- Người phụ
nữ đầu tiên làm vua ở Việt Nam là: Bà Trưng Trắc, bà là con gái một lạc tướng ở
Mê linh, Vĩnh Phúc. Năm 40 của thế kỷ thứ nhất, bà Trưng Trắc đã cùng em gái là
Trưng Nhị lãnh đạo nhân dân chống lại sự xâm lược của nhà Hán, thu giang sơn về
một mối. Bà xưng vương và giữ ngôi trong 3 năm.
- Nữ tướng
duy nhất ở Việt Nam thế kỷ 20 là: Bà Nguyễn Thị Định, sinh năm 1920, tại xã
Lương Hòa, Giồng Trôm, Bến Tre. Năm 1974, bà là Thiếu tướng, Phó Tổng tư lệnh
lực lượng vũ trang giải phóng Nam Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, bà là
nữ Phó chủ tịch Hội đồng nhà nước (nay là Phó chủ tịch nước) đầu tiên của Việt
Nam và là Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
- Nữ anh
hùng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam: Anh hùng Nguyễn Thị Chiên, sinh
năm 1930 tại xã Kiến Thuật, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong kháng chiến
chống Pháp, bà đã xây dựng và chỉ huy đội nữ du kích Tán Thuật (Thái Bình).
Hoạt động hiệu quả, táo bạo dũng cảm, nổi tiếng với chiến tích “tay không bắt
giặc”, bà được tặng thưởng nhiều Huân chương, Huy chương chiến công và năm 1952
được phong là nữ Anh hùng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Nữ Anh
hùng lực lượng vũ trang trẻ nhất là: Chị Võ Thị Sáu (1933 - 1952). Ngay từ năm
15 tuổi, chị đã hăng hái tham gia cách mạng, lập nhiều chiến công vang dội.
Tháng 5/1950, bị giặc Pháp bắt, tra tấn dã man nhưng chị vẫn giữ vững khí tiết
của người chiến sĩ cách mạng. Năm 1952, giặc đày chị ra Côn Đảo và hành quyết.
Năm 1993, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trân trọng truy tặng
chị Huân chương chiến công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
- Người phụ
nữ vác đạn nặng nhất trong chiến tranh Việt Nam là: Anh hùng Ngô Thị Tuyển,
sinh năm 1946 tại Nam Ngạn, Hàm Rồng, Thanh Hóa. Chị là nữ dân quân mưu trí,
dũng cảm. Ngày 4/4/1965, chị đã vác 2 hòm đạn nặng 98kg vượt qua bờ đê chuyển
ra sông phục vụ chiến đấu tại Hàm Rồng, Thanh Hóa.
- Bí thư
thành ủy trẻ tuổi nhất Việt Nam là: Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, sinh năm
1910 tại Vinh, năm 16 tuổi thoát ly gia đình hoạt động cách mạng. Năm 30 tuổi
trở thành Ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ, Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ lớn. Năm 31 tuổi
bị Thực dân Pháp bắt tra tấn và đã anh dũng hy sinh.
- Người phụ
nữ biên soạn cuốn từ điển Hán Nôm cổ nhất Việt Nam là: Bà Trịnh Thị Ngọc Trúc,
bà đã biên soạn cuốn từ điển Hán Nôm “Ngọc âm chí Nam giải nghĩa” ở thế kỷ 16.
- Người phụ
nữ sáng tác nhiều thơ bằng chữ Nôm nhất Việt Nam là: Nữ thi sỹ Hồ Xuân Hương,
bà sinh ra ở thế kỷ thứ 18, được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm.
- Chủ tịch
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đầu tiên là: Bà Lê Thị Xuyến, bà sinh năm 1909
tại Đại Hòa, Đại Lộc, Quảng Nam, là chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ
năm 1946-1956.
- Người phụ
nữ làm Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lâu nhất là: Bà Nguyễn Thị Thập,
sinh năm 1908 tại Long Hưng, Châu Thành, Bến Tre. Có 18 năm là Chủ tịch Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1956-1974). Bà cũng là nữ đại biểu Quốc hội nhiều
khóa nhất (khóa I đến khóa VI) 36 năm làm đại biểu quốc hội, nữ Phó chủ tịch
Quốc hội đầu tiên của Việt Nam.
- Người phụ
nữ có nụ cười nổi tiếng nhất Việt Nam là: Chị Võ Thị Thắng, sinh năm 1945 tại
Tiền Bửu, Bến Lức, long An. Năm 1968 bị giặc bắt, tuyên án 20 năm tù khổ sai.
Trước bản án chị tươi cười và nói: “Tôi sợ chính quyền các ông không đủ thời
gian tồn tại để thi hành án của tôi’’. Thực tế đã chứng minh lời nói của chị.
Năm 1973, hiệp định hòa bình về Việt Nam được ký kết tại Paris, chị được trao
trả tự do. Và là Tổng cục trưởng Tổng cục Du Lịch Việt Nam.
- Người nữ
Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên Việt Nam là: Bà Nguyễn Thị Bình. Sinh năm 1927
tại xã Điện Quang, Điện Lực, Quảng Nam. Bộ trưởng Bộ ngoại giao chính phủ lâm
thời tại Hội nghị Paris năm 1973.
- Bà mẹ anh
hùng chịu đựng nỗi đau lớn nhất trong lịch sử: Mẹ Nguyễn Thị Thứ. Sinh năm
1904, tại xã Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam. Mẹ có 10 người con (9 con trai, 1
con rể) và hai cháu nội hy sinh trong chiến tranh.
- Người phụ
nữ Việt Nam đầu tiên được tặng danh hiệu Viện sỹ thông tấn của Hàn Lâm Viện văn
chương khoa học và nghệ thuật toàn châu Âu là: Bà Điềm Phùng Thị, sinh năm 1920
tại Huế. Bà có 36 tượng đài và nhiều tác phẩm điêu khắc. Năm 1993 bà được phong
danh hiệu: “Nữ Viện sỹ thông tấn của Hàn lâm Viện Văn chương khoa học và nghệ
thuật toàn châu Âu”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét