Như Nguyệt là tên của một bến đò và là tên chung của một đoạn sông Cầu gắn với trận đánh nổi tiếng của quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của danh tướng Lý Thường Kiệt. Dòng sông có chiều dài 290km bắt nguồn từ núi Văn Ôn, chảy qua biết bao làng mạc, để rồi khi chảy đến ngã ba Xà, nơi hợp lưu của sông Cà Lồ chảy vào sông Cầu, dòng sông là minh chứng duy nhất để kể lại cho muôn đời về trận đánh hào hùng, về phòng tuyến trên sông Như Nguyệt, nơi đánh đuổi 10 vạn quân bắc Tống.
Trận Như Nguyệt là một trận đánh lớn, mang tính quyết định của cuộc Chiến tranh Tống – Việt (1075 – 1077), và là trận đánh cuối cùng của triều Tống – Trung Quốc trên đất Đại Việt. Trận chiến diễn ra trong nhiều tháng, kết thúc bằng chiến thắng vẻ vang của quân Đại Việt ta và đại bại của quân Tống, đánh bại hoàn toàn mưu đồ xâm lược nước ta của giặc, buộc chúng phải thừa nhận nước Đại Việt ta.
Bối cảnh: Nhà Tống, Trung Quốc vào thế kỷ 11 có ý định xâm lược Đại Việt để mở rộng lãnh thổ, nhằm giải quyết một số khó khăn về đối nội và đối ngoại. Nhà Lý sớm nhận ra ý định này của nhà Tống nên đã thực hiện một chiến dịch đánh đòn phủ đầu vào cuối năm 1075 đầu năm 1076, phá hủy các căn cứ hậu cần chuẩn bị cho chiến tranh của nhà Tống. Nhưng Nhà Tống vẫn quyết tâm tiến hành chiến tranh, vua Tống Thần Tông cử Quách Quỳ chỉ huy chuẩn bị đánh Đại Việt.
Trước binh lực mạnh của nhà Tống, Lý Thường Kiệt quyết định chọn chiến lược phòng thủ: ông dùng các đội quân của đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi phía bắc nhằm quấy rối hàng ngũ của quân Tống. Các tướng Lưu Kỹ, phò mã Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An đem quân chặn bước tiến quân Tống ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, đồng thời chặn thủy quân của nhà Tống từ Quảng Đông xuống… Lý Thường Kiệt lui quân về phía nam Sông Cầu. Lý Thường Kiệt đã huy động binh lính và nhân dân xây dựng một phòng tuyến trên sông Như Nguyệt để biến nơi đây là nơi diễn ra trận đánh quyết định của cả cuộc chiến.
Tương quan lực lượng:
Quân Tống huy động khoảng 100.000 quân chiến đấu, 10.000 ngựa, 200.000 dân phu, đồng thời có sự hỗ trợ từ lực lượng thủy binh. Chỉ huy là Quách Quỳ và phó chỉ huy là Triệu Tiết cùng với nhiều tướng khác được điều về từ miền bắc Tống.
Bộ phận quân chủ lực của nhà Lý gồm thủy binh và bộ binh phòng thủ và chiến đấu tại sông Như Nguyệt có 60.000 quân và một số lực lượng không tham gia trực tiếp vào trận đánh dùng để hãm chân và quấy rối tiếp vận phía sau khoảng trên 15.000 quân.
Chiến trường:
Đoạn sông Như Nguyệt mà Lý Thường Kiệt chọn lựa xây dựng phòng tuyến có vị trí mang tính chiến lược: con sông chặn mọi đường trên bộ có thể dùng để tiến quân vào Thăng Long. Vì địa thế quan trọng này, Lý Thường Kiệt quyết định lập một phòng tuyến tại đây nhằm đánh một trận chiến lược.
Chiến lũy của phòng tuyến được xây dựng bằng đất có đóng cọc tre dày mấy tầng làm dậu. Dưới bãi sông được bố trí các hố chông ngầm tạo thành một phòng tuyến rất vững chắc. Quân của nhà Lý đóng thành từng trại trên suốt chiến tuyến, mà quan trọng nhất là ba trại ở Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động. Quân chủ lực do chính Lý Thường Kiệt chỉ huy đóng ở phủ Thiên Đức, một vị trí có thể cơ động chi viện nhiều hướng và khống chế mọi ngả đường tiến về Thăng Long.
Quân Tống dưới sự chỉ huy của Quách Quỳ tiến tới bờ bắc sông Như Nguyệt thực hiện chiến lược đánh nhanh thắng nhanh mà vua Tống đã đề ra. Quách Quỳ không hề biết rằng cánh thủy quân do Dương Tùng Tiên chỉ huy đã bị thủy quân Đại Việt do Lý Kế Nguyên chỉ huy đã chặn đánh quyết liệt, liên tục tập kích hơn 10 trận. Đặc biệt với thảm bại tại sông Đông Kênh, thủy quân Tống buộc phải rút lui.
Sau một khoảng thời gian chờ đợi không thấy thủy quân đến hội sư, Quách Quỳ tổ chức vượt sông mà không có sự hỗ trợ của thủy quân. Tuy nhiên vì trước trại của Quách Quỳ tại Thị Cầu có một trại quân mạnh của nhà Lý án ngữ nên không dám cho quân vượt sông ở Thị Cầu. Cùng lúc, tướng Miêu Lý đóng tại Như Nguyệt báo với Quách Quỳ rằng quân Lý đã trốn đi và xin lệnh đem binh vượt sông. Trúng kế nhà Lý, Quách Quỳ chấp nhận và tướng Vương Tiến bắc cầu phao cho đội xung kích của Miêu Lý vượt sông. Miêu Lý định tiến nhanh về Thăng Long nhưng đến vùng Yên Phụ, Thụy Lôi thì bị nhà Lý phục kích, bao vây, và chặn đánh dữ dội và bị diệt gần hết. Thất bại của Miêu Lý đã làm cho Quách Quỳ hết sức tức giận.
Sau thất bại này, Quách Quỳ nhận ra quân nhà Lý không bỏ bất cứ đoạn nào trên phòng tuyến, nên không dám vượt sông mà không có thủy binh. Vì thủy binh quân Tống đã bị chặn lại ngoài biển nên không tiến vào được, buộc Quách Quỳ phải tổ chức đợt tấn công lần hai. Lần này, quân Tống dùng một lực lượng mạnh hơn nhiều so với lần trước và đóng bè lớn để vượt sông. Quân Tống ồ ạt đổ sang bờ Nam nhưng chúng vấp phải các đợt phải công mãnh liệt của quân nhà Lý, số binh tiếp viện lại không qua sông kịp nên quân bị vỡ trận và thiệt hại nặng nề phá sản ý định đánh nhanh thắng nhanh của nhà Tống.
Nhận thấy quân Tống lâm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan, ngày càng hoang mang vì chờ mãi thủy binh không thấy đâu, nhưng lại không dám rút lui vì đó là một sự nhục nhã và tội lớn với triều đình nhà Tống. Quân Tống vẫn còn mạnh, cố thủ ở bờ bắc Như Nguyệt. Lý Thường Kiệt nhận ra đây là thời cơ tốt để tổ chức tiến công, ông nghiên cứu cách bố phòng của quân Tống và tổ chức các đợt tấn công theo kiểu tập kích chia cắt quân Tống.
Đầu tiên, ông mở một đợt tấn công vào quân của Quách Quỳ đang đóng ở Thị Cầu nhằm kéo sự chú ý của toàn bộ quân Tống về hướng này dù biết rằng Quách Quỳ có một khối quân khá lớn và bố phòng rất cẩn thận. Ông lệnh cho hai tướng Hoằng Chân và Chiêu Văn dùng 400 chiếc thuyền chở khoảng 2 vạn quân từ Vạn Xuân tiến lên Như Nguyệt. Đoàn thuyền vừa đi vừa phô trương thanh thế nhằm kéo sự chú ý của toàn bộ quân Tống về hướng họ.
Quân nhà Lý đổ quân lên bờ bắc tấn công thẳng vào doanh trại quân Tống và chiếm ưu thế, đẩy quân Tống vào sâu, buộc quân Tống phải huy động hết lực lượng và đem cả đội thân quân ra đánh. Tất cả các thuộc tướng cao cấp của Quách Quỳ như Yên Đạt, Trương Thế Cự, Vương Mẫn, Lý Tường, Diên Chủng đều có mặt trong chiến địa. Khi mọi sự chú ý của quân Tống đều đổ dồn về phía trại quân Quách Quỳ, thì Lý Thường Kiệt đích thân dẫn đại quân đánh vào doanh trại của Triệu Tiết.
Triệu Tiết đóng tại bắc Như Nguyệt trên một khu vực tương đối rộng và quang đãng, bố trí theo kiểu dã chiến không lũy tường tổ chức phòng ngự tạm. Đại quân của Lý Thường Kiệt tập kích, quân của Triệu Tiết nhanh chóng bị đánh bại, thương vong trên một nửa quân số đến gần hết.
Kết quả 02 đợt tấn công này đã khiến quân Tống đại bại. Quân Tống mất tổng cộng 8 vạn quân và 8 vạn phu. Toàn bộ chi phí chiến tranh ngốn mất 5.190.000 lạng vàng. Thất bại này đã làm cho nhà Tống mất hẳn ý chí xâm lược Đại Việt.
Đây là chiến thắng lớn nhất và là trận chiến ác liệt nhất kể từ sau trận Bạch Đằng năm 938 của dân tộc Việt trong việc chống phương Bắc xâm lược. Chiến thắng này đã đánh dấu sự thành công nhiều chiến thuật chiến tranh phòng thủ và chủ động tấn công của danh tướng Lý Thường Kiệt trước một nước lớn hơn nhiều lần.
Ngày nay, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng ta đã thực hiện chủ trương chiến lược: xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc, tạo cơ sở nền tảng cho việc củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Xét ở góc độ nào đó, có thể khu vực phòng thủ hiện nay có đặc điểm và nội dung khác với tuyến phòng thủ trước đây, nhưng cần khẳng định có sự kế thừa về tư tưởng, nghệ thuật quân sự. Vì thế, nghiên cứu tuyến phòng thủ sông Như Nguyệt là cần thiết, nhằm tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử hiện nay. Thực tiễn cho thấy, các khu vực phòng thủ đã và đang được xây dựng ngày càng vững chắc, đáp ứng tốt yêu cầu bảo vệ địa phương, bảo vệ Tổ quốc trong thời bình và thời chiến. Điều quan trọng là, quá trình xây dựng khu vực phòng thủ là quá trình quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của Đảng, phục vụ phương thức kết hợp chặt chẽ tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương với tác chiến của các binh đoàn chủ lực; kết hợp hoạt động tác chiến rộng khắp, thường xuyên với các hoạt động tác chiến tập trung quy mô vừa và nhỏ; quán triệt tư tưởng tích cực tiến công, tích cực và chủ động vận dụng linh hoạt và kết hợp các hình thức chiến đấu tiến công (phản công) và phòng ngự; kết hợp chặn đánh địch ở phía trước, diệt vu hồi và đổ bộ đường không với trấn áp địch gây bạo loạn ở phía sau; bằng mọi biện pháp đánh phá giao thông, vận chuyển hậu cần, kỹ thuật của địch, lấy vật chất của địch bổ sung cho ta; kết hợp đấu tranh quân sự với các hình thức đấu tranh khác; kết hợp tác chiến với địch vận; vừa chiến đấu vừa sản xuất tại chỗ, vừa tác chiến vừa củng cố, xây dựng lực lượng tại chỗ, duy trì sức mạnh tác chiến lâu dài.
bài rất hay
Trả lờiXóa