Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
(3-2-1930) và trải qua các thời kỳ lãnh đạo cách mạng, cương lĩnh, đường lối,
quan điểm của Đảng luôn bị các thế lực thù địch về chính trị và ý thức hệ chống
phá, xuyên tạc, phủ định.
Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, trước âm mưu phủ định CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam, đòi chấm dứt vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng
sản Việt Nam, thực hiện đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập của các thế lực
thù địch, phản động, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên quyết, dứt khoát bác bỏ
những quan điểm sai trái đó, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên trì con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; hoạch định và không ngừng
bổ sung, phát triển đường lối đổi mới và thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam
đã chứng tỏ, đối với Việt Nam “không còn con đường nào khác để có độc lập dân
tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng, đây là sự lựa
chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của
Đảng ta”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930), Luận cương chính trị tháng 10-1930,
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và đường lối cách mạng dân tộc dân chủ là
ngọn cờ soi sáng bước đường tranh đấu của dân tộc Việt Nam giành độc lập, giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bước đầu xây dựng CNXH; thì Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991 cũng như Cương
lĩnh bổ sung, phát triển 2011) và đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế đã đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, trở thành nước đang
phát triển, có thu nhập trung bình và đã đạt được những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến
lược của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và CNXH. Bằng kinh nghiệm thực
tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có CNXH và chủ
nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới
có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người,
cho các dân tộc.
Điều đó là cơ sở để khẳng định, không có
lý do gì để Đảng và dân tộc Việt Nam rẽ sang con đường tư bản chủ nghĩa hay một
con đường phát triển nào khác, trao quyền quản lý đất nước cho những thế lực cơ
hội, phản động.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
trong thế kỷ 20, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc giành được những thắng lợi
vĩ đại, đó là: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước dân chủ nhân dân ở Đông Nam Á, mở ra kỷ
nguyên mới trong lịch sử dân tộc-kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền CNXH; Tiếp
đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH,
góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới,
từng bước đưa đất nước quá độ lên CNXH. Đặc biệt, sau 25 năm (1995-2020), Việt
Nam đã làm được kỳ tích, đưa nền kinh tế tăng gấp 10 lần cả về quy mô và thu
nhập bình quân trên đầu người, tăng 21 hạng về quy mô nền kinh tế và tăng 54
hạng về thu nhập đầu người trên bảng xếp hạng các quốc gia.
Thực tiễn phong phú, sinh động của cách
mạng Việt Nam 92 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều
kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Đồng thời khẳng định một chân lý: “Ở Việt Nam, không
có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản
lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi
khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác”.
Như vậy, luận điệu của các thế lực thù
địch, phản động cho rằng, đa đảng thì có dân chủ và một đảng thì mất dân chủ,
thực ra là một trò “lập lờ đánh lận con đen” nhằm cổ vũ cho việc thiết lập cơ
chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Đề cập đến vấn đề này, trả lời câu hỏi của
phóng viên báo Express Ấn Độ về việc liệu đã đến lúc chín muồi để Việt Nam có
một hệ thống đa đảng, hoặc có các đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam để có
thể tính tới các quan điểm của nhiều nhóm sắc tộc, nhiều dân tộc khác nhau, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn,
ít đảng thì ít dân chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể
khác nhau, điều quan trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được
hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát
triển đi lên không? Đó là tiêu chí quan trọng nhất. Và cũng không nhất thiết cứ
kinh tế thị trường thì phải đa đảng và ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách
quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét