Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

Việt Nam chăm lo cho người lao động bằng chính thực lực

 

Thời gian qua, trên không gian mạng xuất hiện quan điểm xuyên tạc, chống phá cho rằng: Việt Nam không có thực lực khi thực hiện chi trả lương mới cho người lao động; nguồn tiền chủ yếu đi vay của nước ngoài, bởi nền kinh tế đang suy thoái nghiêm trọng...

Cả về lý luận và thực tiễn đều minh chứng việc cải cách tiền lương, lộ trình tăng lương mà Việt Nam đang triển khai là chủ trương hết sức đúng đắn và nhân văn của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời, được triển khai theo đúng lộ trình và dựa trên thực lực của chính mình...

Chủ động tăng lương theo lộ trình  

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã xác định lộ trình triển khai cải cách tiền lương cụ thể từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; nhấn mạnh yêu cầu cải cách chính sách tiền lương, xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước...   

Sau thời gian chuẩn bị và bị trì hoãn cải cách tiền lương do dịch Covid-19, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã quyết nghị, thực hiện đầy đủ hai nội dung cải cách tiền lương khu vực doanh nghiệp theo đúng Nghị quyết 27.

Mức điều chỉnh tăng này đã được các cơ quan quản lý tính toán kỹ lưỡng trong bối cảnh chưa có đủ điều kiện bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay (chưa thực hiện các bảng lương và phụ cấp mới), tạo được sự thống nhất đồng thuận, hiệu ứng tâm lý tích cực và tác động kinh tế lan tỏa rất lớn trong xã hội do bảo đảm công bằng, hợp lý, hài hòa, có sự chia sẻ giữa người đang hưởng lương hưu và người đang đóng bảo hiểm xã hội, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa các thế hệ tham gia và thụ hưởng chính sách; đồng thời bảo đảm khả năng cân đối của ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm xã hội trong dài hạn; tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc, góp phần ổn định xã hội.  

Việt Nam chăm lo cho người lao động bằng chính thực lực
Ảnh minh họa / tuyengiao.vn 

Bám sát sức khỏe nền kinh tế, hỗ trợ tổng cầu, tạo động lực phát triển

Nhìn chung, các mức tăng lương ở Việt Nam thời gian qua thấp hơn mức tăng năng suất lao động, quy mô và thu nhập bình quân đầu người của nền kinh tế, cũng như thấp hơn nhu cầu chi tiêu bảo đảm đời sống ngày càng tăng nhanh của người lao động.

Năng suất lao động của người Việt trong giai đoạn 2010-2020 tăng trưởng 64% theo giá hiện hành, cao hơn so với nhiều nước trong khu vực, chủ yếu nhờ sự cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn.

Từ năm 2007 đến giữa 2023, quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng khoảng 7,7 lần; trong khi tiền lương cơ sở chỉ tăng khoảng 4 lần, từ mức 540.000 đồng/tháng kể từ ngày 1-1-2008 lên 2,34 triệu đồng/tháng từ ngày 1-7-2024.

Trong thời gian diễn ra dịch Covid-19, Việt Nam đã trì hoãn một đợt tăng lương theo lộ trình và cũng mới triển khai gói hỗ trợ tài chính với quy mô khiêm tốn ước khoảng 0,5% GDP so với gói kích thích tài chính khổng lồ tới khoảng 20% GDP như của Mỹ và một số nước khác cùng thời gian này. Bởi vậy, đợt tăng lương tháng 7-2024 là sự tiếp nối lộ trình tăng lương theo kế hoạch nêu trên và sự tiếp tục các giải pháp hỗ trợ tăng cả tổng cung và tổng cầu của chính sách phục hồi kinh tế hậu Covid-19.

Trên thực tế, việc tăng lương lần này không chỉ góp phần cải thiện mức sống của người hưởng lương, bảo đảm nguyên tắc tiền lương phải đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động nhận lương và gia đình họ theo nguyên lý kinh tế thị trường; mà còn cho phép tăng tổng cầu có khả năng thanh toán của xã hội; từ đó, góp phần kích thích sản xuất và củng cố động lực tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh tổng cầu xã hội còn thấp và thị trường thế giới chưa có sự đột phá mạnh mẽ gắn với chu kỳ kinh tế đang chậm lại của nền kinh tế thế giới....

Mặt khác, cơ sở vật chất-tài chính cho tăng lương đã được chuẩn bị khá chu đáo. Theo đó, Chính phủ đã tích lũy cân đối được 913.000 tỷ đồng ngân sách nhà nước làm nguồn chi trả đáp ứng tổng nhu cầu kinh phí điều chỉnh lương cơ sở tăng 30%, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp lũy kế 3 năm 2024-2026 tăng thêm là hơn 900 nghìn tỷ đồng.

Đặc biệt, nền tảng tăng lương của Việt Nam ngày càng được củng cố. Suốt thời gian từ khi bắt đầu đại dịch Covid-19 đến nay, nền kinh tế vĩ mô luôn ổn định; lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm tốt. Việt Nam đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực, cải thiện vị thế quốc tế nhờ duy trì động lực tăng trưởng cân bằng cả trong và ngoài nước; sức mạnh nội lực và vị thế kinh tế quốc tế được thế giới ghi nhận và dự báo tiếp tục sự hồi phục và tăng trưởng tích cực...

 Cụ thể, theo Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 có nhiều khởi sắc về sự đồng đều và chất lượng tăng trưởng, với GDP tăng 6,42%, vượt kịch bản đề ra và là mức cao của khu vực và thế giới. Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tháng 4-2024 cũng chỉ ra, Việt Nam là đại diện Đông Nam Á duy nhất lọt vào top 10 với dự báo tăng trưởng 6,4% từ năm 2024 đến 2029 và sẽ trải qua một giai đoạn tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đặt đất nước vào hàng ngũ các nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.

Theo ông Paulo Medas, Trưởng đoàn Tham vấn và giám sát kinh tế vĩ mô Việt Nam của IMF, Việt Nam tiếp tục hội nhập và nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhanh chóng trong nửa đầu năm 2024, sau giai đoạn khó khăn cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi nhanh hơn dự kiến, một phần nhờ vào xuất khẩu mạnh và đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như hiệu quả từ những hành động của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, như việc cắt giảm lãi suất, gia tăng đầu tư công, tăng lương...

Còn theo báo cáo công bố tháng 4-2024 của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam được giữ nguyên dự báo mà WB đã công bố đầu năm là sẽ tăng trưởng 5,5% GDP trong năm 2024 và tiếp tục nằm trong nhóm đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn, nằm trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao với tiềm năng tăng trưởng khoảng 8%.

Đặc biệt, những năm gần đây, cùng với duy trì tốc độ và động lực tăng trưởng ổn định, cân đối ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối có nhiều cải thiện, liên tục vượt dự toán kế hoạch thu ngân sách nhà nước hằng năm và duy trì mức dự trữ ngoại hối cao; kiểm soát tốt nợ công và thâm hụt ngân sách nhà nước dưới mức Quốc hội cho phép. Bởi vậy, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới liên tục duy trì mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba2 (Moody’s ) hoặc BB+ (Fitch Ratings) với triển vọng chung là “Ổn định”. Trong đó, tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings (Mỹ) xếp hạng tín nhiệm quốc gia đối với Việt Nam trong dài hạn ở mức BB+ và trong ngắn hạn ở mức B. Triển vọng về xếp hạng tín nhiệm trong dài hạn là “Ổn định”.  

Những kết quả và triển vọng tăng trưởng kinh tế tích cực như nêu trên là minh chứng thuyết phục khẳng định và tiếp tục tạo nền tảng vững chắc cải thiện nguồn thu ngân sách nhà nước và thu nhập xã hội bảo đảm cho cuộc cải cách tiền lương thời gian tới ở Việt Nam thực sự dựa vào nguồn lực của chính mình và góp phần làm tăng nguồn nội lực đó...

Tiếp tục các giải pháp tăng lương bền vững

Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, chắc chắn, bài bản, khoa học để thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Năm 2024, Quốc hội giao Chính phủ triển khai thực hiện các nội dung đã rõ, đủ điều kiện để thực hiện, gồm: Hoàn thiện chế độ nâng lương; bổ sung chế độ tiền thưởng; quy định nguồn kinh phí thực hiện chế độ tiền lương; hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập. Mới đây, ngày 30-6, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó đã hướng dẫn cụ thể nguồn kinh phí thực hiện việc tăng lương cơ sở...

Về trung và dài hạn, Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ đề ra cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, tập trung vào việc xây dựng các bảng lương và chế độ phụ cấp mới, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về các chế độ, chính sách gắn với mức lương cơ sở, vị trí việc làm trong hệ thống chính trị và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, bảo đảm tính khả thi, công bằng, hợp lý, tổng thể, phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội và nguồn lực của đất nước.

Theo Bộ Nội vụ, tính đến nay, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và lãnh đạo các bộ, ngành đã ban hành 39 thông tư hướng dẫn và 100% bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành phê duyệt Đề án vị trí việc làm. Thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng danh mục vị trí việc làm xã hội; bản mô tả công việc và khung năng lực của vị trí việc làm; tiếp tục rà soát tổng thể tất cả bảng lương và nghiên cứu, tính toán hài hòa vấn đề phụ cấp, khen thưởng và một số chế độ đặc thù của lực lượng vũ trang và của cán bộ, công chức, viên chức một số chuyên ngành (đặc biệt là phụ cấp theo nghề) mà trong quá trình thực hiện có phát sinh bất hợp lý.... Trên cơ sở đó tính toán nguồn lực và có giải pháp thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tiền lương xã hội.

Tóm lại, việc tăng lương cho người lao động đang được triển khai theo chủ trương và lộ trình trung và dài hạn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ; đồng thời, bám sát sự phát triển chung của nền kinh tế, phù hợp với các nguồn lực tài chính hiện có của đất nước. Việc tăng lương hay cải cách tiền lương là một sự quan tâm đặc biệt đến đời sống nhân dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận được sự đồng thuận của nhân dân, đáp ứng được mong mỏi của người lao động, thể hiện tính nhất quán, tính ưu việt, nhân văn của chế độ ta...

TS NGUYỄN MINH PHONG

QUAN NIỆM DÂN TỘC BẢN ĐỊA KHÔNG TỒN TẠI Ở VIỆT NAM

 

       

                                                                                                

   Thời gian gần đây, các phần tử có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, cực đoan trong và ngoài nước đã lợi dụng bản “Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc bản địa” của Liên hợp quốc để vận động các quốc gia phương Tây, các tổ chức quốc tế công nhận ở Việt Nam có “dân tộc bản địa”. Đồng thời, kích động các dân tộc thiểu số, nhất là người Thượng ở Tây Nguyên đòi quyền tự quyết. Điển hình là trên trang Quyenduocbiet, BPSOS, viết: “Người Thượng là Dân Tộc Bản Địa và phải được công nhận như vậy”, cho rằng, người Thượng và người Hmong theo đạo Cơ đốc, người, người Chăm theo đạo Hồi và người Khmer Krom theo đạo Phật, người thiểu số, nhất là người Thượng ở Tây Nguyên Việt Nam là “người bản địa”. Vì vậy, BPSOS kêu gọi Liên hợp quốc yêu cầu Việt Nam công nhận điều này và không được phân biệt đối xử, bỏ rơi người bản địa. Đây thật sự là hành động nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đi tới phá vỡ sự toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước của dân tộc ta.

TỰ DO TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM LÀ SỰ THẬT KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

 



Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn biến tôn giáo thành “ngòi nổ” để xuyên tạc, kích động, gây mất ổn định chính trị - xã hội, phá hoại tư tưởng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bài viết Thế nào là Tự Do Tôn Giáo? của Nguyên Anh đang được phát tán rộng rãi trên nhiều diễn đàn mạng xã hội những ngày gần đây là một ví dụ. Thông qua việc “luận bàn” một cách vô căn cứ về quyền tự do tôn giáo, Nguyên Anh xuyên tạc rằng: Trong chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam, tôn giáo hoàn toàn không có tự do; và Việt Nam đang bị thế giới lên án là không có tự do tôn giáo. Những luận điệu này hoàn toàn sai trái, bịa đặt, phản ánh một cách lệch lạc tình hình tự do tôn giáo ở nước ta hiện nay.

ĐẤU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ, CÔNG AN

 


 


Thực hiện nghĩa vụ quân sự vừa là niềm vinh dự, tự hào, vừa là quyền và nghĩa vụ thiêng liêng, cao cả của mỗi công dân. Điều này đã được quy định trong Hiến pháp. Vậy mà, cứ đến mỗi “mùa tuyển quân” các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động lại tung hô những luận điệu xuyên tạc, kích động chống phá công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ tại các địa phương và việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của mỗi người. Gần đây, có bài viết chỉ trích: hiện nay, trong khi các nước quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì “chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi nghĩa vụ quân sự, Công an”. Một số trang web còn đăng tải các cảnh bạo lực trong quân đội nước ngoài, cảnh quân đội tham chiến ở một số khu vực trên thế giới rồi cài lời bình xuyên tạc là “chuyện ở trong quân ngũ Việt Nam”.

Sự phản động, thù địch của một nhóm người có ảnh hưởng trên không gian mạng

 

Sự bùng nổ của mạng xã hội (MXH) với khả năng tùy biến, cá nhân hóa và tốc độ truyền tin ngày càng cao mang lại những lợi ích không thể phủ nhận cho cộng đồng. Tuy vậy, với mục đích và ý đồ xấu, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam đang lợi dụng điều này để xây dựng một thế lực ảo-KOLs thù địch, phản động trên không gian mạng. Với khả năng dẫn dắt tư tưởng một bộ phận cộng đồng mạng, KOLs thù địch, phản động tìm mọi cách điều hướng dư luận, gieo rắc tư tưởng độc hại nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta.

“Lính đánh thuê” trên không gian mạng

KOLs (Key Opinion Leaders)-được hiểu là những người có ảnh hưởng lên một bộ phận nhất định trong cộng đồng mạng. Thông qua các ứng dụng như Facebook, YouTube, TikTok... KOLs xây dựng và sở hữu một kênh riêng như "cơ quan truyền thông" cá nhân, thu hút lượng lớn người theo dõi và ủng hộ, qua đó có thể chi phối, điều hướng dư luận trên không gian mạng, tạo ra các tác động ở những chiều cạnh khác nhau, với những mức độ, phạm vi khác nhau đối với cộng đồng và xã hội.

Sự phản động, thù địch của một nhóm người có ảnh hưởng trên không gian mạng

Một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam đang lợi dụng MXH để xây dựng một thế lực ảo-các KOLs thù địch, phản động trên không gian mạng. Ảnh minh họa: sotttt.sonla.gov.vn

Hiện nay, KOLs có thể được chia thành 3 nhóm chính: Những người có uy tín, ảnh hưởng trong xã hội, bao gồm các chính khách, nhà khoa học, nhà báo, doanh nhân, văn nghệ sĩ...; những người hoạt động sáng tạo trên không gian mạng, thu hút nhiều người quan tâm, theo dõi nhờ bản sắc riêng của cá nhân, không phân biệt địa vị, ngành nghề, trình độ chuyên môn; những người có khả năng tạo ra ảnh hưởng gián tiếp thông qua quản lý các kênh truyền thông có lượng theo dõi lớn trên không gian mạng, sở hữu năng lực kỹ thuật ảnh hưởng đến hoạt động của người khác trên không gian mạng.

Bên cạnh KOLs hoạt động lành mạnh, có ảnh hưởng tích cực đến cộng đồng mạng và đời sống xã hội, xuất hiện một bộ phận KOL lạm dụng quyền lực MXH, sa vào “truyền thông bẩn”, “câu view” để kiếm tiền, đánh bóng bản thân. Thậm chí, có một bộ phận thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật, mang tư tưởng thù địch, bị các thế lực xấu lợi dụng, dung túng với mục đích chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam-đó chính là KOLs thù địch, phản động.

KOLs thù địch, phản động khác với KOLs thông thường cả về bản chất, quá trình hình thành lẫn nội dung, phương thức và mục đích hoạt động. Xét về bản chất, KOLs thù địch, phản động là đối tượng có khả năng gây phương hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc, cần phải đấu tranh loại bỏ. Những đối tượng này luôn được hậu thuẫn, giúp sức cả về vật chất, tinh thần bởi các thế lực thù địch chống phá Việt Nam. Đối với KOLs thù địch, phản động, mục tiêu “dân chủ”, “nhân quyền”... không phải là lý tưởng cần thực hiện mà chỉ là chiêu bài, phương thức trục lợi. Nói cách khác, thực chất, họ là tay sai, những “con rối”, “lính đánh thuê” trên không gian mạng của các tổ chức khủng bố, phản động lưu vong nước ngoài, của các thế lực thù địch đối với Việt Nam.

Quá trình trở thành KOLs thù địch, phản động thường theo một mô-típ là: Từ bất mãn khi không đạt được mục đích vị kỷ của cá nhân hoặc do sa đọa, vi phạm pháp luật đến thể hiện quan điểm chống phá chính quyền trên không gian mạng, bị các thế lực thù địch lôi kéo, các tổ chức phản động và cơ quan truyền thông thiếu thiện chí ở nước ngoài hà hơi tiếp sức, cuối cùng, được “tuyển mộ” vào các tổ chức phản động, điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam trên không gian mạng. Có thể kể đến một số KOL có tư tưởng thù địch, phản động như: Trương Quốc Huy, Lê Văn Thương, Đường Văn Thái... 

Về nội dung, KOLs thù địch, phản động không “sáng tạo nội dung số” lành mạnh như KOLs chân chính, mà lấy thông tin sai trái, bịa đặt, phản động để thu hút nhiều người theo dõi, coi đó là phương thức sinh tồn, vừa nhằm đạt mục đích “đấu tranh”, vừa kiếm tiền từ quảng cáo, sự ủng hộ của hội viên kênh... trên các nền tảng MXH. Họ tập trung lan truyền những thông tin sai trái, bịa đặt, xuyên tạc, bóp méo sự thật lịch sử và tình hình đất nước Việt Nam; xuyên tạc, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước; phủ nhận thành quả của công cuộc đổi mới; khoét sâu vào những “khoảng trống thông tin” trước, trong và sau các sự kiện chính trị, vụ việc phức tạp, nhạy cảm để tung tin hỏa mù, hướng lái, dẫn dắt dư luận, tấn công, tác động vào sự hiếu kỳ của công chúng, gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận xã hội.

Về phương thức hoạt động, KOLs thù địch, phản động ngày một tinh vi, xảo quyệt hơn khi được đào tạo, huấn luyện chuyên nghiệp; biết triệt để lợi dụng những ưu thế của MXH (phát trực tiếp, không cần qua quy trình xuất bản) và hoạt động ngày càng có tổ chức, có sự phối hợp, hỗ trợ nhau chặt chẽ. Chúng biết khai thác nhiều chủ đề chính trị-xã hội mà đông đảo người dân quan tâm, đưa ra những mục tiêu rất cao cả và gắn liền với lợi ích của người dân để thu hút dư luận. Kết hợp cập nhật tin bài về tình hình thời sự trong nước, song tiếp cận theo hướng có tính đả phá, kích động với tổ chức các “chiến dịch” quy mô lớn gắn với các sự kiện, các vụ việc phức tạp trong nước.

Chúng cũng triệt để tận dụng các nguồn lực trên không gian mạng để xây dựng kênh ngoại vi, kênh “sạch” nhằm duy trì nguồn doanh thu ổn định. Đồng thời, thực hiện “tẩy trắng” kênh, tái sử dụng nội dung video, móc nối với các đối tượng trong nước để chuyển nhượng, tái sử dụng kênh để hoạt động không bị gián đoạn khi bị cơ quan chức năng xử lý. Bên cạnh đó, chúng cũng áp dụng các phương thức kỹ thuật để lách thuật toán kiểm soát của các MXH cũng như tăng đề xuất, tương tác đến người dùng, nhằm tán phát rộng hơn, nhanh hơn các thông tin sai trái, thù địch, phản động.

Vật chủ mang virus độc hại

Theo thống kê của We Are Social và Meltwater, tính đến tháng 1-2023, Việt Nam có 77 triệu người dùng MXH, trong đó, người dùng Facebook là hơn 66 triệu người, YouTube là 63 triệu người, TikTok gần 50 triệu người. Sự phát triển mạnh mẽ của internet với sự tham gia MXH ngày càng đông đảo của công chúng trong nước đã và đang được KOLs thù địch, phản động triệt để lợi dụng để tán phát thông tin xấu độc. Đơn cử đối tượng Trương Quốc Huy-một KOL thù địch, phản động cộm cán đang sở hữu kênh YouTube N10TV với 1,54 triệu người đăng ký; đã xuất bản 4.008 video có thông tin sai trái, thù địch; có tổng hơn 1,2 tỷ lượt xem.

Trương Quốc Huy cũng sở hữu trang cá nhân Facebook với hơn 130.000 người theo dõi; trang TikTok hơn 10.000 người theo dõi. Với lượng người theo dõi lớn, Trương Quốc Huy thường tán phát thông tin sai trái, thù địch, phản động rộng rãi trong cộng đồng mạng. Đáng ngại hơn, sự tung hô, giúp sức của KOLs thù địch, phản động khác ở trong và ngoài nước; của các hãng truyền thông thiếu thiện chí và các tổ chức phản động lưu vong nước ngoài, các video, clip, bài viết... của Trương Quốc Huy luôn được đồng loạt chia sẻ, tái sử dụng, tán phát, khiến cho lượng truy cập tăng lên nhiều.

Thực tế trên cho thấy, KOLs thù địch, phản động là mối nguy hại thường xuyên đối với Việt Nam. Hiện nay, với sự xuất hiện của KOLs có tầm tác động, ảnh hưởng lớn trên MXH với nhiều bài đăng nhằm mục đích đả phá, kích động, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đưa ra những nhận định, đánh giá thiếu khách quan, phiến diện về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước “đã tạo nên những xu hướng thông tin dẫn dắt cộng đồng mạng”, nhất là trong các vụ việc lớn, phức tạp, như: Vạn Thịnh Phát-SCB, FLC, Tân Hoàng Minh, Việt Á...

Tính chất nguy hại của KOLs thù địch, phản động còn thể hiện ở chỗ họ thi hành “mệnh lệnh” của các “ông chủ” ở nước ngoài với mục tiêu xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. KOLs thù địch, phản động-với bản chất là “lính đánh thuê”-không ngần ngại trở thành những vật chủ mang virus độc hại, đã và đang ngày đêm tán phát, lây lan trên MXH, từng bước gặm nhấm niềm tin của công chúng, của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những virus độc hại này trực tiếp tấn công vào nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phá hoại quá trình đổi mới, hội nhập, phát triển của đất nước; gây chia rẽ nội bộ, gây hoài nghi, bức xúc trong nhân dân, kích động cái gọi là “biểu tình trong tâm thức”, “vượt biên trong tư tưởng” trong cộng đồng mạng như bước chuẩn bị cho một cuộc “cách mạng màu” ở Việt Nam trong tương lai.

Hiện nay, hoạt động chống phá của KOLs thù địch, phản động trên không gian mạng rất phức tạp, với những thủ đoạn, phương thức rất tinh vi và liên tục thay đổi theo tình hình thực tế. Chính vì vậy, các chủ thể, lực lượng, trực tiếp là các cơ quan chức năng cần nhận diện chính xác, phân loại rõ mức độ, tính chất nguy hại, phương thức hoạt động... của từng KOL thù địch, phản động để vạch trần âm mưu, bản chất thâm độc của họ.

Trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt phương châm “lấy xây để chống”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi chúng ta cần nâng cao khả năng tự phòng, chống, vạch trần âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị, nhất là trên không gian mạng. Các cơ quan chức năng, nhà trường cũng như các cơ quan báo chí tiếp tục chú trọng, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức đúng đắn giá trị và bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, xây dựng bản lĩnh, niềm tin vững chắc vào chế độ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã chọn.

Đại tá, TS NGUYỄN VĂN NAM và Trung tá, TS LƯƠNG THANH DUY (Khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Trường Sĩ quan Lục quân 1)

Bác bỏ luận điệu lợi dụng thiên tai để xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước

 


Trong khi Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị đang nỗ lực cùng ứng phó khắc phục hậu quả bão lũ giúp nhân dan sớm ổn định cuộc sống thì trên không gian mạng lại xuất hiện một số phát ngôn phiến diện, lạc lõng, xuyên tạc sự thật. Khi nhân dân ta chủ động sẻ chia, đùm bọc, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, thì trên không gian mạng nổi lên những luận điệu rêu rao rằng: “Đừng trông chờ gì vào Đảng, Nhà nước, người dân phải tự cứu lấy nhau”, “Chỉ có dân cứu dân khi hoạn nạn, dân không thể kêu cứu chính quyền mà chỉ có thể nhờ ai đó giúp mình”, “cán bộ đi chống bão chỉ cưỡi ngựa xem hoa”, hay “vai trò của Quân đội, Công an ở đâu khi người dân kêu cứu”.

Tình yêu lao động - một đức tính quý báu của Bộ đội Cụ Hồ

 

Sinh ra từ nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh, 80 năm qua, dù trong chiến tranh hay thời bình, phẩm chất cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất của Bộ đội Cụ Hồ ngày càng được củng cố, phát triển lên tầm cao mới. Phẩm chất ấy như gen di truyền có trong huyết quản mỗi người lính và góp phần làm cho văn hóa Bộ đội Cụ Hồ tỏa sáng.

Bộ đội luôn có tinh thần hăng say lao động, tăng gia sản xuất

Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân. Trên thế giới, hiếm có quân đội của quốc gia nào có được phẩm chất cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất như Quân đội ta.

Trong lịch sử quân sự thế giới, hầu hết quân đội các nước sử dụng bảo đảm hậu cần chuyên trách nên binh sĩ của họ chỉ làm các nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu và nhiệm vụ chuyên môn được phân công mà không phải làm bất cứ nhiệm vụ nào khác. Điển hình như đội quân nhà nghề-lính đánh thuê từng xâm lược nước ta trong thế kỷ 20.

Khi tác chiến tại chiến trường, ban đêm họ thường trú quân trong căn cứ kiên cố hoặc bán kiên cố, ban ngày di chuyển và càn quét xung quanh, thậm chí đốt phá, cướp gia súc, gia cầm, lương thực của dân ta. Chưa bao giờ binh lính của đội quân nhà nghề tham gia lao động sản xuất hoặc làm các công việc khác ngoài tác chiến và phục vụ tác chiến, càn quét quân đối phương.

Tình yêu lao động - một đức tính quý báu của Bộ đội Cụ Hồ
Chiến sĩ Trung đoàn 12 (Sư đoàn 3, Quân khu 1) chăm sóc vườn rau xanh của đơn vị. Ảnh: BÙI HIỆP 

Khác với phương thức tổ chức đó, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, các đơn vị của Quân đội ta ngoài thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu còn tổ chức lao động sản xuất. Chủ trương này được kế thừa từ truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông, góp phần rèn luyện phẩm chất cần cù, sáng tạo của Bộ đội Cụ Hồ ngày càng hoàn thiện.

Trong lịch sử dân tộc ta, đội quân lao động sản xuất được các triều đại phong kiến Việt Nam vận dụng từ chính sách “ngụ binh ư nông”, “động vi binh, tĩnh vi dân”. Quân dự bị là người lao động sản xuất tại địa phương, khi cần thiết thì huy động họ trở thành binh lính bảo vệ đất nước.

Trước khi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) và những năm sau đó, ở các căn cứ cách mạng đã hình thành những đội vũ trang với vũ khí thô sơ và trình độ huấn luyện, tác chiến, tổ chức chỉ huy hết sức khiêm tốn. Lúc đó, bảo đảm hậu cần của những đội vũ trang hoàn toàn là tự cấp, tự túc và dựa vào dân là chính.

Các chiến sĩ phát nương trồng ngô, sắn, săn bắt thú rừng để cải thiện sinh hoạt, khi di chuyển thì bàn giao lại nương ngô, bãi sắn cho dân chăm sóc, thu hoạch. Do điều kiện sinh hoạt thiếu thốn nên sức khỏe giảm sút, nhiều đơn vị quân số bị sốt rét đến gần một nửa, thuốc chữa bệnh chủ yếu là cây thuốc kiếm trong rừng, các chiến sĩ bị ốm nặng phải gửi nhân dân chăm sóc.

Nhờ dựa vào nhân dân, các đội vũ trang cách mạng đã giải quyết được vấn đề cung cấp lương thực, thực phẩm, liên tục hoạt động, chiến đấu góp phần củng cố và mở rộng các căn cứ cách mạng, phát triển lực lượng, gấp rút chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang, khôi phục nền độc lập. Đây cũng chính là nền móng hình thành phẩm chất lao động cần cù, sáng tạo của Bộ đội Cụ Hồ cho đến ngày nay.

Trong quá trình xây dựng Quân đội, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đẩy mạnh tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, cán bộ, chiến sĩ toàn quân đã không ngừng học tập tấm gương của Bác Hồ trong lao động, tăng gia sản xuất. Các căn cứ kháng chiến, các binh trạm đều phát triển tăng gia sản xuất. Đây là một trong những nội dung thuộc về nghệ thuật đặc sắc của Quân đội ta trong công tác xây dựng hậu cần tại chỗ. Có thể nói rằng, phong trào lao động cần cù, sáng tạo trong tăng gia sản xuất của Quân đội là một nét đặc trưng nổi bật của quân đội cách mạng và cũng là tiền đề, động lực làm nên phẩm chất cần cù, sáng tạo của Bộ đội Cụ Hồ.

Tôi từng đọc hồi ký của Đại tá Trần Công An (tên thường gọi là Hai Cà), Anh hùng LLVT nhân dân, người được ví như "cha đẻ" của chiến thuật đặc công thời hiện đại trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong cuốn hồi ký, ông nói về sự khó khăn khi được Đảng giao phụ trách phát triển tăng gia sản xuất ở rừng Đồng Nai, tạo cơ sở vật chất hậu cần phục vụ kháng chiến lâu dài. Nhờ ý chí vượt khó, sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm, hăng say lao động sản xuất, trong hơn 3 năm, Trần Công An đã chỉ huy bộ đội tạo ra một nông trường với lượng lương thực, thực phẩm đủ đáp ứng nhu cầu kháng chiến lâu dài trên địa bàn. Sau chiến tranh, Anh hùng Hai Cà không nghỉ ngơi mà tập trung khai phá đất rừng hoang hóa, làm trang trại và một thời là điển hình làm kinh tế giỏi của tỉnh Đồng Nai.

Tôi cũng đã đọc cuốn hồi ký của Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Lê Bá Ước, nguyên Đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đoàn 10, qua đó hiểu được tinh thần cần cù của cán bộ, chiến sĩ trong Chiến khu rừng Sác. Với điều kiện sống ở vùng nước mặn, sống trong bom đạn và sự càn quét chà đi xát lại hàng trăm lần của địch, nhưng cán bộ, chiến sĩ Đoàn 10 vẫn kiên cường bám trụ, không chỉ tăng gia cải thiện đời sống bằng nhiều cách mà còn kiên trì tạo ra được những hầm nước ngọt đủ dùng trong điều kiện nước mặn, sình lầy.

Tình yêu lao động của Bộ đội Cụ Hồ góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh

Nhìn lại 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta, có thể khẳng định rằng, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất ở nhiều đơn vị chẳng hề thua kém so với những chiến công trong chiến đấu.

Từ lâu, tăng gia sản xuất trở thành một trong những chế độ được duy trì trong các đơn vị Quân đội. Người lính tự đóng gạch xây nhà; tự khai thác tre nứa làm mái và tiếp tục tăng gia sản xuất với tinh thần “Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” (Hoàng Trung Thông). Bộ đội Cụ Hồ coi “sản xuất cũng là một mũi tiến công” nên đã sáng tạo ra nhiều phong trào, đặc biệt là từ Phong trào thi đua “Ngành hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, các mô hình tăng gia quanh bếp, quanh vườn, vườn-ao-chuồng (VAC), vườn-ao-chuồng-rừng (VACR), phát triển đồi rừng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy cầm... ở các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng phát triển mạnh. Nhờ phong trào này mà rất nhiều đơn vị trong toàn quân hiện nay tự túc được 100% rau xanh, thịt, cá.

Thực hiện chủ trương củng cố quốc phòng gắn liền với phát triển kinh tế, các nhà máy, doanh nghiệp, xí nghiệp của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật và các quân chủng, binh chủng đã sản xuất được nhiều mặt hàng phục vụ dân sinh, xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước. Đi đầu trong triển khai thực hiện hiệu quả cao chủ trương này là Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn... Nhiều doanh nghiệp của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần đã làm chủ nhiều công nghệ lưỡng dụng tiên tiến, hiện đại, nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sản xuất được nhiều sản phẩm có chất lượng cao phục vụ quốc phòng, đời sống dân sinh và đóng góp vào ngân sách nhà nước.

Từ phẩm chất cần cù, sáng tạo, hàng vạn người lính Cụ Hồ rời quân ngũ đã mang theo tinh thần ấy vào phát triển kinh tế gia đình. Đến nay, trên cả nước có hàng nghìn cựu chiến binh làm kinh tế giỏi, trong đó có không ít thương binh và những người bị nhiễm chất độc da cam ở chiến trường. Với bàn tay, khối óc và sức lực của mình, nhất là bằng ý chí thép, những người lính ấy đã hăng say lao động, đổi mới cách nghĩ, cách làm kinh tế, từng bước đưa gia đình thoát nghèo và ngày càng sung túc, qua đó góp phần làm giàu cho quê hương, đất nước.

Đại tá, TS PHẠM DUY VỤ, Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, Học viện Chính trị

Tiếp tục đổi mới, hội nhập trong kỷ nguyên vươn mình

 

Nhân dịp tham dự Tuần lễ cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 79 và làm việc tại New York, Hoa Kỳ, sáng 23-9 (giờ địa phương), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã phát biểu chính sách tại Đại học Columbia.

Đại học Columbia, được thành lập năm 1754 với tên gọi King’s College, là tổ chức giáo dục đại học lâu đời nhất ở bang New York và lâu đời thứ 5 ở Hoa Kỳ, đồng thời là một trong những trung tâm nghiên cứu quan trọng nhất thế giới, là môi trường học tập đặc biệt và nổi bật dành cho sinh viên đại học và nghiên cứu sinh trong nhiều lĩnh vực học thuật.

Tiếp tục đổi mới, hội nhập trong kỷ nguyên vươn mình

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại Đại học Columbia. 

Phát biểu tại đây, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã đề cập tới một số vấn đề trong con đường hướng tới kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, về mối quan hệ Việt Nam – Hoa kỳ và tầm nhìn để xây dựng một tương lai tốt đẹp cho toàn nhân loại trước những thay đổi lớn lao, vừa mang tính chu kỳ, cấu trúc, vừa có những đột phá chưa từng có dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cho biết sau gần 80 năm lập nước và gần 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc Đổi mới là tiền đề để dân tộc Việt Nam tin tưởng vào tương lai ở phía trước.

Trong bối cảnh tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam vẫn kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam sẽ kiên trì chính sách quốc phòng “4 không”, ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, phản đối các hành động đơn phương, chính trị cường quyền, sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Tiếp tục đổi mới, hội nhập trong kỷ nguyên vươn mình
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm Đại học Columbia. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nêu rõ, thời gian qua, Việt Nam đã khẳng định trách nhiệm của mình đối với các công việc chung của cộng đồng quốc tế bằng những đóng góp tích cực, chủ động.

Đề cập đến mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cho biết trong gần 30 năm qua, từ cựu thù, hai nước đã trở thành đối tác, Đối tác toàn diện và nay là Đối tác chiến lược toàn diện.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định để quan hệ hai nước bước sang trang mới và phát triển tốt đẹp như ngày hôm nay, yếu tố quan trọng nhất là truyền thống nhân ái, vị tha của dân tộc Việt Nam, là sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam với tầm nhìn trí tuệ, quyết tâm và bản lĩnh để đưa đất nước Việt Nam hội nhập vào dòng chảy quốc tế. Bên cạnh đó phải kể đến nhiều bạn bè, đối tác Mỹ, đặc biệt là sự ủng hộ lưỡng đảng mạnh mẽ ở Hoa Kỳ đối với quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.

Tiếp tục đổi mới, hội nhập trong kỷ nguyên vươn mình
 
Tiếp tục đổi mới, hội nhập trong kỷ nguyên vươn mình
Quang cảnh buổi gặp gỡ. 

Từ con đường đi tới của dân tộc Việt Nam và câu chuyện thành công của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đánh giá để xây dựng một tương lai chung tốt đẹp hơn cho toàn nhân loại cần phải khẳng định và đề cao vai trò của tinh thần hàn gắn, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cho rằng để một mối quan hệ phát triển, các bên cần đẩy mạnh nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, con người, hệ thống chính trị, kinh tế - xã hội của nhau; cần coi trọng và thúc đẩy văn hóa đối thoại với dẫn chứng trong chính mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Cùng với đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh tới tinh thần trách nhiệm cao nhất đối với cộng đồng quốc tế.

Đề cập tới vấn đề đoàn kết và hướng về tương lai, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định trong bối cảnh thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, nhân loại cần có tầm nhìn xa và sự đoàn kết hơn bao giờ hết. Không một quốc gia đơn lẻ nào, dù mạnh đến đâu, có thể một mình xử lý những vấn đề chung của thời đại và đó là cách tiếp cận và định hướng mà Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai của Liên hợp quốc đã nêu rõ.

Nhấn mạnh phương châm của Việt Nam là gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tin tưởng rằng với cách tiếp cận đề cao đoàn kết quốc tế, hướng về tương lai, cũng như câu chuyện thành công của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, thế giới sẽ biến những điều không thể thành có thể, tiếp tục dựng xây một Nền văn minh vững bền, tiến bộ cho toàn nhân loại…

* Cũng trong sáng 23-9, giờ địa phương, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã tiếp một số chuyên gia, học giả về Việt Nam.

Tin, ảnh: PHẠM KIÊN (từ New York, Hoa Kỳ)

Cảnh giác với âm mưu kích động thanh niên không tham gia nghĩa vụ quân sự

 


 

Hàng năm, các địa phương trên cả nước đều tiến hành triển khai các khâu, các bước trong công tác sơ tuyển sức khỏe nghĩa vụ quân sự. Lợi dụng vấn đề này, trên mạng internet, một số tổ chức, cá nhân thù địch móc nối với những phần tử cơ hội chính trị, những đối tượng bất mãn cố tình cắt ghép, ngụy tạo những bức ảnh, video clip xuyên tạc, chế nhạo việc tham gia nghĩa vụ quân sự, công an đăng tải trên các trang mạng của một số đài nước ngoài phát tiếng Việt, đặc biệt là facebook và blog. Thậm chí chúng còn bày cách để các thanh niên trốn tránh việc đi khám sơ tuyển hoặc qua mặt các cơ quan chức năng khi thực hiện khám sơ tuyển nghĩa vụ quân sự.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KIÊN ĐỊNH, VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

 

Ngày nay, xã hội càng phát triển, người ta càng nhận thấy một nghịch lý không có lời giải đáp của chế độ tư bản; sự sản xuất càng phát triển, sự xã hội hóa lao động càng cao, của cải càng dồi dào thì càng tạo ra những bất công v mặt xã hội, càng làm cho con người bị tha hóa hơn bao giờ hết. Thậm chí, vì lợi nhuận, sự cám dỗ về của cải, vật chất người ta có thể làm tất cả, sẵn sàng chà đạp lên cả nhân phẩm, danh dự của người khác mà không cần biết việc làm đó đúng, hay sai miễn là thỏa mãn dục vọng tầm thường của họ. Sự bất công xã hội, sự phân cực giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội, sự tước đoạt các giá trị văn hóa tinh thần của loài người... là những điểm yếu chí mạng của chủ nghĩa tư bản mặc dù giai cấp tư sản có cố gng che đậy bao nhiêu vẫn cứ lộ ra. Vì vậy, lương tri nhân loại dù có trải qua những biến cố, thăng trầm, giữa lựa chọn này hay lựa chọn khác, cuối cùng sẽ phải hướng đến một xã hội tt đẹp hơn xã hi tư bản là xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin.

SUY NGHĨ VỀ BẢO VỆ NỀN TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 


Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng và bảo vệ bằng tình cảm chân thành và tình yêu sâu sắc đối với Đảng. Như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Trái tim anh đó… Rất chân thật, chia ba phần tươi đỏ. Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều. Phần cho thơ và phần để em yêu...”

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng và bảo vệ bằng tình cảm chân thành và tình yêu sâu sắc đối với Đảng. Như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Trái tim anh đó… Rất chân thật, chia ba phần tươi đỏ. Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều. Phần cho thơ và phần để em yêu...”

“LẤY DÂN LÀM GỐC, DỰA VÀO DÂN” ĐỂ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG “TỪ SỚM, TỪ XA”

 


              

         Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn:“Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Chỉ có lòng dân là nguồn cổ vũ, nguồn sức mạnh vô tận đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Trước sự chống phá gay gắt với nhiều âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch, Ðảng ta đã xác định đấu tranh, phản bác có hiệu quả những luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên của toàn bộ hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên và của mọi người dân. Trong sức mạnh tổng thể đó, Ðảng đặc biệt nhấn mạnh sức mạnh của Nhân dân là to lớn nhất.

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Tháo gỡ về thể chế để cán bộ công chức dám làm, không sợ sai.

 

Sáng 23-9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp Chính phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 9-2024 để xem xét, cho ý kiến đối với 4 nội dung: Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm Y tế; Dự án Luật Dữ liệu; Đề nghị xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân; Đề nghị xây dựng Luật Luật sư (sửa đổi).

Đây là phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật thứ 2 trong tháng 9 và là phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật thứ 10 trong năm 2024 của Chính phủ. Dự Phiên họp có các Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà, Lê Thành Long; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan liên quan.

Phát biểu khai mạc phiên họp, Thủ tướng chỉ rõ, xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật là 1 trong 3 đột phá chiến lược vì thể chế vừa là nguồn lực, động lực cho sự phát triển.

Theo Thủ tướng, tại Hội nghị Trung ương 10, Trung ương đã thảo luận, cho thấy phải đẩy mạnh hơn nữa xây dựng và hoàn thiện thể chế. Cùng với yêu cầu thực tiễn đặt ra, một trong lý do, cán bộ còn đùn đẩy, sợ trách nhiệm, sợ sai chính là do thể chế. Do đó phải tháo gỡ về thể chế để cán bộ công chức dám làm, không sợ sai. Trung ương cũng nhất trí tăng cường con người, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ những người tham gia làm thể chế.

Thủ tướng nêu rõ tinh thần trong Hội nghị Trung ương 10, khóa XIII là đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; tránh bất cứ việc gì cấp dưới cũng lên “xin” cấp trên mà phải căn cứ vào quy định. Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; căn cứ quy định Bộ Chính trị, Ban Bí thư để làm; không thể bất cứ vấn đề đề nhỏ dù gì cũng phải trình lên Trung ương quyết; đề nghị bộ trưởng, lãnh đạo bộ, ngành, thủ trưởng các cơ quan phải quán triệt tinh thần này để tháo gỡ, thúc đẩy phân cấp, phân quyền mạnh hơn, đi đôi phân bổ nguồn lực, đồng thời nâng cao trách nhiệm, năng lực thực thi từ cấp dưới.

Thủ tướng cho biết, trong phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 10, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nêu rõ tinh thần “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; Trung ương, Quốc hội, Chính phủ chỉ ban hành cơ chế, định hướng, thiết kế công cụ giám sát, kiểm tra. Các bộ trưởng, trưởng ngành chỉ làm vấn đề chiến lược, quy hoạch, định hướng chương trình, đường lối phát triển quan trọng cho đất nước, không nên sa vào những vấn đề cụ thể, dễ tạo môi trường “xin-cho”, tránh nảy sinh tiêu cực. Ngân sách Trung ương chỉ đầu tư các chương trình dự án liên vùng, quốc gia, quốc tế; chương trình, dự án cấp tỉnh do tỉnh, thành phố quyết định đầu tư; phải đẩy mạnh cải cách hành chính ngay trong xây dựng pháp luật, thể hiện ngay ở các quy định của luật, thông tư, nghị định.  

Bày tỏ không hài lòng về một số nghị định đã giao một số bộ, ngành phải hoàn thành sớm mà đến nay chưa xong, Thủ tướng yêu cầu các bộ trưởng, trưởng ngành phải nêu cao tinh thần vì nước, vì dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Cho rằng thủ tục hành chính nội bộ vẫn còn rườm rà, Thủ tướng yêu cầu việc lấy ý kiến của các thành viên Chính phủ nếu quá thời hạn không có phản hồi thì phải coi như là đồng ý. “Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng là thiểu số phục tùng đa số”, Thủ tướng lưu ý.

Nhằm tránh tình trạng càng ban hành luật lại càng khó làm, Thủ tướng yêu cầu xây dựng pháp luật để tăng cường quản lý nhưng phải kiến tạo môi trường phát triển chứ không phải thắt chặt, bó hẹp; khi sửa đổi luật thì phải mạnh dạn, vướng ở đâu tháo ở đó; các luật mà chồng chéo thì rất khó thực hiện, không khuyến khích được đổi mới sáng tạo.

Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các thành viên Chính phủ, các bộ trưởng, trưởng ngành trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng pháp luật; ưu tiên nguồn lực con người, cơ sở vật chất, tài chính cho công tác này; nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung dân chủ, kỷ luật, kỷ cương hành chính; nếu ai sợ trách nhiệm thì “đứng sang một bên”. Các bộ, ngành khi trả lời phải cụ thể, không chung chung, phân công phải “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian thực hiện, rõ hiệu quả, rõ sản phẩm”, không đùn đẩy trách nhiệm, trước mắt phục vụ tốt Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XV.

Tại Phiên họp, Chính phủ đã thảo luận, cho ý kiến đối với các nội dung: Dự án Luật Dữ liệu; Đề nghị xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân; Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm Y tế; Đề nghị xây dựng Luật Luật sư (sửa đổi).

Các thành viên Chính phủ cho rằng, việc xây dựng, ban hành các luật, nhằm quán triệt và cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về các lĩnh vực nêu trên; khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế; phục vụ công tác quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội thời gian tới.

Đối với Dự án Luật Dữ liệu, các đại biểu thảo luận các nội dung liên quan đến khái niệm dữ liệu, kết nối, chia sẻ, thẩm quyền; về bảo đảm chi ngân sách thực hiện Chiến lược dữ liệu…

Về Đề nghị xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, các thành viên Chính phủ thảo luận kỹ về các chính sách liên quan: Xây dựng, phát triển, quản trị, xử lý dữ liệu, ứng dụng khoa học công nghệ trong xử lý dữ liệu, quản lý nhà nước về dữ liệu…

Ở Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, Chính phủ xem xét các nội dung liên quan đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, tuyến chuyên môn kỹ thuật, kiểm toán, ứng dụng chuyển đổi số, chia sẻ dữ liệu; đăng ký khám, chữa bệnh; chuyển tuyến cấp chuyên môn kỹ thuật; quyền lợi người tham gia bảo hiểm y tế…

Trong Đề nghị xây dựng Luật Luật sư (sửa đổi), Chính phủ nhất trí sửa đổi toàn diện Luật Luật sư năm 2006 nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền của công dân nhờ luật sư bào chữa; các chủ trương, đường lối của Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Chỉ đạo về nguyên tắc, yêu cầu xây dựng luật, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thảo luận và cho ý kiến đối với từng nội dung của các dự án luật, Đề nghị xây dựng luật; giao các Phó thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ chủ trì xây dựng các dự án luật, Đề nghị xây dựng luật phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của thành viên Chính phủ, nghị quyết phiên họp, hoàn thiện hồ sơ dự án luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ những vấn đề lớn trong quá trình phối hợp chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật.

Kết luận phiên họp, cho biết tại Kỳ họp thứ tám của Quốc hội khóa XV, Chính phủ dự kiến trình Quốc hội thông qua 15 dự án luật; trình Quốc hội cho ý kiến 11 dự án luật, theo Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, trong khi thời gian từ nay đến Kỳ họp thứ tám còn rất ít. Do đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ưu tiên tối đa thời gian, công sức, trí tuệ, tập trung nguồn lực cao nhất, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện các dự án luật để trình Quốc hội theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm chất lượng, tiến độ theo yêu cầu.

Thủ tướng Phạm Minh Chính lưu ý, quán triệt đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng vào trong các dự án luật, pháp lệnh. Người đứng đầu Chính phủ yêu cầu xây dựng pháp luật phải thiết kế công cụ tăng cường quản lý hiệu quả phù hợp với điều kiện Việt Nam, song phải kiến tạo cho sự phát triển và tạo điều kiện huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực; khuyến khích sự sáng tạo của người dân, doanh nghiệp và các chủ thể liên quan; đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và có công cụ để xử lý những vi phạm của người dân, doanh nghiệp và các chủ thể liên quan, trên quan điểm không hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế.

“LỰC LƯỢNG 47” BỘ CHQS TỈNH QUẢNG NAM THAM GIA CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG VĂN HÓA

 


 

                                                            

Với mục tiêu không thay đổi là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam. Trong thực hiện “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch đặc biệt chú ý âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội, coi đây là mũi nhọn nhằm vô hiệu hóa sức mạnh chuyên chính trọng yếu, tin cậy của Đảng, Nhà nước ta. Trên địa bàn tỉnh, số đối tượng cơ hội, chống đối chính trị; số trí thức, văn nghệ sĩ có biểu hiện bất mãn, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và các phần tử phản động đội lốt tôn giáo, lợi dụng các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, công tác phòng chống tham nhũng, xử lý cán bộ… thường xuyên đăng tải, chia sẻ trên mạng xã hội nhiều bài viết của các tổ chức, cá nhân phản động trong và ngoài nước xuyên tạc tình hình, nói xấu Đảng, Nhà nước; kích động chia rẽ nội bộ, đòi Việt Nam thay đổi chính sách đối ngoại theo hướng thân phương Tây. Một số đối tượng lợi dụng các vụ việc vi phạm kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ trong LLVT Quân khu, tung tin sai sự thật, kích động tuyên truyền không cho con em thực hiện nghĩa vụ quân sự.