nhandan.vn

Tuy là không gian kết nối toàn cầu, song nó luôn gắn liền với chủ quyền của mỗi quốc gia. Vì vậy, vấn đề chủ quyền quốc gia trên không gian mạng được các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm. Ở Việt Nam, từ năm 1997, khi chúng ta kết nối mạng internet toàn cầu, vấn đề chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhanh chóng được xác lập. Theo quan điểm của Đảng, Nhà nước ta: Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là quyền tối cao, tuyệt đối, đầy đủ và riêng biệt của quốc gia đối với các vùng thông tin do Nhà nước quản lý, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bằng chính sách, pháp luật và năng lực công nghệ phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng giống như chủ quyền lãnh thổ truyền thống, Nhà nước ta có quyền tối cao, tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt đối với phạm vi không gian mạng thuộc quyền kiểm soát của mình; xác lập và thực thi quyền quản lý, kiểm soát, phát triển, khai thác đối với toàn bộ cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia cũng như thông tin được tạo ra, lưu trữ, xử lý và truyền đưa trên đó; đồng thời, mã hóa thông tin số, truyền đưa trên không gian mạng toàn cầu và kiểm soát toàn bộ các hoạt động trên vùng “lãnh thổ đặc biệt” thuộc quyền quản lý của mình trên cơ sở luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam.

Đặc tính ưu việt của không gian mạng

Từ thực tiễn cho thấy, với những đặc tính cơ bản của một kho tri thức khổng lồ; có tốc độ truyền tải, lan truyền, tìm kiếm thông tin nhanh; lưu trữ thông tin cực lớn; tính liên kết cộng đồng cao,... không gian mạng đã trở thành một phần của đời sống xã hội và là “không gian chiến lược mới”, mang đến nhiều cơ hội cho sự phát triển của cá nhân, cộng đồng và quốc gia - dân tộc; trong đó, Việt Nam không phải là ngoại lệ.

Trước hết, không gian mạng góp phần phát triển nhận thức, tư duy và kỹ năng sống của con người ở mọi quốc gia, nhất là đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Được xem là cuốn “bách khoa toàn thư” khổng lồ của nhân loại mà ai cũng có thể tiếp cận, không gian mạng đã thực sự mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội học tập và phát triển bản thân. Chỉ với những thao tác đơn giản, người dùng có thể thu thập và sử dụng vô số tài nguyên thông tin phục vụ cho nhu cầu học tập, làm việc và cuộc sống của mình.

Thứ hai, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Nhà nước. Không chỉ tạo ra môi trường làm việc, không gian mạng còn là môi trường giao tiếp vô cùng thuận lợi giữa người dân, doanh nghiệp với các cơ quan công quyền; nhiều thủ tục hành chính, nghĩa vụ kinh tế, hợp tác kinh tế,… được thực hiện thông qua không gian mạng; nhiều ngành nghề mới được ra đời, giúp gia tăng việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, không gian mạng ở nước ta đang là nền tảng quan trọng trong chương trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số, xã hội số. Theo “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, không gian mạng là nơi diễn ra hầu hết các hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người dân trên môi trường số; các giao tiếp giữa chính quyền và người dân, doanh nghiệp cơ bản diễn ra trên không gian mạng. Điều này sẽ góp phần quan trọng giảm chi phí cho cá nhân, tổ chức, nâng cao năng suất lao động; đồng thời, giúp chính quyền các cấp nâng cao năng lực quản lý, điều hành, phát triển.

Thứ ba, không gian mạng góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa, giáo dục và hội nhập quốc tế của đất nước. Với đặc tính “xuyên biên giới”, tốc độ truyền tải, tìm kiếm thông tin nhanh, không gian mạng là môi trường lý tưởng để mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia - dân tộc kết nối, chia sẻ, giao lưu, lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; đồng thời, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực, cùng nhau giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng, quốc gia, quốc tế,... qua đó, thúc đẩy mở rộng hợp tác giữa nước ta với các nước. Hiện nay, với nhiều phần mềm quản lý, dạy học; nhiều hình thức dạy học trực tuyến, đào tạo từ xa, hợp tác đào tạo,... đã và đang được triển khai trên phạm vi quốc gia và quốc tế, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển giáo dục và đào tạo. Thực tế cho thấy, trong đại dịch Covid-19 vừa qua, nếu không có không gian mạng thì các kết nối cộng đồng, giáo dục đào tạo, thương mại,... sẽ bị ngừng trệ.

Thứ tư, không gian mạng ra đời đã làm xuất hiện hình thái chiến tranh trong môi trường mạng, hình thành loại hình và lực lượng tác chiến không gian mạng; làm thay đổi học thuyết, tư duy và phương thức tiến hành chiến tranh, bảo vệ an ninh quốc gia. Không gian mạng còn cho phép lực lượng vũ trang thiết lập, phát triển, sử dụng hiệu quả hệ thống thông tin, tình báo, quản lý điều hành, hệ thống điều khiển vũ khí, tự động hóa chỉ huy để tương tác, nâng cao hiệu quả hoạt động tác chiến; là nền tảng để lực lượng Quốc phòng, An ninh triển khai hệ thống phần mềm quản lý con người, kiểm soát, cập nhật thường xuyên tình hình, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, phòng chống bạo lực, tội phạm, khủng bố,... góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới rất coi trọng tác chiến không gian mạng, coi đó là phương thức chủ yếu nhằm kiểm soát không gian mạng của đối phương, bảo vệ không gian mạng của mình; là hoạt động đối kháng máy tính, gồm các hoạt động giám sát, bảo vệ và tiến công mạng; đồng thời, kết hợp với khả năng chỉ huy, kiểm soát, truyền tin, tình báo, trinh sát, giám sát, tạo điều kiện thuận lợi cho tác chiến liên hợp.

Thứ năm, ở nước ta, không gian mạng còn góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, tăng cường sự gắn kết và đồng thuận trong nhân dân. Thông qua không gian mạng, nhiều hội nghị, lớp học được tổ chức trực tuyến đến các điểm cầu trong cả nước; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhanh chóng được truyền tải đến với mọi cá nhân, tổ chức, giúp họ nắm bắt nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đồng thời, đó còn là môi trường thuận lợi để nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ văn hóa, ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; nâng cao chất lượng dịch vụ công,… góp phần tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Từ những lợi ích to lớn mà không gian mạng mang lại, ngày 25/7/2018, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Trong đó, xác định: không gian mạng là “vùng lãnh thổ đặc biệt” để các quốc gia khai thác, phục vụ cho phát triển,... Việt Nam chủ trương xây dựng không gian mạng quốc gia an toàn, lành mạnh, rộng khắp, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,… góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những nguy cơ, thách thức

Bên cạnh những mặt tích cực, cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đang phải đối mặt với không ít những nguy cơ, thách thức trên không gian mạng.

Một là, không gian mạng là môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Với tính chất mở, ẩn danh và lan truyền nhanh, không gian mạng đang được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng thường xuyên sử dụng mạng xã hội, phổ biến là Facebook, YouTube, TikTok,…để tuyên truyền, xuyên tạc, phá hoại nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xuyên tạc thành tựu của cách mạng, từ đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Lợi dụng tính xác thực thông tin trên không gian mạng còn yếu, chúng thường xuyên kích động các phần tử cực đoan, bất mãn phát tán thông tin bịa đặt, sai sự thật,… nhằm tạo ra các đợt “khủng hoảng truyền thông” để thu hút sự quan tâm của dư luận, hướng lái dư luận theo mục đích chính trị của chúng. Từ đó, hình thành tâm lý phản kháng, tư tưởng bất mãn, chống đối, tiến tới kêu gọi biểu tình, bạo loạn lật đổ. Điển hình như, chúng lợi dụng không gian mạng, tuyên truyền, kích động, xúi giục tụ tập đông người bất hợp pháp, gây mất an ninh, trật tự nhân việc Công ty Formosa Hà Tĩnh xả thải gây ô nhiễm môi trường biển (năm 2016); xuyên tạc Quốc hội khóa XIV thông qua Luật An ninh mạng, v.v. Những hoạt động này rất nguy hiểm, đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Diễn tập tình huống phòng, chống tấn công làm tê liệt mạng thông tin thành phố.
Ảnh: TTXVN

Hai là, không gian mạng là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch triển khai hoạt động gián điệp. Ra đời cùng với sự xuất hiện của không gian mạng, gián điệp mạng có thể gây ra những tổn thất lớn về nhiều mặt thông qua tấn công vào hệ thống máy tính của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công an, tập đoàn kinh tế lớn, hệ thống ngân hàng, sân bay, bến cảng,... để đánh cắp dữ liệu, thông tin bí mật hoặc tấn công mã độc, chiếm quyền kiểm soát, điều khiển hệ thống thông tin, v.v. Thời gian qua, một số cơ quan đặc biệt của nước ngoài đã và đang đẩy mạnh các hoạt động do thám, xâm nhập gián điệp để đánh cắp thông tin, bí mật quốc gia, bí mật quân sự nhằm tạo lợi thế trong quan hệ hợp tác quốc tế; tác động vào đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại; đưa thông tin sai lệch, truyền bá quan điểm phản động nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội, phá hoại kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh; âm thầm, bí mật kiểm soát hệ thống mạng, tạo thế trận, xâm hại chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc của ta. Các hoạt động này thường được tiến hành thông qua các mã độc, phần mềm gián điệp được cài sẵn trong các phần mềm, ứng dụng, các thiết bị số bán ra thị trường, làm quà tặng hoặc có thể cài đặt từ xa qua mạng Internet. Theo Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam năm 2021, số cuộc tấn công mạng gây ra sự cố vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam không ngừng gia tăng, năm 2019 là 5.176 cuộc, năm 2020 là 6.829 cuộc. Sự nguy hiểm của gián điệp mạng đã được thế giới biết đến qua việc WikiLeaks cho công bố hàng loạt tài liệu mật, trong đó có nhiều tài liệu mật của Mỹ, bao gồm cả tài liệu phản ánh hoạt động giám sát các thiết bị di động của Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA) khoảng từ năm 2006 đến 2017. Năm 2013, Edward Snowden cũng đã tiết lộ thông tin mật về chương trình do thám toàn cầu do tình báo Mỹ và Anh thực hiện. Năm 2016, có đến 11,5 triệu tài liệu mật cũng đã được công khai cho báo chí trong vụ “Hồ sơ Panama” gây chấn động thế giới.

Ba là, nguy cơ xảy ra chiến tranh mạng. Đây là một hình thái chiến tranh mới - chiến tranh phi đối xứng, diễn ra thường xuyên, liên tục, trong cả thời bình và thời chiến. Chiến tranh mạng không sử dụng khí tài quân sự truyền thống mà sử dụng lực lượng tinh nhuệ để lập trình, chế tạo, sản xuất và nhân bản hàng loạt vũ khí mạng, như: mã độc, hệ thống công cụ tấn công mạng, hệ thống công cụ tình báo mạng; hậu quả gây ra có thể vượt xa chiến tranh truyền thống. Vào tháng 4/2007, thế giới đã chứng kiến hàng loạt trang thông tin điện tử các cơ quan chính phủ, nhà cung cấp dịch vụ Internet, ngân hàng của Estonia bị tấn công, làm cho hầu hết các website của nước này bị tê liệt trong khoảng 3 tuần, gây nhiều thiệt hại. Năm 2009, hàng loạt website của Chính phủ Mỹ và Hàn Quốc cũng bị tấn công, trong đó nhiều website quan trọng của hai nước này phải tạm ngừng hoạt động. Hiện nay, một số quốc gia đang bí mật triển khai các hoạt động trinh sát, giám sát, tình báo, bố trí hệ thống vũ khí mạng, sẵn sàng tiến công, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên không gian mạng. Trước những nguy cơ và nguy hại của chiến tranh mạng, Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” của Đảng khẳng định, nguy cơ xảy ra khủng bố, chiến tranh mạng, mất an ninh thông tin ngày càng gia tăng. Mục tiêu tấn công của kẻ địch trong trường hợp xảy ra chiến tranh mạng đối với Việt Nam là hệ thống hạ tầng truyền dẫn vật lý, đó có thể là cáp truyền dẫn quốc tế, trục truyền dẫn nội bộ quốc gia; các hạ tầng dịch vụ lõi, như: router, thiết bị mạng,...; các hệ thống cơ sở dữ liệu, mạng máy tính nội bộ; hệ thống điều khiển tự động hóa của các cơ sở quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế, như hệ thống thông tin chỉ huy, giám sát, điều khiển vũ khí của Quân đội, nhà máy lọc dầu, thủy điện, nhiệt điện, giàn khoan, sân bay, bến cảng, v.v. Trên thực tế, từ ngày 08/3 - 10/3/2017, chúng ta đã chứng kiến tin tặc tấn công, thay đổi giao diện website Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Phú Quốc, Rạch Giá,… đe dọa lớn đến an ninh hàng không. Thực tế  đó cho thấy, nếu chiến tranh mạng xảy ra, hậu quả sẽ rất nặng nề, đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp phòng, tránh hiệu quả, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Bốn là, tội phạm công nghệ cao. Với đặc tính ảo, không gian mạng là môi trường thuận lợi để tội phạm công nghệ cao lợi dụng tiến hành các hoạt động gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức và lợi ích quốc gia. Chúng thường giả danh các cơ quan thực thi pháp luật để tiến hành các hoạt động lừa đảo qua mạng; lừa đảo qua phương thức kinh doanh đa cấp trên mạng; giả mạo website của các ngân hàng để lừa người truy cập, chiếm đoạt tài sản; tổ chức các hoạt động đánh bạc, “tín dụng đen”, v.v. Cùng với đó, mạng xã hội còn được các đối tượng phạm tội về hình sự, kinh tế, ma túy lợi dụng để làm công cụ liên lạc trong quá trình mua bán, vận chuyển các loại hàng cấm như: ma túy, vũ khí, vật liệu nổ và các hoạt động phạm tội khác, v.v. Riêng năm 2019, các đơn vị chức năng Bộ Công an đã khởi tố hơn 1.000 bị can; bắt và bàn giao cho cảnh sát các nước trên 500 đối tượng sử dụng không gian mạng thực hiện hành vi phạm tội4. Cũng theo thống kê của Bộ Công an, trong 5 năm (2017-2022), đã phát hiện, đấu tranh, xử lý hơn 2.300 chuyên án, khởi tố hơn 1.100 vụ với hơn 1.000 đối tượng và xử phạt hành chính 51 vụ liên quan tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua không gian mạng5. Hoạt động trên của các đối tượng đã gây nhiều thiệt hại cho cá nhân, tổ chức và lợi ích quốc gia - dân tộc.

Không gian mạng quốc gia là vùng “lãnh thổ đặc biệt" của Tổ quốc, vừa có vai trò quan trọng đối với sự phát triển an toàn, bền vững của đất nước nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức đối với quốc phòng, an ninh cũng như sự ổn định và phát triển của đất nước. Do vậy, không gian này cần được quản lý, định hướng, phát triển bằng những chủ trương, chiến lược, đề án,... bảo đảm chặt chẽ, khoa học, nhằm phát huy những đặc tính ưu việt, hạn chế tác động tiêu cực, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững./.

ST.

THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ - “MỆNH LỆNH TỪ TRÁI TIM!”

     Thực hiện nghĩa vụ quân sự không chỉ là nghĩa vụ, quyền cao quý, mà trên hết đó còn là “Mệnh lệnh từ trái tim” của mỗi công dân Việt Nam. Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân!
Tuy nhiên, cứ đến “mùa tuyển quân” hằng năm, các thế lực thù địch lại “bổn cũ soạn lại” những chiêu trò cũ rích nhằm xuyên tạc, kích động công dân trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự. Chúng ta cần nhận diện, đấu tranh bác bỏ những thủ đoạn xuyên tạc này; đồng thời tích cực tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân trong đó có thế hệ trẻ nhận thức đúng rằng “Quân đội luôn là trường học lớn” và luôn nêu cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng.

Đập tan những luận điệu xuyên tạc, phiến diện, “bóp méo sự thật” việc thực hiện nghĩa vụ quân sự
Ở Việt Nam, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, cứ đến tháng 2 hằng năm, cả nước lại có hàng vạn thanh niên hăng hái xung phong lên đường thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc trong niềm hân hoan, phấn khởi và tràn ngập niềm tự hào. Tuy nhiên, khi những hình ảnh đẹp của “Ngày hội tòng quân” được chia sẻ trên báo chí và các trang mạng xã hội thì các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động lại sử dụng chiêu trò “tuyên truyền bẩn” xuyên tạc, kích động, gieo rắc tâm lý tiêu cực cho người dân. Một số trang mạng phản động, trong đó có Việt Tân lại tiếp tục dùng chiêu “bình cũ, rượu mới” cũ rích nhằm “bày cách” cho thanh niên trốn tránh nhập ngũ để thực hiện âm mưu chống phá đất nước ta.

Nghe và đọc những luận điệu “tuyên truyền bẩn” này khẳng định, chỉ có thể là những “kẻ ảo tưởng” mới “thốt ra” những luận điệu xuyên tạc lạc lõng, chứa đựng đầy “âm mưu” nhưng lại vô cùng ngớ ngẩn như vậy.

Những “kẻ ảo tưởng” đâu biết rằng: Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam là vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Mục tiêu, lý tưởng ấy do Đảng Cộng sản Việt Nam và Lãnh tụ Hồ Chí Minh giáo dục, xây dựng cho Quân đội ta tạo nên sự thống nhất chặt chẽ không thể tách rời giữa mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. 

Những kẻ ảo tưởng chắc cũng không thể biết: Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, mỗi khi Tổ quốc lâm nguy, lớp lớp thanh niên đã tình nguyện lên đường nhập ngũ, tham gia các cuộc đấu tranh chính nghĩa bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, thể hiện ý chí, trách nhiệm, quyết tâm của hàng ngàn, hàng vạn thanh niên đối với Tổ quốc. 

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 đã có hơn 26 vạn dân công với trên 10 triệu ngày công tham gia phục vụ chiến dịch; hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh mở mới và sửa chữa hàng nghìn ki-lô-met đường; các “chiến sĩ Điện Biên” đã trải qua “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non…” để đào được 500km hầm hào, bắt sống tên tướng Đờ Cát-xtơ-ri và toàn bộ ban tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của thực dân Pháp, làm nên một chiến thắng “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”.

Trong không khí cả nước hướng về Điện Biên, kỷ niệm “70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ”, thật may mắn khi tôi được gặp ông - Đại tá Nguyễn Quốc Thịnh, nguyên Phó giám đốc Học viện Khoa học Quân sự - một nhân chứng lịch sử, trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm ấy. Ông đã tặng cho tôi cuốn Hồi ký “Hoàng hôn xanh thẳm” viết về những ngày tháng thanh xuân tươi đẹp ông dành trọn cho quân ngũ và những kỷ niệm về Điện Biên Phủ khi ông trực tiếp tham gia chiến đấu trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Đọc cuốn hồi ký của ông, tôi đã khóc vì cảm động, khóc vì thấy bản thân còn quá kém cỏi so với những gì thế hệ ông, cha chúng ta đã cống hiến và hy sinh cho Tổ quốc. Trong Hồi ký có đoạn ông viết: “Vào quân ngũ nhẹ như gió thoảng. Nếu phải có một ngày nói về việc chính thức vào quân ngũ của tôi, thì đó là ngày 26 tháng 7 năm 1947. Anh Hồng Cư bảo tôi, “để tao vào xong tao gọi mày”. Thế là anh vào quân ngũ ngày 24 tháng 7, hai ngày sau thì anh gọi tôi… Năm ấy tôi 17 tuổi, theo tuổi lý lịch thì mới chỉ có 15 tuổi. Tuổi trẻ của tôi đã bắt đầu như thế!”1.

Cũng trong cuốn Hồi ký, ông đã kể lại những kỷ niệm khi ông tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ với tựa đề “Điện Biên trong tôi”; đó là những ngày ông đào hào cùng đồng đội: “...Anh em lúc đầu đào theo tư thế nằm, đến khi đào được mười lăm, hai mươi phân thì chuyển sang tư thế ngồi, sâu hơn nữa thì chuyển sang quỳ để đào, rồi khi sâu hẳn để có thể lọt người xuống thì mới được đào đứng.…”2. Đọc những dòng hồi ký này, tôi đã hiểu được vì sao trong gian khổ, trong bom đạn, khi cái chết luôn cận kề, song những người chiến sĩ kiên trung vẫn luôn quyết tâm sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc bởi vì trong “huyết mạch” của họ là tình yêu quê hương, đất nước; là ý chí “không có gì quý hơn độc lập, tự do” và tận cùng sâu thẳm đó là trách nhiệm thiêng liêng đối với Tổ quốc mà họ luôn mang trong mình.

Năm nay, thành phố Hà Nội đã tuyển chọn được các công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự, hoàn thành chỉ tiêu giao, không chỉ bảo đảm về số lượng, sức khỏe mà còn tăng về cả tư tưởng nhận thức và trình độ học vấn khi có hàng nghìn công dân viết đơn tình nguyện nhập ngũ.

Trong đợt nhập ngũ này, có rất nhiều thanh niên đã tốt nghiệp đại học vẫn tình nguyện viết đơn lên đường nhập ngũ, điển hình là chàng trai người Mông Mùa A Kỷ, bản Lọng Luông 1, xã Mường Phăng, thành phố Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Đây là trường hợp hiếm hoi ở xã Mường Phăng tốt nghiệp Đại học Thái Nguyên, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự. Mùa A Kỷ tâm sự: “…Sinh ra, lớn lên trên quê hương giàu truyền thống cách mạng nên từ nhỏ tôi đã rất yêu mến hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ và xác định mình phải có trách nhiệm, đóng góp cho Tổ quốc. Bởi vậy, ngay khi có lệnh khám tuyển nghĩa vụ quân sự, tôi đã đăng ký tham gia và may mắn trúng tuyển”3.

Lịch sử là những chuỗi sự kiện hào hùng kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Quá khứ là lớp lớp thanh niên đã tình nguyện ra trận tham gia các cuộc kháng chiến vĩ đại bảo vệ Tổ quốc và hiện tại là những lứa thanh niên trong thời bình nhưng luôn mang trong mình “mệnh lệnh từ trái tim” để hăng hái tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự, góp phần bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Lớp cha trước, lớp con sau/ Đã thành đồng chí chung câu quân hành”.

Quân đội - “Trường học lớn” để thanh niên rèn luyện, trưởng thành
Với bề dày 80 năm xây dựng, chiến đấu và phát triển, Quân đội ta đã cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách. Đó luôn là “trường học lớn” để các thế hệ thanh niên Việt Nam không ngừng rèn luyện, trưởng thành về mọi mặt, góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Môi trường quân ngũ với những đặc tính riêng có là những điều kiện tốt để mỗi thanh niên phấn đấu luyện rèn, không ngừng hoàn thiện nhân cách, phát triển toàn diện bản thân; là nơi mà mỗi thanh niên được học tập, tiếp thu kiến thức về chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học, kỹ thuật hữu ích cho bản thân; được học tập, quán triệt đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là về quốc phòng, an ninh,... từ đó có sự trưởng thành về nhận thức để nhận diện rõ những vấn đề thời sự, chính trị diễn ra trong nước và thế giới, nâng cao tinh thần yêu nước, có lập trường chính trị vững vàng, có khả năng “miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch.

Những phẩm chất cơ bản mà mỗi quân nhân có được trong thời gian 2 năm luyện rèn trong quân ngũ và sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng, vững chắc để mỗi thanh niên lập thân, lập nghiệp. Như vậy, môi trường Quân đội không những không “méo mó” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch mà đó luôn là “trường học lớn” để mỗi thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành về mọi mặt.

Để việc thực hiện nghĩa vụ quân sự luôn được mọi người dân nhận thức đúng là “quyền và nghĩa vụ” thiêng liêng của công dân cần tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương pháp công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến mọi công dân, đặc biệt là thanh niên trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đặc biệt, trước sự phát triển của mạng xã hội, công tác tuyên truyền cần tận dụng tối đa ưu thế này để tiếp cận, chia sẻ, định hướng, tháo gỡ khó khăn của thanh niên trong thực hiện nghĩa vụ quân sự; “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, đẩy lùi thông tin tiêu cực, dập tắt các luận điệu xuyên tạc, chống phá. Mỗi thanh niên khi đến tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự đều nhận thức sâu sắc rằng đây là nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc; đều tự hỏi rằng mình đã làm được gì cho Tổ quốc hôm nay.

Mặt khác, các cấp chính quyền địa phương phải luôn thực hiện đúng và thống nhất quy trình tuyển chọn thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đặc biệt, thành viên Hội đồng Nghĩa vụ quân sự các cấp cần phối hợp chặt chẽ, nắm chắc tình hình, kịp thời giải quyết những kiến nghị, phản ánh ngay từ cơ sở, không để tình trạng đơn thư vượt cấp; thực hiện tốt chủ trương tuyển quân “tròn khâu” tại địa phương theo phương châm “tuyển người nào chắc người đó”, hạn chế nhất loại trả, bù đổi. Tăng cường kiểm tra chặt chẽ, bảo đảm việc tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ ở tất cả các địa bàn cơ sở diễn ra công bằng theo phương châm “3 không, 6 công khai”. Bên cạnh đó, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi đồng bộ chính sách pháp luật bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi thực hiện nghĩa vụ quân sự./.
Yêu nước ST.

Xây dựng, chỉnh đốn đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh - kết quả và định hướng thời gian tới

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, trọng yếu, thường xuyên, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Tại Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ (khóa XIII), vấn đề này được Đảng ta đánh giá khách quan, toàn diện những kết quả, thành tựu đã đạt được và đề ra những định hướng cần tập trung quán triệt, nhận thức đúng để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả trong thời gian tới.

Kết quả, thành tựu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị

Với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển” và quán triệt, thực hiện quan điểm, mục tiêu: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định, trong nửa đầu nhiệm kỳ qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu nổi bật.

Thứ nhất, với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, toàn Đảng và hệ thống chính trị đã làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý, phát huy quyền làm chủ của nhân dânvừa tập trung kiểm soát dịch Covid-19, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả. Điều đó được thể hiện rõ khi nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá, kinh tế vĩ mô ổn định, trong đó kiểm soát tốt lạm phát; các chỉ tiêu quan trọng về phát triển kinh tế đều đạt và vượt mức so với kế hoạch đề ra, là một điểm sáng trong bức tranh màu xám của kinh tế toàn cầu. Đảng và hệ thống chính trị nhất quán quan điểm đầu tư, phát triển văn hóa, xã hội phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường; chủ động, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh, có hiệu quả, đặc biệt là Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập và hoạt động hiệu quả.

Tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (khóa XV) và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 thành công, đúng luật, tạo cơ sở để kiện toàn bộ máy, nhân sự cơ quan chính quyền nhà nước các cấp. Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII), Trung ương Đảng đề ra quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phù hợp để thực hiện mục tiêu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, phân cấp, phân quyền và kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực, thực sự liêm chính, chuyên nghiệp; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững. Quyết tâm cải cách hành chính, xây dựng chính phủ, chính quyền điện tử; đẩy mạnh cải cách tư pháp; tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các hoạt động tư pháp, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động hiệu quả, góp phần tăng cường sự đồng thuận xã hội và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ hai, công tác cán bộ được xác định có vai trò “then chốt của then chốt”2 trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnhĐảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quyết định, luật để lãnh đạo, chế định công tác cán bộ, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm minh những cán bộ vi phạm, bất kể người đó là ai; đề ra và lãnh đạo thực hiện chủ trương “có vào, có ra; có lên, có xuống”, gương mẫu, nghiêm minh, nhân văn trong công tác cán bộ, vừa có tác dụng giáo dục, vừa cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và các quy định của Trung ương, Chính phủ, tạo chuyển biến tích cực trong nâng cao chất lượng các tổ chức của hệ thống chính trị các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, giám sát của Quốc hội, thanh tra của Chính phủ và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới. Ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ nhiều quy định mới; xử lý nghiêm, góp phần khắc phục tình trạng tham nhũng, tiêu cực mà biểu hiện rõ nhất là chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, tham lam danh lợi vô độ, bất chấp đạo lý, lòng tự trọng, sự liêm sỉ, những biểu hiện của tha hóa quyền lực, lạm quyền, buông lỏng lãnh đạo, quản lý. Tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp đã triển khai nhiều biện pháp đồng bộ để tăng cường sự đoàn kết, thống nhất nội bộ; củng cố niềm tin của nhân dân đối với chế độ, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Những kết quả, thành tựu trên đạt được trong bối cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn, thách thức mới xuất hiện một cách gay gắt hơn, phức tạp hơn so với dự báo, nhiều khó khăn, thách thức không thể lường trước được.

Tuy nhiên, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị còn một số hạn chế, đó là: tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa được ngăn chặn một cách triệt để; xuất hiện ngày càng rõ hơn tình trạng đùn đẩy, không dám nghĩ, không dám làm, thậm chí né tránh và sợ trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, v.v.

Trước tình hình trên, đòi hỏi chúng ta không được tự mãn với những kết quả, thành tựu đã đạt được; đồng thời, không bi quan, dao động, mà cần bình tĩnh, sáng suốt, tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém để tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tích cực phấn đấu, hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Một số định hướng xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thời gian tới

Một là, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trực tiếp là Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) về những điều đảng viên không được làm. Tăng cường lãnh đạo đổi mới, xây dựng hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp từ Trung ương đến địa phương; xây dựng Chính phủ, chính quyền các địa phương thật sự trong sạch, liêm chính, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Hai là, tiếp tục làm tốt công tác cán bộ. Trong đó, đặc biệt chú trọng khâu lựa chọn, bố trí đúng người có đủ đức - tài, liêm chính, tâm huyết; thật sự vì nước, vì dân vào vị trí lãnh đạo trong bộ máy của hệ thống chính trị các cấp. Từ nay đến hết nhiệm kỳ, cần phải ráo riết, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những người sa vào tham nhũng, tiêu cực ra khỏi bộ máy; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cục bộ, ưu ái tuyển dụng người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn. Phát huy tốt dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, đề cao trách nhiệm nêu gương của bản thân và người thân, không để người thân vướng vào tiêu cực. Chú trọng quán triệt, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ theo tinh thần “bảy dám”3. Tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gắn với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để “không thể, không dám, không muốn tham nhũng”. Đồng thời, chấn chỉnh, đấu tranh loại bỏ tư tưởng bàn lùi, tâm lý lo ngại rằng nếu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực quá mạnh sẽ cản trở sự phát triển, làm nhụt chí, dè dặt, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp.

Ba là, chuẩn bị tốt cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng thành công tốt đẹp. Đại hội đảng các cấp là sinh hoạt Đảng quan trọng nhất, cần phải được chuẩn bị nghiêm túc, khẩn trương, có “bài bản” theo đúng Điều lệ Đảng và các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, để bảo đảm qua mỗi kỳ đại hội, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh hơn, thực hiện tốt mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”; xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc, đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Theo đó, cùng với thực hiện đồng bộ các chủ trương, giải pháp và trên cơ sở kết quả lấy phiếu tín nhiệm các chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cần tập trung xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV và các nhiệm kỳ tiếp theo bảo đảm tốt các yêu cầu, tiêu chí. Đồng thời, khẩn trương, nghiêm túc tiến hành tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới (1986 - 2026), làm cơ sở đề ra chủ trương, đường lối xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới./.

ST.

Phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” góp phần phòng, chống chủ nghĩa cá nhân trong Quân đội hiện nay

Chủ nghĩa cá nhân - thứ giặc “nội xâm” vô cùng nguy hiểm, với những biểu hiện rất đa dạng, tinh vi, khó lường, xuất hiện ở nhiều lúc, nhiều nơi, trong nhiều đối tượng, lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với Quân đội, nó là lực cản kìm hãm sự tiến bộ, sáng tạo và là nguồn gốc của mọi sự lệch chuẩn của quân nhân; đồng thời là một trong những căn nguyên của các biểu hiện tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm phai nhạt hình ảnh, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, làm tổn hại nghiêm trọng đến bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội. Vì thế, phát huy vai trò văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần phòng, chống chủ nghĩa cá nhân là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, nhưng rất cấp thiết của Quân đội ta hiện nay.

Giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” là sự kết tinh những giá trị văn hóa - chính trị - đạo đức của thời đại, là sự tiếp nối truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam, trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nét đặc trưng của giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” thể hiện ở sự tận trung với Đảng, với nước, trọn hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, toàn quân đã phát huy tốt giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, tạo nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, thôi thúc cán bộ, chiến sĩ không ngừng phấn đấu, rèn luyện, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhờ gìn giữ, phát huy tốt giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, nên “đơn vị trở thành cái nôi nuôi dưỡng phong trào thi đua cách mạng và những giá trị văn hóa, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, góp phần trực tiếp phát triển con người mới trong lực lượng vũ trang, đạt được mục tiêu xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, phù hợp đòi hỏi của tình hình mới”.

Tuy nhiên, trước tác động mặt trái của cơ chế thị trường và âm mưu, hoạt động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, một số cán bộ, chiến sĩ chưa nhận thức đầy đủ, chưa nêu cao trách nhiệm trong gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, thiếu tự giác tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, phải xử lý hình sự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến truyền thống, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Vì vậy, việc đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình hiện nay vẫn luôn là vấn đề cấp thiết, cần tiến hành toàn diện, đồng bộ nhiều giải pháp trên các lĩnh vực tư tưởng, chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ; trong đó, phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” là giải pháp quan trọng hàng đầu, cần được triển khai thực hiện hiệu quả ở các cơ quan, đơn vị; tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm trọn nhiệm vụ cách mạng được”. Vì thế, cần tập trung tuyên truyền, giáo dục các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về xây dựng, phát triển văn hóa, con người trong Quân đội3. Nội dung giáo dục tập trung vào nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp và toàn thể cán bộ, chiến sĩ về 05 đặc trưng cơ bản của phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” và 10 biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân được xác định tại Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương; những chuẩn mực văn hóa, đạo đức của quân nhân cách mạng. Để đạt hiệu quả cần tổ chức giáo dục bằng nhiều hình thức, biện pháp, phù hợp với điều kiện của đơn vị, đối tượng; phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, đơn vị văn hóa nghệ thuật, đẩy mạnh sáng tác âm nhạc, tác phẩm nghệ thuật về “Bộ đội Cụ Hồ”, tăng cường quảng bá văn học nghệ thuật Quân đội, v.v. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng cần gương mẫu chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội; kịp thời phê bình, uốn nắn những nhận thức sai trái, lệch lạc, nói không đi đôi với làm; kiên quyết đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội bất mãn về chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ ” thời kỳ mới. Đây là vấn đề cốt lõi nhất, quyết định chất lượng, hiệu quả việc phát huy các giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” ở các cơ quan, đơn vị toàn quân trong tình hình mới. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, cần bám sát vào đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp; đưa nội dung phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ; xây dựng chương trình hành động với nội dung, chỉ tiêu, biện pháp thiết thực, quy định thời gian thực hiện cụ thể; kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh, xử lý nghiêm các vụ việc vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, giữ gìn, phát huy truyền thống Quân đội, các giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”. Đội ngũ chính ủy, chính trị viên cần quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên, cấp mình, nhất là kế hoạch công tác đảng, công tác chính trị trong phát huy các giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” gắn với hoạt động của đơn vị. Đồng thời, thông qua chế độ báo cáo, giao ban, nắm chắc tình hình mọi mặt liên quan đến phát huy các giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, đánh giá đúng điểm mạnh, yếu, chỉ rõ nguyên nhân, tập trung giải quyết những khâu yếu, mặt yếu. Người chỉ huy các cấp, tăng cường chỉ đạo các cơ quan chức năng thường xuyên kiểm tra các đơn vị thuộc quyền chấp hành điều lệnh, điều lệ, các quy chế, quy định, chế độ, nền nếp; phê bình, nhắc nhở những nhận thức, hành vi sai trái, làm ảnh hưởng đến phát huy các giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”. Cơ quan chính trị chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định bảo đảm nghiêm túc, chặt chẽ; làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích trong phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, tuyên truyền nhân rộng những mô hình mới, cách làm sáng tạo.

Ba là, đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng gắn với phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”. Phong trào Thi đua Quyết thắng là động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”. Để đạt hiệu quả cần phải làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng và phong trào Thi đua Quyết thắng; xây dựng ý thức tích cực, tự giác thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu thi đua, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới, làm cho phong trào thi đua phát triển sâu rộng, bền vững trong từng cơ quan, đơn vị. Không ngừng đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức các phong trào thi đua theo hướng sát thực, hiệu quả gắn với phát huy các giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, tránh phô trương, hình thức; kiên quyết khắc phục những biểu hiện lệch lạc, bệnh thành tích trong thi đua và làm tốt việc bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình tiên tiến. Tăng cường công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, kịp thời uốn nắn những thiếu sót, khuyết điểm, đưa phong trào thi đua phát triển đồng đều, vững chắc. Thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng thi đua, khen thưởng các cấp; phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chủ trì và các tổ chức quần chúng, tạo sức mạnh tổng hợp đưa công tác thi đua, khen thưởng phát triển toàn diện, lập nhiều thành tích mới.

Bốn là, xây dựng cơ quan, đơn vị có môi trường văn hóa quân sự tốt đẹp, lành mạnh, phong phú. Môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú giúp cán bộ, chiến sĩ tiếp nhận các giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” để phát triển, hoàn thiện phẩm chất, nhân cách; đồng thời, vô hiệu hóa sự tấn công của những yếu tố phản văn hóa, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bảo vệ “trận địa” tư tưởng văn hóa của Đảng trong Quân đội. Do đó, cần giáo dục, quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa. Qua đó, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chỉ huy, cán bộ, đảng viên, quần chúng về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện xây dựng môi trường văn hóa quân sự. Tiếp tục giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa quân sự, cốt lõi là hình ảnh, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới. Phát huy vai trò tự giác tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, chiến sĩ, trước hết là cán bộ chủ trì các cấp trong giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa quân sự. Tổ chức chặt chẽ việc quy hoạch xây dựng doanh trại gắn với quy hoạch hệ thống thiết chế văn hóa, cảnh quan, công trình văn hóa đảm bảo thống nhất, thiết thực, tạo môi trường và điều kiện sống tốt về tinh thần và sức khỏe của bộ đội. Mở rộng giao lưu văn hóa với Quân đội các nước, tạo điều kiện để phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc, Quân đội; tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa tiên tiến, tốt đẹp, lành mạnh từ bên ngoài. Kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, phản động, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, chức năng, nhiệm vụ và những giá trị văn hóa tốt đẹp của Quân đội. Chăm lo xây dựng các mối quan hệ trong sáng, lành mạnh trong Quân đội; trong đó, chú trọng xây dựng bầu không khí dân chủ, cởi mở, sự đoàn kết, thống nhất, tin tưởng lẫn nhau; nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy chế, quy định trong thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở; phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong tham gia xây dựng tổ chức đảng, tăng cường hiệu lực người chỉ huy các cấp. Trong thực hiện cần đa dạng hóa phương thức, như: tọa đàm dân chủ; giao lưu văn hóa, hoạt động liên kết giữa bộ đội với nhân dân địa phương, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, cách mạng, văn hóa dân tộc. Đẩy mạnh hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, tích cực tham gia phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Cả nước chung tay vì người nghèo”, v.v. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hệ thống thiết chế và các hình thái hoạt động văn hóa quân sự bảo đảm chính quy, tinh gọn, thống nhất, cơ cấu hợp lý; quản lý, tổ chức hoạt động hiệu quả. Chủ động sáng tạo ra các hình thức hoạt động mới theo phương châm: ngắn gọn, nhỏ lẻ, linh hoạt, kịp thời, phù hợp với điều kiện, khả năng nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa, tinh thần ngày càng cao của bộ đội. Kịp thời chỉnh đốn những hoạt động văn hóa không phù hợp, gây tốn kém, lãng phí; khắc phục bệnh phô trương, hình thức.

Văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” là kết tinh những giá trị văn hóa cao đẹp từ bản sắc dân tộc, truyền thống Quân đội, được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ kế thừa, phát huy trong quá trình sinh hoạt, học tập, công tác và chiến đấu. Giữ vững, phát huy giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” là nhiệm vụ rất quan trọng góp phần quét sạch chủ nghĩa cá nhân, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân./.

ST.

PHÒNG, CHỐNG "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH": CẢNH GIÁC VỚI DŨNG Ý XẤU!

     Hôm nay, ông bà Đậu-Tuyết thịt con gà, làm bữa cơm mừng con gái út vừa hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp THPT. Sau bữa cơm, thấy ông Đậu ngồi bần thần ngoài sân, bà Tuyết đi tới, vừa kéo ghế vừa hỏi:
- Ông lại có chuyện gì à? Lúc nãy nói chuyện với con thì rôm rả, sao giờ lại tâm trạng thế? Hay là đang tương tư bà nào? Tôi là tôi nghi lắm!

- Ơ, cái bà này, toàn nghĩ linh tinh. Tôi đang lo đây này, không hơi đâu mà đùa với chả cợt.

Thấy chồng gắt lên, bà Tuyết biết mình đùa vô duyên, liền rót chén nước chè đưa cho chồng, giọng nhẹ nhàng:
- Tôi đùa một tí thôi mà... Ông uống nước đi rồi nói cho tôi nghe nào...

- Hồi chiều, tôi ra đón con Ngà nhà mình thì gặp anh Tân cũng đợi con ở đấy. Anh Tân mở mạng xã hội đưa cho tôi xem. Tôi ngỡ ngàng khi đọc thấy đề thi ngữ văn trùng với suy đoán trên mạng, rồi có nhiều bình luận, chia sẻ, cho rằng có tiêu cực trong thi cử bà ạ!

Hiểu nỗi lo lắng của chồng, bà Tuyết nói:
- Tôi thấy ông vì lo quá mà mất khôn rồi đấy. Tin ông nói đã đăng trên các báo, đài, ti vi rồi. Hiện nay, công an đang vào cuộc điều tra, đã phát hiện một thanh niên chia sẻ trên TikTok và đang tiếp tục truy tìm nguồn tán phát thông tin này. Cơ quan công an khuyến cáo người dân không chia sẻ những thông tin sai lệch. Ban chỉ đạo cấp quốc gia Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 khẳng định, đề thi môn Ngữ văn được bảo mật an toàn tuyệt đối trước giờ thi. Còn thông tin ông đọc trên mạng gồm bài viết, bình luận, chia sẻ là những kẻ xấu cố tình tán phát làm ảnh hưởng đến tâm lý của thí sinh dự thi, gây hoang mang dư luận; nham hiểm hơn nữa còn là xuyên tạc công tác giáo dục, tổ chức thi cử để xảy ra tiêu cực của cơ quan các cấp đấy ông ạ!

Ở trong bếp, Ngà nghe rõ và hiểu đầu đuôi câu chuyện, liền mang đĩa cam lên mời bố mẹ, giọng vui vẻ:
- Con cảm ơn bố mẹ đã lo lắng cho con. Con trực tiếp tham gia kỳ thi và một số bạn ở các phòng khác đều nói kỳ thi năm nay tổ chức nghiêm túc, đúng quy chế. Còn con qua đối chiếu thấy kết quả làm bài cũng khả quan nên bố mẹ yên tâm ạ!

- Con nó nói đúng đấy ông ạ! Chương trình Thời sự tối nay cũng vừa đưa tin về kỳ thi được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, sâu sát và toàn diện; quá trình tổ chức thi bảo đảm an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế...

- Thì tôi cũng vì lo cho con nhà mình nên khi thấy thông tin, rồi đọc những bình luận đâm ra hoang mang. Tôi không biết đó là âm mưu của kẻ xấu, cố tình dựng chuyện, thổi phồng, xuyên tạc.

Nghe vậy, bà Tuyết nhìn ông Đậu, giọng nhẹ nhàng:
- Đấy ông thấy chưa, từ giờ phải chú ý cảnh giác với thông tin trên “phây”, trên "tích tốc", trên mạng đấy, không phải thấy gì cũng tin được đâu. Mình chỉ nên tin báo chí chính thống, không lại mắc mưu những kẻ có dụng ý xấu đấy ông ạ!
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐOÀN TIỂU BAN VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIV CỦA ĐẢNG LÀM VIỆC VỚI BAN CÁN SỰ ĐẢNG BỘ NGOẠI GIAO!

         Thực hiện kế hoạch công tác của Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV, ngày 6-7, Đoàn Tiểu ban Văn kiện do đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Thường trực Tiểu ban Văn kiện làm Trưởng đoàn đã khảo sát, làm việc với Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao!
Tại buổi làm việc, đại diện Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao đã trình bày Báo cáo về tình hình, kết quả triển khai đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng XIII, trong đó tập trung vào đánh giá bối cảnh, tình hình, các kết quả nổi bật, một số hạn chế, tồn tại, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, từ đó đề xuất một số nội hàm kiến nghị bổ sung vào đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIV sắp tới.

Đoàn Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng làm việc với Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao
 Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Thường trực Tiểu ban Văn kiện phát biểu chỉ đạo hội nghị.
Đoàn Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng làm việc với Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao
 Đoàn Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng làm việc với Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao.
Sau khi nghe Báo cáo của Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao và ý kiến trao đổi của các đồng chí thành viên trong Đoàn Tiểu ban Văn kiện và đóng góp của các đồng chí trong Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao, đồng chí Phan Đình Trạc đã phát biểu tổng kết buổi khảo sát, làm việc.

Đồng chí Phan Đình Trạc ghi nhận và đánh giá cao những nỗ lực, cố gắng và những kết quả đạt được của Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác đối ngoại. Mặc dù trong điều kiện bối cảnh khó khăn, thách thức nổi lên hết sức gay gắt, hoạt động đối ngoại đã được triển khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, sáng tạo, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử và tầm quan trọng chiến lược và lâu dài, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ XHCN, thu hút các nguồn lực và điều kiện thuận lợi từ bên ngoài phục vụ cho đất nước phát triển, nâng cao vai trò, uy tín, vị thế đất nước.

Hoạt động đối ngoại đã mở rộng và làm sâu sắc quan hệ với các đối tác với trọng tâm là các nước láng giềng, các nước lớn, bạn bè truyền thống, đặc biệt là đã nâng tầm, nâng cấp quan hệ với các nước lớn. Đối ngoại đa phương đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Việt Nam đã tự tin, chủ động đảm nhiệm thành công các vị trí, vai trò quan trọng tại các diễn đàn đa phương như thành viên Hội đồng Thống đốc IAEA nhiệm kỳ 2021-2023, Phó chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khoá 77 (9-2022/9-2023), thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (2023-2025)…

Bên cạnh đó, Việt Nam có nhiều sáng kiến, ý tưởng hợp tác, tham gia định hình các luật chơi và trật tự kinh tế - chính trị quốc tế. Đối ngoại cùng với quốc phòng, an ninh tăng cường bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; duy trì đường biên giới hòa bình, hợp tác và phát triển; ứng phó hiệu quả với thách thức an ninh phi truyền thống; đấu tranh hiệu quả trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền. Ngoại giao kinh tế được thúc đẩy toàn diện, ngày càng đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm đóng góp thiết thực và rất quan trọng vào phòng chống, thích ứng an toàn với dịch Covid-19, ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

Công tác người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được thực hiện hiệu quả theo Kết luận 12-KL/TW của Bộ Chính trị, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy hòa hợp dân tộc; công tác bảo hộ công dân bảo vệ các quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài. Công tác ngoại giao văn hóa được đổi mới và triển khai hiệu quả với nhiều hoạt động ngoại giao văn hóa lớn thu hút sự tham gia, đồng hành của các địa phương. Công tác thông tin đối ngoại được triển khai đồng bộ, kịp thời. Nội dung, phương thức hoạt động thông tin đối ngoại ngày càng đổi mới, đa dạng.

Đồng chí Phan Đình Trạc cũng chỉ ra một số hạn chế, khó khăn trong lĩnh vực đối ngoại, gợi mở một số vấn đề mà Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện như: cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, chuẩn hóa quy trình làm việc, kiện toàn bộ máy tinh gọn, hiệu quả; quan tâm phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao… Đoàn công tác ghi nhận và tổng hợp những kiến nghị của Bộ Ngoại giao để báo cáo Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng.

Thay mặt Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao, đồng chí Bùi Thanh Sơn nghiêm túc tiếp thu các ý kiến chỉ đạo của đồng chí Trưởng đoàn và các thành viên Đoàn khảo sát. Trên cơ sở các ý kiến chỉ đạo, đóng góp quan trọng đó, Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao sẽ tiếp tục cùng các bạn, bộ, ngành liên quan đóng góp hiệu quả, kịp thời, có chất lượng vào việc xây dựng đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng XIV./.

Theo TTXVN.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TĂNG TRƯỞNG GDP 6 THÁNG ĐẦU NĂM VƯỢT KỊCH BẢN ĐÃ ĐỀ RA, Ở MỨC CAO CỦA KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI!

     Ngày 6-7, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6-2024 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương để đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2024; tình hình thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP/2024 của Chính phủ; tình hình phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công, triển khai 3 Chương trình mục tiêu quốc gia; tình hình thực hiện ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm và một số vấn đề quan trọng khác!

Hội nghị được tổ chức trực tiếp tại Trụ sở Chính phủ và trực tuyến tới đầu cầu trụ sở UBND 63 tỉnh, thành phố. Dự hội nghị còn có các Phó thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đại diện lãnh đạo các Ban của Đảng, Ủy ban của Quốc hội; lãnh đạo một số Tập đoàn kinh tế Nhà nước cùng tham dự.

Mở đầu hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính trân trọng chuyển lời thăm hỏi và chúc sức khỏe của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới các đại biểu dự phiên họp, nêu rõ, sau phiên họp này, Chính phủ sẽ báo cáo Tổng Bí thư để xin ý kiến chỉ đạo tiếp theo.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, chúng ta đã đi qua nửa đầu năm 2024, trong bối cảnh tình hình khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi, trong nước nền kinh tế chịu tác động kép cả yếu tố bên ngoài và các vấn đề nội tại.

Trong bối cảnh đó, nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, các hoạt động kinh tế - xã hội phục hồi tích cực hơn, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước. Tăng trưởng GDP quý II đạt 6,93%, 6 tháng đầu năm đạt 6,42%, vượt kịch bản đề ra, là mức cao ở khu vực và trên thế giới. Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. An sinh xã hội, đời sống nhân dân được nâng lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm tốt. Đối ngoại được đẩy mạnh, uy tín, vị thế đất nước ta tiếp tục được nâng lên.

Thủ tướng nêu rõ, những năm vừa qua, tình hình vẫn có khó khăn, phức tạp, nhưng chúng ta vẫn thực hiện tăng thu tiết kiệm chi, cơ cấu lại đầu tư công hợp lý có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải; tiết kiệm các khoản chi thường xuyên, nhờ đó tiết kiệm được khoảng 700.000 tỷ đồng để thực hiện tăng lương từ ngày 1-7-2024 và đưa giải pháp tăng lương thực hiện lộ trình theo Nghị quyết số 27-NQ/TW với bước đi phù hợp khả năng chi trả.

Thủ tướng nêu rõ, bên cạnh những thành tích đạt được là rất cơ bản, phải thẳng thắn nhìn nhận vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, như: Sức ép lạm phát còn cao, tình hình sản xuất, kinh doanh còn khó khăn; tình hình trật tự an toàn xã hội, cháy, nổ, tai nạn giao thông ở một số địa bàn còn phức tạp; kỷ luật, kỷ cương có lúc, có nơi chưa nghiêm; vẫn còn tình trạng cán bộ, công chức sợ sai, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm… chưa khắc phục được.

Thủ tướng đề nghị các đại biểu phân tích sâu thêm những mặt được, chưa được, nhất là rút ra bài học kinh nghiệm công tác điều hành, quản lý thời gian qua, làm nền tảng cho thời gian tới để giữ đà tăng trưởng, khí thế để tiếp tục khắc phục những hạn chế, bất cập, thu được kết quả tốt hơn trong thời gian tới.

Thủ tướng đề nghị các đại biểu tập trung, phát biểu ý kiến làm rõ những vấn đề trên, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp, khả thi, hiệu quả để chỉ đạo, điều hành trong tháng 7 và những tháng còn lại của năm 2024, bảo đảm hiệu quả, tạo tiền đề thắng lợi quan trọng cho năm 2025, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Thủ tướng đề nghị nêu những vướng mắc, điểm nghẽn về pháp lý, quản lý điều hành, trên cơ sở đó, các bộ, ngành căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chủ động thực hiện hiệu quả, phù hợp tình hình. Các bộ, ngành, địa phương cần nỗ lực, cố gắng, quyết tâm cao với tinh thần xác định “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian thực hiện, rõ hiệu quả, rõ sản phẩm”, từ đó có cơ sở đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, khen thưởng, phê bình phù hợp.

Hội nghị đánh giá, tình hình kinh tế - xã hội tháng 6, quý II và 6 tháng đạt được nhiều kết quả quan trọng. Các cân đối lớn được bảo đảm, đáp ứng nhu cầu điện trong mùa nắng nóng. Nhiều dự án FDI lớn trong các lĩnh vực bán dẫn, điện tử, năng lượng... được đầu tư mới và mở rộng tăng vốn.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được quan tâm, đẩy mạnh; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống người dân tiếp tục được nâng lên. Chính phủ đã trình Quốc hội thực hiện cải cách tiền lương, tăng lương hưu, trợ cấp từ ngày 1-7-2024.

Đặc biệt, đã tổ chức tiếp đón thành công Tổng thống Nga Vladimir Putin sang thăm chính thức Việt Nam, đoàn công tác của Thủ tướng Chính phủ tham dự Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) và làm việc tại Trung Quốc, sang thăm chính thức Hàn Quốc... Việt Nam - Hoa Kỳ lần đầu tổ chức đối thoại kinh tế đối tác chiến lược toàn diện; thu hút các nhà đầu tư lớn đối với lĩnh vực chíp bán dẫn. Vị thế, uy tín của Việt Nam tiếp tục được nâng lên, mở ra các cơ hội hợp tác, hướng phát triển mới cho đất nước...

Trên cơ sở phân tích tình hình, hội nghị đề xuất 2 kịch bản tăng trưởng. Trong đó, kịch bản 1 là tăng trưởng cả năm đạt 6,5%, đạt cận trên mục tiêu Quốc hội quyết nghị, tăng trưởng quý III là 6,5%, quý IV là 6,6%. Kịch bản 2 là tăng trưởng cả năm đạt 7%, tăng trưởng quý III là 7,4%, quý IV là 7,6%, cao hơn kịch bản tại Nghị quyết số 01/NQ-CP là 0,7% và 0,6%./.

Theo TTXVN.
Yêu nước ST.

Phát huy vai trò của lực lượng tác chiến không gian mạng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

Trước sự phát triển mạnh mẽ của chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đòi hỏi lực lượng tác chiến không gian mạng cần nắm chắc chức năng, nhiệm vụ, tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, góp phần quan trọng cùng các lực lượng bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lực lượng tác chiến không gian mạng là bộ phận quan trọng của Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng, nhiệm vụ bảo vệ hệ thống thông tin quân sự, quốc phòng; tham gia bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng của quốc gia; sẵn sàng đáp trả đối phương, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Mặc dù mới thành lập theo yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhưng lực lượng tác chiến không gian mạng luôn nêu cao cảnh giác; trau dồi tinh thông nghiệp vụ; chủ động khắc phục khó khăn; đoàn kết, sáng tạo, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ, khẳng định vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng.



Tổng kết công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng mạng cho hệ thống thông tin của Văn phòng Quốc hội

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, trọng tâm là Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh 86 triển khai đồng bộ, toàn diện các chủ trương, giải pháp nâng cao hiệu quả tác chiến trên không gian mạng và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác xây dựng, phát triển lực lượng, quy hoạch, bảo đảm vũ khí, trang bị,... được lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ ở các cấp; hiệu lực, hiệu quả công tác tham mưu, quản lý nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng không ngừng được nâng cao. Việc xây dựng, phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, quản lý, bảo vệ an ninh, an toàn mạng được chú trọng; năng lực đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái thù địch, chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng từng bước được nâng cao, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng được bảo vệ vững chắc. Công tác nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ thông tin, an ninh mạng quân sự, quốc phòng và hợp tác quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, nền nếp, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội trong tình hình mới.

Thời gian tới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung, trên không gian mạng nói riêng đặt ra yêu cầu rất cao, trong khi lực lượng, phương tiện tác chiến trên môi trường này còn hạn hẹp. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá; cạnh tranh chiến lược, chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng cũng như việc làm chủ không gian mạng giữa các cường quốc ngày càng quyết liệt,... đòi hỏi lực lượng tác chiến không gian mạng cần phát huy vai trò nòng cốt, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nội dung, giải pháp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

Trước hếttập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tham mưu, quản lý nhà nước về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Trên cơ sở rút kinh nghiệm những tồn tại, hạn chế chỉ ra trong tổng kết 05 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”, lực lượng tác chiến không gian mạng toàn quân, trực tiếp là Bộ Tư lệnh 86 tiếp tục nâng cao chất lượng nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là các phương thức tác chiến thông tin, điện tử, không gian mạng trong các cuộc chiến tranh gần đây trên thế giới; âm mưu, thủ đoạn, phương pháp hoạt động chống phá, tấn công mới của các thế lực thù địch, các loại tội phạm mạng; lực lượng, phương tiện, khả năng phản ứng, xử lý, tác chiến, các yếu tố tác động, cản trở nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng cả trong thời bình và thời chiến, v.v. Trên cơ sở đó, đề xuất Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định chủ trương, đối sách, phương án xử trí kịp thời, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ. Trong đó, tập trung tham mưu các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý không gian mạng bằng cơ chế, chính sách, pháp luật gắn với sử dụng biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục, thuyết phục. Thường xuyên củng cố, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về công nghệ thông tin, viễn thông, an toàn thông tin, an ninh mạng và tác chiến không gian mạng. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối hợp trao đổi, chia sẻ thông tin và quy trình phối hợp xử lý các tình huống trên không gian mạng với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương. Cụ thể hóa, triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nghị quyết, kết luận, nghị định, chiến lược, luật,… liên quan nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, nhất là Nghị định số 01/2023/NĐ-CP, ngày 15/8/2023 của Chính phủ Quy định biện pháp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên không gian mạng. Siết chặt quản lý, tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện, phối hợp ngăn chặn, xử lý kịp thời thông tin xấu độc, hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin xuyên biên giới. Nâng cao năng lực tham mưu, quản lý nhà nước của cơ quan chức năng và chính quyền các cấp, góp phần bảo đảm an toàn, an ninh mạng và hoạt động tác chiến không gian mạng.

Hai làxây dựng, phát triển lực lượng tác chiến không gian mạng ngang tầm nhiệm vụ. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong bối cảnh Quân đội đang đẩy mạnh điều chỉnh lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, các cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng tác chiến không gian mạng cần tiếp tục, quán triệt, thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 02/4/2022 của Quân ủy Trung ương về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo gắn với thực hiện Nghị định số 98/2015/NĐ-CP, ngày 19/10/2015 của Chính phủ về Tổ chức, hoạt động của lực lượng tác chiến không gian mạng, v.v. Tập trung xây dựng lực lượng tác chiến không gian mạng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; lực lượng bảo đảm an toàn, an ninh mạng hiện đại, chuyên nghiệp, có chất lượng cao “thực sự trung thành, kỷ luật, trí tuệ, nhạy bén, hiệu quả, để đủ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng”. Trong đó, chú trọng kiện toàn tổ chức, biên chế, xây dựng hệ thống tổ chức chỉ huy vững mạnh gắn với xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh tiêu biểu, các tổ chức quần chúng, đoàn thể vững mạnh xuất sắc; nghiên cứu hoàn thiện các đề án, đề tài chuyên sâu về phát triển tổ chức, biên chế, duy trì hoạt động lực lượng tác chiến không gian mạng chuyên trách, bảo đảm đầy đủ, đồng bộ, thống nhất trong toàn quân; trang bị vũ khí, phương tiện chuyên ngành hiện đại. Tổ chức huấn luyện, giáo dục, đào tạo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng cường luyện tập, diễn tập các phương án tác chiến không gian mạng độc lập và tác chiến không gian mạng trong các loại hình tác chiến, bảo đảm cho Tổ quốc luôn giành thế chủ động, không bị bất ngờ trước mọi tình huống trên không gian mạng. Tiếp tục xây dựng, mở rộng, phát huy vai trò đấu tranh của lực lượng kiêm nhiệm trên không gian mạng trong toàn quân, toàn quốc, nhất là lực lượng 47. Coi trọng đầu tư bảo đảm đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, cơ sở dữ liệu quốc gia, phương tiện công nghệ thông tin hiện đại; hoàn thiện hệ thống tự động hóa chỉ huy; tích cực nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Ba làphát huy vai trò nòng cốt, chuyên trách trong đấu tranh, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Đây là vấn đề cốt lõi nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, tạo sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi trong tác chiến ở môi trường mới, đặc thù nhưng rất quan trọng này. Vì thế, lực lượng tác chiến không gian mạng cần tiếp tục bám sát phương châm: “Trinh sát kịp thời, ngăn chặn hiệu quả, phòng thủ vững chắc” triển khai đồng bộ các phương án trinh sát, phòng thủ, tấn công đáp trả, bảo vệ an toàn hệ thống thông tin quân sự, quốc phòng và hệ thống thông tin quốc gia. Tăng cường các biện pháp nghiệp vụ chuyên ngành quản lý, giám sát, phát hiện, ứng cứu, ngăn chặn, xử lý kịp thời các lỗ hổng bảo mật, phần mềm gián điệp, mã độc; vô hiệu hóa hoạt động tấn công mạng, tội phạm công nghệ cao lợi dụng không gian mạng phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, cũng như thực hiện các hành vi trái pháp luật, xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng. Tích cực tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của lực lượng tác chiến không gian mạng chuyên trách toàn quân và lực lượng kiêm nhiệm rộng rãi; đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trên phạm vi cả nước, xây dựng hạ tầng thông tin quốc gia, quốc phòng, an ninh hiện đại, đồng bộ; ưu tiên phát triển hệ thống công nghệ thông tin, vũ khí mạng bảo vệ hạ tầng trọng yếu của quốc gia và của quốc phòng, an ninh. Kết hợp tuyên truyền, giáo dục lịch sử, văn hóa dân tộc, xây dựng văn hóa lành mạnh với đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn văn hóa độc hại, bảo vệ vững chắc nền văn hóa Việt Nam trên không gian mạng. Nghiên cứu hoàn thiện lý luận nghệ thuật tác chiến không gian mạng cả ở cấp chiến thuật, chiến dịch và chiến lược, phù hợp với tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị, phương tiện chuyên ngành hiện đại; xây dựng tiềm lực, thế trận tác chiến không gian mạng, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng vững chắc, hiệu quả. Nâng cao trình độ quản lý, chỉ đạo, điều hành của chỉ huy các cấp trong hoạt động tác chiến thông tin, tác chiến không gian mạng, bảo vệ vững chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.

Bốn làphối hợp chặt chẽ với các lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề, phức tạp nhưng rất vẻ vang, lực lượng tác chiến không gian mạng tiếp tục tham mưu giúp Bộ Quốc phòng tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an toàn thông tin, an ninh mạng; phát triển không gian mạng quốc gia an toàn, rộng khắp; xây dựng văn hóa không gian mạng; ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, lệch chuẩn, bảo vệ an toàn, lành mạnh môi trường mạng; nâng cao năng lực phòng, chống chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng; phát triển phần mềm ứng dụng, xây dựng, hoàn thiện chính phủ điện tử, chuyển đổi số, v.v. Có cơ chế phối hợp, xây dựng huy động nguồn lực khoa học kỹ thuật và công nghệ của các cấp, ngành cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Cùng với đó, phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban chỉ đạo 35 các cấp, hệ thống cơ quan thông tấn báo chí trong và ngoài Quân đội xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả cơ chế chỉ đạo, hiệp đồng thống nhất thông tin đồng bộ, tác chiến thường trực, đa dạng, đa tuyến, tạo nền tảng vững chắc để phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng./.

ST.

Quan điểm Hồ Chí Minh về giữ gìn, bảo vệ đạo đức của Đảng và vận dụng vào phòng, chống suy thoái đạo đức hiện nay

 Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức, xem đây là nền tảng để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; đồng thời, là yếu tố căn bản chỉ đạo tư tưởng và hành động của ĐảngVì vậy, trong điều kiện Đảng cầm quyền thì không những phải thường xuyên xây dựng, nâng cao đạo đức cách mạng mà còn phải giữ gìn, bảo vệ và phòng, chống sự suy thoái đạo đức.

Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đề cao vai trò của đạo đức cách mạng và đưa việc xây dựng, giữ gìn, bảo vệ đạo đức của Đảng lên vị trí trước nhất. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người dự cảm rằng: Đảng cách mạng, người cách mạng “phải giữ chủ nghĩa cho vững”, “ít lòng ham muốn về vật chất”. Sau khi Đảng ra đời, lãnh đạo giành chính quyền và trong suốt tiến trình cách mạng, Người càng đặc biệt coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức, bảo vệ đạo đức của Đảng. Người yêu cầu: “Phải cố sửa chữa cho tiệt nọc các chứng bệnh, khiến cho Đảng càng mạnh khoẻ, bình an”\, bởi đạo đức cách mạng có vai trò to lớn, là nền tảng để xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: người có đạo đức thường dễ tiếp thu chân lý hơn. Đạo đức yếu kém, suy đồi dễ dẫn tới chủ nghĩa cơ hội thực dụng, dễ dao động, từ bỏ nguyên tắc, phai nhạt lý tưởng, tự đánh mất hoặc phản bội niềm tin, đức tin của chính mình và lý tưởng mục tiêu của Đảng, của cách mạng. Đạo đức cách mạng là sức mạnh của tổ chức, giữ cho tổ chức thống nhất ý chí và hành động. Người nhắc nhở: “Người cách mạng phải có đạo đức... Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”

Nhận thức sâu sắc vai trò của đạo đức cách mạng, Người khẳng định giữ gìn, bảo vệ đạo đức của Đảng là yêu cầu tất yếu, bởi Đảng là những con người cụ thể, sinh ra từ nhân dân và tồn tại trong lòng xã hội: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu...”. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ những biểu hiện hủ hóa, suy thoái đạo đức để phòng ngừa, ngăn chặn, tẩy trừ. Đó là các loại bệnh: tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, hẹp hòi,… và chúng có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân, đề cao tuyệt đối lợi ích cá nhân, đối lập với lợi ích của tập thể, “... những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”.

Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, nguy cơ suy thoái đạo đức trong Đảng luôn hiện hữu. Trong khi đó, các thế lực thù địch chống phá quyết liệt nền tảng tư tưởng của Đảng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm tha hóa về đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên,… đòi hỏi chúng ta phải cảnh giác, nhận diện và có cách thức phòng, chống hữu hiệu. Quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng ta đặc biệt đề cao xây dựng Đảng về đạo đức, quyết liệt đấu tranh phòng, chống nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đại hội XII của Đảng đã xác định xây dựng Đảng về đạo đức là một trong những nội dung căn bản, nhiệm vụ then chốt của Đảng. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ta chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; trong đó có 09 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống để mỗi cán bộ, đảng viên “tự soi, tự sửa”, phòng tránh vi phạm và nhận diện, đấu tranh bảo vệ, giữ gìn đạo đức của Đảng. Thời gian gần đây, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên xuất hiện tình trạng né tránh, sợ sai, sợ vi phạm, thiếu trách nhiệm, không dám nói, dám làm và đổi mới, sáng tạo,... dẫn đến trì trệ, chậm trễ trong triển khai thực hiện chức trách, nhiệm vụ; ngại đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Cùng với đó, các biểu hiện suy thoái về đạo đức trong Đảng vẫn diễn biến phức tạp, đang là nguy cơ đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ. Trước thực trạng đó, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức”. Để làm tốt vấn đề này, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, vận dụng sáng tạo quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn, bảo vệ đạo đức của Đảng, phòng, chống suy thoái đạo đức vào thực tiễn hiện nay; trong đó, chú trọng thực hiện một số nội dung giải pháp chủ yếu sau.

Một là, tăng cường giáo dục lý luận chính trịKiến thức lý luận chính trị có ý nghĩa quyết định tới việc hình thành phẩm chất, nhân cách người cách mạng, “soi đường” cho hoạt động tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, giúp mỗi người xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, có động cơ, thái độ đúng đắn; củng cố tinh thần yêu nước, niềm tin và ý thức giai cấp. Bên cạnh đó, kiến thức lý luận chính trị giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên phân biệt rõ sự khác nhau giữa đạo đức cách mạng với đạo đức truyền thống, đạo đức của giai cấp tư sản; là cơ sở để nhận biết và đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, cơ hội. Vì vậy, để giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, giữ vững tính đảng đòi hỏi mỗi đảng viên phải không ngừng học tập lý luận chính trị, không để lạc hậu về lý luận trước thực tiễn. Nội dung giáo dục lý luận tập trung vào quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức cách mạng. Để đạt hiệu quả cao, cần tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác giáo dục lý luận chính trị và thường xuyên đổi mới về hình thức, phương pháp; đồng thời, có biện pháp khắc phục triệt để bệnh lười học tập chính trị, học hình thức, qua loa, chiếu lệ.

Hai là, nhận diện, phân loại các biểu hiện suy thoái đạo đức để xử lý phù hợp. Việc bảo vệ đạo đức cách mạng cũng như đấu tranh chống kẻ địch là phải kiên quyết, không chịu khuất phục trước chủ nghĩa cá nhân. Thực tiễn cho thấy, trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những thành công cũng khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm. Và những kẻ xấu luôn triệt để lợi dụng những thiếu sót đó rồi tô vẽ, chống phá Đảng; bọn đầu cơ thì lợi dụng để đạt mục đích tự tư tự lợi; với những cán bộ, đảng viên “yếu ớt” tỏ thái độ thờ ơ, mặc kệ; với người máy móc, chủ quan thì đòi đuổi thẳng những người mắc khuyết điểm, sai lầm ra khỏi Đảng, v.v. Do đó, các cấp ủy, tổ chức đảng phải có thái độ đúng đắn, khách quan, khoa học trước những sai lầm, khuyết điểm ấy; chịu trách nhiệm trước sự suy thoái đạo đức của đảng viên trong tổ chức mình. Tổ chức đảng cần công khai thừa nhận, không che giấu những khuyết điểm, không sợ phê bình và phải kiên quyết sữa chữa: “Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mệnh”. Khi đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm tổ chức đảng phải giáo dục, chỉ rõ khuyết điểm, sai lầm, giúp họ sửa chữa, đứng lên; không chỉ vì một sai lầm nào đó mà không tìm hiểu, giáo dục đã vội cho họ là “cơ hội chủ nghĩa”, đã “cảnh cáo”, đã “tạm khai trừ”. Những cách quá đáng như thế đều không đúng.  

Ba là, phát huy dân chủ và tính tự giác của cán bộ, đảng viên, sự đóng góp của nhân dâncông luậnĐây là giải pháp quan trọng, thiết thực và chính xác nhất nhằm tìm ra hạn chế, khuyết điểm của từng cá nhân và tổ chức đảng để nghiêm túc sửa chữa, khắc phục kịp thời. Bởi, “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình....”. Vì thế, cấp ủy, tổ chức đảng phải chấp hành, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách. Đề cao tự phê bình và phê bình để phòng ngừa, ngăn chặn và chống lại những biểu hiện phi đạo đức xâm nhập vào Đảng. Tự phê bình và phê bình chính là vũ khí, là “thang thuốc hay nhất” làm cho phần tốt trong mỗi tổ chức và mỗi con người nẩy nở, phần xấu mất dần đi. Đi liền với đó cần sử dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp kiểm tra, giám sát từ trên xuống, từ dưới lên, kết hợp với kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp và sự tham gia đóng góp của nhân dân. Đảng phải tự đặt mình dưới sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của nhân dân, gần gũi, lắng nghe ý kiến phản biện của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, như lời Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.

Bốn là, thường xuyên tự chỉnh đốn Đảng và nâng cao tinh thần, trách nhiệm của tổ chứccá nhân đảng viên trong xây dựng Đảng về đạo đức. Theo đó, tập trung nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò xây dựng Đảng về đạo đức; từ đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong xây dựng, bảo vệ đạo đức của Đảng; đấu tranh chống những biểu hiện phi đạo đức, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Các tổ chức đảng tập trung lãnh đạo xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; duy trì, thực hiện nghiêm kỷ luật đảng. Đồng thời, thường xuyên tự chỉnh đốn làm trong sạch bộ máy, trong sạch đội ngũ, không chủ quan, lơ là, bởi: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”9.

Năm là, xây dựng, hoàn thiện quy chế, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước bảo đảm đồng bộ, chặt chẽ. Trong thực tế, luôn tồn tại nguy cơ những kẻ cơ hội tìm mọi cách chui vào Đảng để trục lợi và tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức, lối sống. Do đó, phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chế, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cách mạng, lấy đó làm thước đo, chuẩn mực rèn luyện, phấn đấu cho tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Chuẩn mực đạo đức cách mạng được biểu hiện trước hết ở phẩm chất tuyệt đối trung thành, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước và nhân dân lên trên hết,... Để phòng, chống suy thoái đạo đức thì đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn quán triệt tinh thần thượng tôn pháp luật, coi pháp luật là công cụ bảo vệ đạo đức. Tổ chức đảng ra sức ngăn chặn, xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm đạo đức. “Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới”, “Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hoá ra ngoài”, bởi nếu kỷ luật không nghiêm thì cán bộ, đảng viên sẽ rất dễ vi phạm đạo đức, trở thành những người độc đoán, chuyên quyền để mưu lợi ích cá nhân, bất chấp nguyên tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn, bảo vệ đạo đức của Đảng hiện nay vẫn giữ nguyên giá trị. Việc vận dụng quan điểm của Người vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống suy thoái đạo đức sẽ trực tiếp góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới./.

ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VIÊN CHỨC VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐƯỢC HƯỞNG TIỀN LƯƠNG MỚI NGAY TỪ NGÀY MÙNG 1 THÁNG 7!

     Chiều 6-7, tại Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 6-2024, trả lời câu hỏi của báo giới về vấn đề tăng lương cơ sở, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trương Hải Long cho biết, triển khai Nghị quyết số 27-NQ/TW, Chính phủ đã trình Bộ Chính trị thông qua Kết luận số 83-KL/TW làm cơ sở trình Quốc hội xem xét, thông qua các nội dung cải cách tiền lương, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và trợ cấp xã hội từ ngày 1-7-2024 (Nghị quyết số 143/2024/NQ-QH15 Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV)!
Chính phủ, các cấp có thẩm quyền đã chuẩn bị cho việc triển khai Nghị quyết số 27 theo lộ trình từ năm 2019 đến nay. Ngay sau khi Bộ Chính trị và Quốc hội thống nhất cho tăng mức lương cơ sở từ ngày 1-7, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP, vào ngày 30-6.

Tại khoản 1 Điều 6 đã quy định Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7. Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động quy định tại Nghị định số 73 được chi trả tiền lương và phụ cấp theo mức lương cơ sở mới ngay từ ngày 1-7.

Đối với các đối tượng được hưởng lương hưu, các chính sách liên quan đến mức lương cơ sở, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2024/NĐ-CP trong đó quyết định từ ngày 1-7-2024, điều chỉnh tăng 15% trên mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng của tháng 6-2024.

Đối với nhóm đối tượng nghỉ hưởng lương hưu, trợ cấp trước ngày 1-1-1995, sau khi điều chỉnh mà có mức hưởng thấp hơn 3,2 triệu đồng/tháng thì thực hiện điều chỉnh tăng 0,3 triệu đồng/tháng và có mức hưởng từ 3,2 triệu đồng/tháng đến dưới 3,5 triệu đồng/tháng thì điều chỉnh lên 3,5 triệu đồng/tháng.

Khoản 1, Điều 5 quy định Nghị định 75 áp dụng từ ngày 1-7 nên các đối tượng này sẽ được thụ hưởng ngay từ 1-7-2024.

* Trước đó, tại họp báo, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn cho biết, sáng cùng ngày, Chính phủ tổ chức Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6-2024 và Hội nghị trực tuyến với địa phương dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhằm sơ kết, đánh giá tình hình kinh tế - xã hội tháng 6, quý II và 6 tháng đầu năm 2024; tình hình thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia; giải ngân vốn đầu tư công cùng một số nội dung quan trọng khác; đề ra các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, chủ yếu, đột phá trong thời gian tới.

Trong 6 tháng đầu năm, nền kinh tế nhìn chung đã phục hồi trở lại như trước đại dịch Covid-19 và tiếp tục xu hướng tích cực, tháng sau cao hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước. Tính chung 6 tháng đạt nhiều kết quả quan trọng, cao hơn cùng kỳ trên hầu hết các lĩnh vực với 11 kết quả nổi bật. 

Trong đó, Chính phủ đã triển khai hiệu quả vấn đề tăng thu, tiết kiệm chi, cơ cấu lại đầu tư công để có khoảng 700.000 tỷ đồng thực hiện tăng lương với lộ trình phù hợp, được dư luận và người hưởng lương đồng tình cao. Đây là cố gắng rất lớn để có nguồn thực hiện việc tăng lương.

Nhiều tổ chức, chuyên gia quốc tế tiếp tục đánh giá cao kết quả và triển vọng của kinh tế Việt Nam./.
Theo TTXVN.
Môi trường ST.