Do đặc thù phát triển quá nhanh của công nghệ, của các dịch vụ,
nội dung thông tin trên mạng nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, chưa cụ thể hóa, bao quát hết các đối tượng
và hoạt động cần quản lý, hành vi sai phạm, chế tài xử lý chưa bảo đảm tính răn
đe. Trong khi đó, quy trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật trên lĩnh vực này theo quy định hiện hành mất khá nhiều thời
gian, dẫn đến việc quy định vừa sửa đổi, bổ sung xong đã bắt đầu lạc hậu, gây
khó khăn cho công tác quản lý. Vì vậy, để kịp thời ngăn chặn, đập tan âm
mưu của các thế lực thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam cần nghiên cứu, vận
dụng thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần có giải pháp về cơ chế, chính sách: Hoàn thiện hệ thống
văn bản pháp luật, đảm bảo môi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch, kịp thời bổ
sung, xây dựng các văn bản mới và xây dựng cơ chế chính sách về thông tin điện
tử cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng hiệu quả quản lý, bổ sung các chế
tài xử lý sai phạm nghiêm khắc hơn. Tổ chức họp định kỳ, đột xuất nhằm định
hướng, chấn chỉnh kịp thời hoạt động của các trang mạng xã hội trong nước; Xây
dựng chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển, tạo ra những
“đơn vị tiên phong” đủ mạnh để cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường; Nâng cao năng
lực quản lý, đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát, kiên quyết xử lý thông tin
sai phạm trên mạng. Đối với các trường hợp vi phạm nhiều lần, mức độ nghiêm
trọng có thể xem xét rút giấy phép; tăng cường hướng dẫn, phối hợp với Sở TTTT
các địa phương và các đơn vị chức năng có liên quan xử lý hoạt động sai phạm về
thông tin điện tử trên mạng.
Thứ hai, cần chú trọng xây dựng tốt công tác kỹ thuật, công nghệ: Xây dựng cơ chế
phối hợp giữa các đơn vị quản lý và doanh nghiệp; nghiên cứu, định hướng trong
việc xây dựng bộ lọc và có cơ chế cập nhật khi có yêu cầu để các doanh nghiệp
thực hiện; kịp thời ngăn chặn truy cập, chia sẻ, tạm ngừng hiển thị nội dung
trên mạng internet khi phát hiện thông tin vi phạm. Chuẩn bị các phương án kỹ
thuật, công nghệ phù hợp để có thể chủ động ngăn chặn các thông tin vi phạm
trong trường hợp khẩn cấp với quyết tâm, thống nhất cao và sự phối hợp đồng bộ
của các bộ, ngành, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet;
Thứ ba, xây dựng đầu mối tiếp nhận, quy trình xử lý tin giả trên
mạng xã hội: Bộ
Thông tin và Truyền thông, các Sở Thông tin và Truyền thông tại các địa phương
sẽ là đầu mối thực hiện việc xử lý đối với các hành vi tung tin giả của các tổ
chức, cá nhân tại Việt Nam theo quy định của pháp luật. Việc xác định tin giả
cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành có liên quan theo chức năng,
nhiệm vụ được giao, đặc biệt trong việc nhận diện và xác định tin giả theo từng
lĩnh vực, đối tượng ảnh hưởng đối với các vấn đề ảnh hưởng đến an ninh, chính
trị, kinh tế, xã hội... Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân bị ảnh hưởng trực tiếp cần chủ động tập hợp, cung cấp các tài liệu, chứng
cứ để các cơ quan chức năng xác lập hành vi của các đối tượng tung tin
giả.
Thứ tư, cần tuyên truyền rộng rãi, nâng cao nhận thức: Các cơ quan chức năng
tiếp tục chủ trì, phối hợp với các cơ quan báo chí & truyền thông liên quan
triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức cho
người sử dụng về các quy định của pháp luật có liên quan nội dung thông tin
trên mạng. Tăng cường việc tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu với các thế hệ
học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh nhằm cung cấp, trao đổi thông tin về
những mặt tích cực và tiêu của Internet để thế hệ trẻ biết sàng lọc trước các
luồng thông tin xấu độc. Đối với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan
hoạt động trong lĩnh vực tuyên truyền, cần coi mạng xã hội cũng là một kênh
truyền thông tương tự như báo, đài, truyền hình để tiến hành các hoạt động
tuyên truyền. Đối với các ban, ngành hoạt động tiếp xúc với người dân nhiều thì
càng cần coi mạng xã hội cũng như Internet là một kênh quan trọng và cần có kế
hoạch truyền thông của riêng mình. Cần khuyến khích các cơ quan nhà nước bên
cạnh website của mình cần mở thêm một kênh thông tin giới thiệu về chuyên ngành
và lĩnh vực mình quản lý, qua đó tiếp cận và minh bạch thông tin với người dân.
Xây dựng và phổ biến rộng rãi bộ quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội đối với
người sử dụng internet tại Việt Nam, thúc đẩy hình thành văn hóa ứng xử, chia
sẻ thông tin lành mạnh, lên án, tẩy chay hành vi đi ngược lại lợi ích cộng
đồng, lợi ích quốc gia trên mạng internet. Triển khai các hoạt động tuyên
truyền, hướng dẫn, phổ biến kỹ năng sử dụng internet an toàn và hiệu quả.
Thứ năm, phát triển mạng xã hội do doanh nghiệp tại Việt Nam cung
cấp dịch vụ: Hiện
nay tại Việt Nam, một số mạng xã hội của nước ngoài như Facebook, Youtube vẫn
đang chiếm phần lớn thị trường, chính vì vậy trong ngắn hạn, các giải pháp quản
lý và tuyên truyền vẫn cần tiến hành đối với mạng xã hội này. Tuy nhiên về dài
hạn, Việt Nam cần có những mạng xã hội tương đương, có khả năng thay thế hoặc
cạnh tranh được với Facebook tại Việt Nam và do doanh nghiệp tại Việt Nam cung
cấp dịch vụ. Do đó, cần có các giải pháp, cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ, thúc
đẩy mạng xã hội trong nước phát triển.
Thứ sáu, các cơ quan cung cấp thông tin báo chí cần quan tâm chú ý
nâng cao nhận thức của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí về âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch. Chỉ đạo đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, phóng viên, biên tập viên nhận
thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Xây dựng nền tảng xuất
bản mở và đa nền tảng. Ứng dụng các công cụ hỗ trợ quản lý vận hành báo có tính
liên thông cao, ví dụ: Nhân sự, công việc, tính hiệu quả cần được liên kết chặt
chẽ, lấy công nghệ làm nền tảng, lấy công nghệ làm phương tiện, lấy công nghệ
làm công cụ dự báo. Bám sát việc phát triển công nghệ của toà soạn với
hoạt động chuyển đổi số chung của Chính phủ và doanh nghiệp để đồng bộ trong
chuẩn giao tiếp về thông tin.
Trong những năm tiếp theo, các cơ quan báo chí cần chủ động
tuyên truyền về Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII; chú trọng vào việc tuyên
truyền các ngày lễ kỷ niệm trong từng năm như: Ngày thành lập Đảng, ngày giải
phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước; Quốc khánh 2/9; Cách mạng Tháng
Tám thành công; ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam…/.
VHT.
những giải pháp này rất đúng đắn
Trả lờiXóa