Xác
định các đột phá chiến lược trong từng giai đoạn phát triển đất nước có ý nghĩa
rất quan trọng, là đòn bẩy cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức được điều
đó, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định ba đột phá
chiến lược; Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung và phát triển. Bài viết
làm rõ sự kế thừa có bổ sung, phát triển của Đại hội XIII và một số điều kiện
thực hiện thành công các “đột phá chiến lược” nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu
chiến lược “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Cụm
từ “đột phá” có thể được hiểu với nghĩa là danh từ, động từ và cả tính tử. Là danh
từ, các đột phá có nghĩa là “các khâu, lĩnh vực, nội dung, vấn đề” rất quan trọng,
cần tác động mạnh. Là động từ, đột phá có nghĩa là “chọc thủng”, “phá vỡ” vượt
qua những giá trị hiện hữu, thông thường hiện tại, để tạo ra những chuyển biến
mới, mạnh mẽ, có ý nghĩa quan trọng. Là tính từ, đột phá có nghĩa là “thay đổi
trạng thái hiện tại, tạo ra những thay đổi vượt trội, bứt phá, những thành tựu
có tính chất nhảy vọt”. Như vậy, dù hiểu theo cách nào, “đột phá” mang ý nghĩa
của tác động mạnh, tác động vào khâu có ý nghĩa then chốt, quyết định, quan trọng
và tạo ra thành công có tính nhảy vọt.
Còn “chiến lược” cũng có thể hiểu theo hai
nghĩa: là danh từ hoặc tính từ. Với nghĩa danh từ, chiến lược được xem như là kế
hoạch để thực hiện mục tiêu nào đó như “chiến lược phát triển kinh tế”. Với
nghĩa tính từ, chiến lược hàm ý rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với mục
tiêu.
“Đột
phá chiến lược” ở đây được hiểu như là một danh từ, là các khâu, vấn đề vừa
mang tính đột phá, vừa mang tính chiến lược.
Như
vậy, “đột phá chiến lược” của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định là các
yếu tố mang tính “đột phá”, nghĩa là khi tác động vào các yếu tố này sẽ tạo ra
sự chuyển biến, thay đổi mạnh mẽ, bước ngoặt theo chiều hướng tích cực và góp
phần thực hiện thành công, nhanh chóng mục tiêu chiến lược.
Với
ý nghĩa như vậy, trong từng giai đoạn phát triển, mỗi quốc gia cần chọn cho
mình những khâu đột phá chiến lược phù hợp để tập trung nguồn lực thực hiện,
thúc đẩy tiến trình đạt được mục tiêu chiến lược của mình. Việc xác định “đúng”
và “trúng” các khâu “đột phá chiến lược” có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
sự giàu có, hưng thịnh của quốc gia.
Quan
điểm về các đột phá chiến lược trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là sự kế thừa,
có bổ sung các đột phá chiến lược trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2011 - 2020” của Đảng. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020 xác định 3 đột phá chiến lược đó là:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đảng và cải
cách hành chính
Hai
là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
Ba
là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với
một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị
lớn.
Các
đột phá chiến lược này được tiếp cận từ nhận thức và đánh giá về các điểm nghẽn
cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong giai đoạn vừa
qua. Việc thực hiện các đột phá chiến lược trên đã bước đầu đạt được nhiều kết
quả tích cực, đáng ghi nhận. Tuy vậy, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta cho thấy, quá trình tổ chức thực hiện các đột phá chiến lược trên còn nhiều
bất cập, chưa được giải quyết triệt để, các điểm nghẽn đang cản trở quá trình
tăng trưởng và phát triển đất nước. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
chưa hoàn thiện, cơ cấu, số lượng, chất lượng nguồn nhân lực chậm được cải thiện
và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu.
Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chủ yếu ở lĩnh vực giao thông đường bộ,
chưa bảo đảm tính đồng bộ, tính kết nối…
Do
vậy, trong thời kỳ tới, các đột phá chiến lược này vẫn cần được tiếp tục triển
khai, tuy nhiên cần được bổ sung phù hợp với bối cảnh và tình hình mới trong nước
cũng như quốc tế. Cụ thể:
Đối
với đột phá chiến lược “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện và nâng
cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đầy đủ, đồng bộ, hiện
đại và hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường
quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện
theo cơ chế thị trường. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản
lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN tinh
gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống
nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các nghành”.
Như vậy, quan điểm về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
trong Văn kiện Đại hội XIII thống nhất với các kỳ đại đội trước, đó là hoàn thiện
theo hướng đầy đủ, đồng bộ, hiện đại và hội nhập; đồng thời khi nói đến thể chế
kinh tế thị trường là nói đến vai trò của Nhà nước và thị trường trong nền kinh
tế, theo đó, thị trường thực hiện chức năng phân bổ nguồn lực, Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý, tạo những điều kiện vĩ mô thuận lợi để thị trường hoạt động.
Tuy nhiên, so với chiến lược phát triển - kinh tế xã hội 2011 - 2020, đột phá
chiến lược về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong Văn
kiện Đại hội XIII chuyển trọng tâm từ “tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng
và cải cách hành chính” sang “thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường
quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ”.
Thực
tế, trong giai đoạn vừa qua, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt
Nam đã thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và
cải cách hành chính. Chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam năm 2019 đạt 55 điểm, gấp
gần 2 lần năm 1997 với 35 điểm, chứng tỏ thị trường, với tư cách là chủ thể
trong thể chế kinh tế thị trường hoạt động ngày càng hiệu quả. Chỉ số tự do
kinh tế cao chứng tỏ tính bình đẳng của các chủ thể trong nền kinh tế cũng đang
ngày càng được cải thiện.
Về
chỉ số hài lòng công chức, SIPAS 2017 đo lường chất lượng của đội ngũ công chức
thông qua các tiêu chí về thái độ giao tiếp, sự lắng nghe, phản hồi của công chức,
thái độ hướng dẫn, phục vụ cũng như việc tuân thủ đúng quy định trong công việc.
Chỉ số này mức trung bình cả nước đạt 81,56%.
Đối
với chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức về kết quả cung ứng dịch vụ công,
trung bình cả nước là 81,56%.
Như vậy, 2 điểm nghẽn về cải cách hành chính và tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng đã dần được khắc phục. Tuy nhiên, trong giai đoạn
2011 - 2020, thị trường các yếu tố sản xuất, trong đó trọng tâm là quyền sử dụng
đất và thị trường khoa học, công nghệ đang là những điểm nghẽn chưa giải quyết
được của nền kinh tế. Nhiều mâu thuẫn phát sinh trong giai quyết quan hệ lợi
ích giữa Nhà nước, người dân, doanh nghiệp trong thu hồi đất, mua bán quyền sử
dụng đất hay sự yếu kém về năng lực khoa học, công nghệ. Báo cáo khoa học, công
nghệ 2015 cho thấy, tốc độ đổi mới sáng tạo của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2014
đạt 10,68% nhưng tập trung vào một số lĩnh vực như công nghệ thông tin,
viễn thông, tài chính, ngân hàng, dầu khí, hàng không, còn trình độ công nghệ của
các doanh nghiệp Việt Nam lạc hậu hơn thế giới từ 2 đến 3 thế hệ.
Từ
thực tiễn đó, Đại hội XIII của Đảng đặt trọng tâm trong đột phá về thể chế kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, đó là tập trung vào quyền sử dụng đất
và thị trường khoa học, công nghệ. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là không
quan tâm đến khía cạnh khác, mà cần tiếp tục phát huy những điểm đã làm được,
hoàn thiện những điểm làm chưa tốt, tập trung nguồn lực vào điểm nghẽn, kém nhất
trong giai đoạn trước để có thể xây dựng một thể chế kinh tế, thị trường thật sự hiện đại, hội nhập ở giai đoạn
phát triển tiếp theo.
Đột phá về nguồn
nhân lực và khoa học, công nghệ. Văn kiện Đại hội XIII kế thừa nội dung về đột
phát nguồn nhân lực và khoa học, công nghệ theo Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2011 - 2020, có bổ sung: “Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa
học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước,
lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt
Nam”. Nhìn lại 3 đột phá giai đoạn 2011 - 2020 có thể thấy rõ, các đột phá tập
trung vào lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực có mối quan hệ trực tiếp tới kinh
tế là nguồn nhân lực khoa học, công nghệ. Các lĩnh vực khác, đặc biệt là văn
hóa, mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp nhưng lại có tác động mạnh mẽ, bền vững đến
tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội chưa được quan tâm đầy đủ, đúng mức.
Vai trò quan trọng của văn hóa được xác định từ Đại hội VIII của Đảng ngày càng
được khẳng định, bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội. Theo đó, chúng ta hướng
tới xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, đồng thời, lần đầu tiên khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, đồng
thời là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc. Không thể phủ nhận, kinh tế là điều kiện, là cơ sở của văn hóa,
ngược lại văn hóa là nhân tố có tác động mạnh tới kinh tế, thúc đẩy kinh tế
phát triển một cách vững chắc. Trong thời gian qua, chúng ta đã quá chú trọng tới
phát triển kinh tế mà chưa coi trọng đúng mức tới phát triển văn hóa. Trong khi
kinh tế có sự tăng trưởng khá nhưng văn hóa, đạo đức xã hội có những chỗ xuống
cấp, quan hệ ứng xử giữa con người với con người có khi trở nên khô cứng, vô cảm,…
Thực tế này đặt ra yêu cầu xác định đột phá chiến lược cần bổ sung thêm nội
dung văn hóa. Đó là: “phát huy tinh hoa văn hóa Việt Nam, giá trị tốt đẹp của
con người Việt Nam; khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng
phát triển thịnh vượng, giữ gìn bản sắc văn hóa tốt đẹp, tiến độ của nhân loại”.
Văn hóa sẽ góp phần kiến tạo con người Việt Nam vừa có tài, vừa có đức.
Đột
phá về hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Ngoài việc kế thừa một số nội dung cốt lõi trong đột phá về hoàn thiện
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011
- 2020 đó là: “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình
hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn”, Văn kiện Đại
hội XIII bổ sung thêm một số điểm: “trọng tâm là ưu tiên hạ tầng ứng phó biến đổi
khí hậu. Phát triển mạnh hạ tầng số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ
liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và các địa phương kết nối đồng bộ, thống
nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số”. Sự bổ sung này là phù hợp
với những điều kiện và bối cảnh mới của thời đại, đó là biến đổi khí hậu và sự
phát triển của nền tảng kinh tế số. Để thực hiện thành công ba đột phá chiến lược
cần thực hiện các điều kiện sau:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức trong toàn bộ hệ thống
chính trị: Toàn bộ hệ thống chính trị
cần nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện các đột phá chiến lược đối
với sự thành công của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030. Trên
cơ sở đồng thuận về nhận thức, ý chí, mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị sẽ cụ
thể hóa thành kế hoạch hành động để thực hiện các đột phá chiến lược phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ được phân công. Trong công tác, mỗi tổ chức cần thấm nhuần
các đột phá chiến lược và gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ của đơn
vị. Các đột phá chiến lược cần được phổ biến sâu rộng trong toàn bộ cán bộ, đảng
viên trong hệ thống chính trị các cấp để nắm vững, triển khai trong thực tiễn
công tác.
Thứ hai, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo: Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước. Việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
là tư tưởng xuyên suốt, nhất quan, là vấn đề có tính nguyên tắc, bất di bất dịch
của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa
chọn. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước được xem là trụ cột của cơ chế
vận hành trong hệ thống chính trị; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nói chung
và Nhà nước nói riêng là nhân tố bảo đảm xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, với bản chất là pháp luật pháp luật giữ vị trí tối
thượng trong điều chỉnh hành vi các quan hệ xã hội và tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân. Do đó, việc tổ chức, thực hiện các đột phá chiến lược phải được đặt
dưới sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát thường xuyên, sát sao của Đảng.
Thứ
ba, bảo đảm đủ nguồn lực thực hiện: Nguồn lực tổ chức thực hiện các đột phá chiến
lược không chỉ bao gồm nguồn lực tài chính mà còn bao gồm nguồn lực về con người,
cơ chế chính sách… Qúa trình thực hiện phải tổ chức kiểm tra, giám sát hiệu quả
sử dụng nguồn lực, gắn quyền hạn với trách nhiệm của cán bộ được giao với nhiệm
vụ quản lý. Đối với các nhiệm vụ do thị trường thực hiện, Nhà nước phải ban
hành đầy đủ khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách, bảo đảm thuận lợi cho hoạt động
thị trường. Bảo đảm nguồn lực con người và bộ máy quản lý để hỗ trợ hoạt động của
thị trường. Mỗi lĩnh vực có thể thành lập các ban hoặc tổ công tác để giám sát
và hỗ trợ việc tổ chức thực hiện.
Thứ
tư, kiểm tra, giám sát và điều chỉnh trong quá trình thực hiện: Kiểm tra, giám
sát và điều chỉnh phải là công việc được thực hiện thường xuyên, liên tục ở tất
cả các cấp, các cơ quan có liên quan tới thực hiện các đột phá chiến lược. Kiểm
tra, giám sát không chỉ nhằm mục đích đánh giá tính tuân thủ của việc thực hiện
mà còn góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh, tháo gỡ kịp thời các khó khăn,
vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện.
Thứ
năm, thường xuyên tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện các đột phá chiến lược:
Qúa trình thực hiện các nội dung của đột phá chiến lược cần được thường xuyên tổng
kết, đúc rút kinh nghiệm. Mỗi năm, các mặt hoạt động liên quan đến các đột phá
chiến lược cần được đánh giá lại, phân tích kết quả đạt được, hạn chế, nguyên
nhân và đề xuất phương hướng, biện pháp giải quyết. Việc này giúp đánh giá kịp
thời, chính xác các công việc đã làm được, các công việc cần phải làm và sự phù
hợp trong lộ trình, phương thức thực hiện. Các vấn đề mới nên thực hiện thí điểm
trong một thời hạn nhất định và tổ chức tổng kết, đánh giá để xem xét ngừng thí
điểm, điều chỉnh hoặc áp dụng chính thức.
Trên
cơ sở nhận thức sâu sắc vai trò thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cùng với nguồn nhân lực và hệ thống kết cấu hạ tầng là những cơ sở, tiền
đề rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng chỉ rõ: Ba đột phá chiến lược do Đại hội lần thứ XI, XII của Đảng xác
định có ý nghĩa, giá trị lâu dài, vẫn còn nguyên giá trị và sẽ được cụ thể hóa
phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Thực
hiện ba đột phá chiến lược là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ
Đại hội XIII của Đảng. Cần nhận thức sâu sắc rằng, việc thực hiện nhiệm vụ này
gặp nhiều khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, không chỉ đòi hỏi sự
đồng thuận cao trong hệ thống chính trị, trong xã hội và sự tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện, mà còn đòi hỏi sự chi phí, sử dụng tiết kiệm,
hợp lý các nguồn lực của đất nước.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự tham gia của toàn thể nhân
dân, chúng ta có đầy đủ niềm tin, cơ sở vật chất, tinh thần để khẳng định sẽ
khơi dậy được mọi tiềm năng, khát vọng, nguồn lực để thực hiện có hiệu quả các
đột phá chiến lược mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét