Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

 Xây dựng, củng cố và hoàn thiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua gần 40 năm đổi mới



TCCS - Qua gần 40 năm thực hiện đổi mới đất nước, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân tiếp tục được khẳng định là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đồng thời, việc xác lập đúng đắn vị trí của nhân dân có ý nghĩa đặc biệt trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tham dự ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc tại khu dân cư xóm 4, xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu (tỉnh Nam Định) _Ảnh: TTXVN

Nhận thức về vị trí, vai trò của nhân dân qua gần 40 năm đổi mới

Năm 1986, khởi đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI của Đảng đúc kết 4 bài học kinh nghiệm có ý nghĩa sâu sắc, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới; trong đó, bài học hàng đầu là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(1). Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc” được Đại hội VII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh trong bài học kinh nghiệm thứ hai của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”(2). Năm 1996, tổng kết chặng đường 10 năm đầu đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đúc rút sáu bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ tư là “Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc”(3), khẳng định “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”(4). Bước vào thế kỷ XXI, sau chặng đường 15 năm đổi mới, Đảng vẫn nhất quán quan điểm đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn tìm tòi, đổi mới, sáng tạo. Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”(5).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), rút ra một trong những bài học kinh nghiệm lớn của Đảng ta là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”(6).

Tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”(7) để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến chia sẻ niềm vui với người dân xã Quy Mông, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (tháng 11-2022) _Nguồn: baotainguyenmoitruong.vn

Vị trí trung tâm của nhân dân trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Trong những bài học kinh nghiệm quý báu được rút ra từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(8).

Lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, Đảng ta xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong công cuộc đổi mới. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(9) và “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”(10). Có thể nhận thấy rằng, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục quán triệt quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm”, thể hiện nhất quán, xuyên suốt và bao trùm trong tất cả văn kiện, trên tất cả nội dung, lĩnh vực. Trong bài phát biểu tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên triển khai Chương trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh: “Đảng và Nhà nước đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc”(11).

Từ quan điểm “dân làm gốc” trong lịch sử, các kỳ đại hội của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, tập trung ở sức mạnh to lớn, nguồn lực vô tận của nhân dân; nhân dân là nền tảng, chỗ dựa vững chắc của hệ thống chính trị, lực lượng rộng lớn trong mọi phong trào cách mạng. Đại hội XIII của Đảng đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, là chủ thể trong chiến lược phát triển đất nước; sự lãnh đạo của Đảng phải hướng vào vị trí trung tâm là nhân dân, phải khơi thông những nguồn lực và sự sáng tạo của nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực của nhân dân.

Trong tiến trình đổi mới, Đảng ngày càng quan tâm đến việc thể chế hóa thành những quy định về quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội XII của Đảng đưa ra yêu cầu, thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đến Đại hội XIII, Đảng nhấn mạnh thêm về trách nhiệm làm chủ của nhân dân; đồng thời, nêu rõ vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân, gắn liền với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nêu rõ phương hướng: “Lãnh đạo thể chế hóa Hiến pháp về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nhằm phát huy cao nhất quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Nghiên cứu, ban hành cơ chế để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ. Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận”(12).

Điểm mới, rất quan trọng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chính là tiếp tục nhất quán quan điểm “dân là gốc”, giữ vai trò nền tảng, thống nhất vai trò của nhân dân ở “vị trí trung tâm”, lan tỏa và hội tụ, tác động nhiều chiều đến mọi lĩnh vực, lực lượng, tổ chức khác; tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc, cụ thể hóa quan điểm “dân là chủ”; đồng thời, xác định “vai trò chủ thể” của nhân dân khi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là một điều kiện quan trọng để nhân dân giữ vững và phát huy vai trò chủ thể trong sự nghiệp cách mạng. Tinh thần đổi mới của Đảng là việc khẳng định bản chất “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” trong thời kỳ mới.

Ở đây, nhân dân được đặt ở vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của mọi chiến lược phát triển đất nước, của công cuộc đổi mới. Đảng lãnh đạo nhân dân, nhân dân là đối tượng lãnh đạo của Đảng, nhưng nhân dân không đứng ngoài các hoạt động xây dựng Đảng và các hoạt động lãnh đạo của Đảng, mà phải tham gia tích cực vào các hoạt động này. Công cuộc đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, do nhân dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, toàn diện và đồng bộ, càng đòi hỏi sự đổi mới tự thân của nhân dân; quần chúng nhân dân cũng phải tự đổi mới, nâng cao trình độ, đổi mới nhận thức và hành động. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới, trực tiếp là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, là cơ sở quan trọng để nâng cao trình độ mọi mặt của các tầng lớp nhân dân, để nhân dân nâng cao năng lực làm chủ, năng lực chủ thể của công cuộc đổi mới.

Chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng, những đánh giá qua hơn một nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cho thấy, nhìn nhận đúng đắn vị trí, vai trò của nhân dân trong xây dựng, phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu của cả hệ thống chính trị; đánh giá thực chất, hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đây chính là cơ sở thực tiễn để Đảng xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong mọi chiến lược phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

Thắm tình quân dân _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân qua gần 40 năm đổi mới

Thứ nhất, Đảng ta từng bước đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi mặt đời sống của đất nước, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới được khẳng định chính thức và làm rõ - đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận kinh tế của Đảng, từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang nhận thức kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng đã thống nhất và nêu rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(13). Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính thống nhất và mâu thuẫn trong quá trình thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng từng bước đề ra quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;... giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(14).

Quá trình gần 40 năm đổi mới, nhất là hơn 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, đã tạo những bước tiến quan trọng cả về nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện. Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những nhận định, đánh giá quan trọng về mặt khoa học và được thực tiễn chứng minh. Về lý luận, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”(15)Về thực tiễn, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập theo hướng đầy đủ, hiện đại và hội nhập; “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(16).

Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được khẳng định trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994). Đến năm 2001, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên thuật ngữ này được hiến định, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Từ đó đến nay, vấn đề xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trở thành một nội dung quan trọng trong đường lối của Đảng và dần được hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Đặc biệt, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”; theo đó, các hình thức thực hiện dân chủ từng bước được hoàn thiện và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Dân chủ trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân được mở rộng. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xử lý hành vi vi phạm quyền dân chủ được chú trọng.

Đảng luôn sâu sát cơ sở, tăng cường đối thoại, tiếp xúc với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; tập trung lãnh đạo đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, giải quyết kịp thời những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân; xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Tạo cơ chế thuận lợi để nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội; tổ chức hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, góp ý đối với hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động tham gia tích cực, có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, từng bước nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội

 Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình tiếp cận, vận dụng chọn lọc giá trị phổ quát của các nền dân chủ đương đại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thông qua các kỳ đại hội Đảng, các văn kiện của Đảng qua các thời kỳ đã từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trong đó, vấn đề trọng tâm là phát huy vai trò, vị thế của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa và phát triển quan điểm của Đảng, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, phương châm công tác dân vận trong thời kỳ mới. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh quyền lực thuộc về nhân dân để tạo tiền đề vững chắc cho nhiệm vụ hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng khẳng định, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu to lớn đó, chính là kết quả của ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung nhiều nội dung mới về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận, tập trung đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy cao độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật; thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; trong đó, xác định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt. Nghị quyết cũng xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới.

Điểm nổi bật là việc thể chế hóa và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng và ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022; hoàn thiện và thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trong tất cả loại hình tổ chức và đơn vị cơ sở thuộc các cấp, các ngành, trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang và các hội quần chúng.

Phát huy hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của nhân dân, trọng tâm là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; chú trọng đến hoạt động quản lý nhà nước, những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân và phát triển nhanh, bền vững đất nước; xây dựng cơ chế, chính sách để giải phóng mọi tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân; phát huy vai trò chủ thể của nhân dân tham gia phát triển kinh tế, quản lý xã hội; bảo đảm công khai, minh bạch để mọi tầng lớp nhân dân có cơ hội và quyền chủ động tiếp cận thông tin.

Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức lễ cưới tập thể dành cho thanh niên công nhân có hoàn cảnh khó khăn đang làm việc tại các khu chế xuất, khu công nghiệp, trường học trên địa bàn thành phố _Ảnh: TTXVN

Thứ tư, xây dựng, hoạch định chủ trương, chính sách lấy người dân làm trung tâm

Trên cơ sở phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, Đảng chủ trương tập trung chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân - đây là sứ mệnh của Đảng, là mục tiêu và bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quan điểm về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hóa trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm; thể hiện trong từng chế độ, chính sách phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chặng đường gần 40 năm đổi mới là giai đoạn quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Trong thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã chứng minh sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo trong đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện rõ Đảng ta là Đảng của dân, do dân, dựa vào dân và vì dân. Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, Đảng đã trải qua 8 kỳ đại hội, từ Đại hội VI của Đảng đến Đại hội XIII của Đảng - đây là quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng. Trong quá trình đó, Đảng đã tạo được sự đồng thuận, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tổ chức thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng và đạt được những thành tựu quan trọng, vượt bậc. Từ một đất nước cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp; đến nay, Việt Nam đã vươn mình trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, nhân dân có cuộc sống tốt đẹp hơn; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền được bảo đảm. Đặc biệt, giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2022, Việt Nam lọt nhóm 5 nước có quy mô nền kinh tế tăng nhiều nhất thế giới, đứng thứ tư của ASEAN, đứng vị trí 40 trên thế giới. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước từ 58% năm 1993, giảm xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện giảm còn khoảng 33%,... Những kết quả, thành tựu đất nước đạt được đã tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những năm tới.

Thứ năm, thực hiện hiệu quả công tác dân vận của Đảng và hệ thống chính trị

Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” và “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đảng đã chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hơn 94 năm có Đảng, qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, là chặng đường vinh quang thể hiện sinh động sự gắn kết giữa Đảng với nhân dân; thực tiễn đã chứng minh, đây không phải là khẩu hiệu mà là bản chất mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân - “Ý Đảng, lòng dân”. Nhân dân luôn là nhân tố quyết định sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thông qua mối quan hệ này, Đảng đã phát huy được vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; tập hợp, phát huy được sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân để thực hiện công cuộc đổi mới ngày càng hiệu quả, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Thứ sáu, xây dựng, củng cố và hoàn thiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân ngày càng thực chất, chặt chẽ

Là một trong những nguyên tắc quan trọng của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, sự nhận thức, phát triển nguyên tắc này thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong tư tưởng, quan điểm của Đảng, được khẳng định qua văn kiện các kỳ đại hội, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay. Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mối quan hệ chính trị - pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được xây dựng, ngày càng hoàn thiện. Hiến pháp năm 2013 cụ thể hóa quan điểm của Đảng trong mối quan hệ với nhân dân tại khoản 2, Điều 4, khoản 2: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”; Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ tại khoản 1, Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; theo khoản 2, Điều 2 của Hiến pháp năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; đồng thời, Điều 3 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, biện pháp để xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Những thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo toàn diện của Ðảng là do có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế, quy luật vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam; phù hợp với quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện. Cần khẳng định rằng, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là nội dung cốt lõi phản ánh bản chất của Đảng ta, thể hiện rõ nét vị thế và sức mạnh của một Đảng lãnh đạo, cầm quyền; sức mạnh và uy tín của Đảng được kết tinh, hội tụ từ sức mạnh của dân tộc và nhân dân Việt Nam - Yếu tố quyết định sự thành công qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước./.

                                                            Nguồn: TS ĐÀO ĐOAN HÙNG

Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân vận Trung ương

Hội đàm cấp cao giữa hai cơ quan kiểm tra Đảng của Việt Nam và Lào.

 Kết quả thực hiện Thỏa thuận hợp tác giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ban Kiểm tra Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã góp phần tăng cường mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào

 Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú tặng quà lưu niệm cho đồng chí Khamphan Phomathat - Chủ nhiệm Ban Kiểm tra Trung ương, Trưởng Ban Phòng, chống tham nhũng cấp Trung ương, Tổng Thanh tra Nhà nước Lào. Ảnh: Phương Hoa/TTXVN

Sáng 4/6, tại Trụ sở Văn phòng Trung ương Đảng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực Trần Cẩm Tú chủ trì buổi Hội đàm với Đoàn đại biểu cấp cao Ban Kiểm tra Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào do Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ban Kiểm tra Trung ương, Trưởng Ban Phòng, chống tham nhũng Trung ương, Tổng Thanh tra Nhà nước Lào Khamphan Phomathat làm Trưởng đoàn.

Vui mừng chào đón Đoàn công tác sang thăm và làm việc tại Việt Nam, ông Trần Cẩm Tú nhấn mạnh: Chuyến thăm của Đoàn đại biểu cấp cao Ban Kiểm tra Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào góp phần làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào nói chung và giữa hai Cơ quan Kiểm tra Trung ương của hai Đảng nói riêng.

Cảm ơn sự đón tiếp chu đáo, trọng thị, thân tình của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam dành cho Đoàn, ông Khamphan Phomathat thông tin khái quát tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước Lào và cho biết: Trong thời gian qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào đã nỗ lực cố gắng đạt được nhiều kết quả tích cực trên nhiều lĩnh vực.

Về kết quả công tác kiểm tra, thanh tra trong hoạt động phòng, chống tham nhũng, ông Khamphan Phomathat nhấn mạnh: Hoạt động kiểm tra, thanh tra tập trung vào đối tượng cán bộ trong quá trình thực thi nhiệm vụ, chức trách được giao; điều tra các đối tượng sai phạm theo quy định của pháp luật và nếu phát hiện có sai phạm sẽ xử lý nghiêm khắc, vi phạm đến mức phải xử lý hình sự thì đều xét xử và cách chức cả với cán bộ đương chức nếu có sai phạm trước đây.

Ngoài ra, kết hợp thanh tra, kiểm tra các dự án đầu tư công và các dự án đầu tư có giá cao bất thường; qua kiểm tra, thanh tra đã kiến nghị thu hồi về tài chính, đất… tiết kiệm và thu hồi cho ngân sách nhà nước hàng ngàn tỷ kip.

Ông Khamphan Phomathat cũng thông tin về tình hình giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; việc tăng cường hợp tác với một số nước trong ASEAN trong công tác phòng, chống tham nhũng. Thời gian tới, Lào sẽ tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền công tác kiểm tra, thanh tra; công khai kết quả hoạt động kiểm tra, thanh tra tạo niềm tin cho Nhân dân…

Về nội dung quan hệ hợp tác với Ủy ban Kiểm tra Trung ương, ông Khamphan Phomathat khẳng định tiếp tục hợp tác chặt chẽ với nhiều hình thức: Trao đổi đoàn các cấp, cử cán bộ sang Việt Nam nghiên cứu, học tập…

Thay mặt Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trần Cẩm Tú thông báo một số nét khái quát cơ bản về tình hình Việt Nam; về quan hệ Việt Nam - Lào trong thời gian qua; về kết quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực tiếp tục có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường với nhiều khó khăn, thách thức, song với sự nỗ lực cao, những tháng đầu năm 2024, Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: Tăng trưởng kinh tế tiếp tục phục hồi; tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục chuyển biến tích cực. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. Tăng trưởng GDP Quý I/2024 đạt 5,66%, cao nhất trong giai đoạn 2020-2023. Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế có nhiều đổi mới. Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ; môi trường tiếp tục được cải thiện. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ, toàn diện. Vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng lên…

Ông Trần Cẩm Tú bày tỏ sự vui mừng trước những thành tựu to lớn, toàn diện có ý nghĩa lịch sử mà Lào đã giành được sau hơn 37 năm đổi mới, nhất là những kết quả quan trọng sau 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và Kế hoạch kinh tế-xã hội 5 năm lần thứ 9…

 Quang cảnh hội đàm. Ảnh: Phương Hoa/TTXVN

Về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ông Trần Cẩm Tú cho biết: Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành nhiều quy định, hướng dẫn quan trọng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, Ủy ban Kiểm tra các cấp đã chủ động thực hiện toàn diện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, chú trọng kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; nội dung kiểm tra cũng được mở rộng, đi sâu vào các dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, các vi phạm trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, đất đai, tài nguyên khoáng sản; thực hiện các dự án đầu tư; mua sắm trang thiết bị; hoạt động tư pháp; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, thực hiện trách nhiệm nêu gương; công tác cán bộ...

Triển khai thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tập trung xử lý dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài; xử lý kỷ luật nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm trong các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực với cách làm mới, khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là kiên quyết, kiên trì trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Về quan hệ hợp tác giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Kiểm tra Trung ương Đảng nhân dân Cách mạng Lào, ông Trần Cẩm Tú đã nêu bật những kết quả đã đạt được và nhấn mạnh: Kết quả thực hiện Thỏa thuận hợp tác giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ban Kiểm tra Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã góp phần tăng cường mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước nói chung, giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ban Kiểm tra Trung ương Nhân dân Cách mạng Lào nói riêng.

Trong thời gian tới, phát huy truyền thống tốt đẹp, mối quan hệ đoàn kết, gắn bó keo sơn Việt Nam - Lào, hai Bên sẽ tiếp tục triển khai các nội dung trong Bản Thỏa thuận hợp tác giữa 2 Cơ quan giai đoạn 2022-2026.

Trong không khí chân thành, cởi mở và tràn đầy tình hữu nghị, cuộc Hội đàm đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hai Bên đã đi sâu trao đổi về những kinh nghiệm quý trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng thời thống nhất về phương hướng, biện pháp tiếp tục tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước và giữa hai Cơ quan Kiểm tra Trung ương của hai Đảng.


Đổi mới tổ chức bộ máy của MTTQ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

  Hội thảo khoa học với chủ đề “Một số vấn đề về đổi mới tổ chức bộ máy của MTTQ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” là cơ sở quan trọng để Ban Thường trực UBTƯ MTTQ Việt Nam tiếp tục bổ sung, hoàn thiện Đề án nhân sự UBTƯ MTTQ Việt Nam khóa X, nhiệm kỳ 2024 - 2029 để trình Ban Bí thư, Bộ Chính trị.

Ngày 12/6, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chủ trì phối hợp với Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản, Ban Dân vận Trung ương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Một số vấn đề về đổi mới tổ chức bộ máy của MTTQ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.

Phát biểu khai mạc, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Thị Thu Hà cho biết, Hội thảo là cơ sở quan trọng để Ban Thường trực UBTƯ MTTQ Việt Nam tiếp tục bổ sung, hoàn thiện Đề án nhân sự UBTƯ MTTQ Việt Nam khóa X, nhiệm kỳ 2024 - 2029 để trình Ban Bí thư, Bộ Chính trị.

 Chủ trì Hội thảo.

Đổi mới tổ chức bộ máy của MTTQ Việt Nam có vai trò quan trọng trong đổi mới phương thức và chất lượng hoạt động của MTTQ Việt Nam; đồng thời, góp phần quan trọng trong tổ chức và hoạt động của hệ thống Mặt trận các cấp. 

Việc đổi mới tổ chức bộ máy và hoạt động có hiệu quả của MTTQ Việt Nam là nhằm đáp ứng tình hình, bối cảnh mới, để đưa chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chương trình hành động, đề án của UBTƯ MTTQ Việt Nam được triển khai tới MTTQ Việt Nam các cấp, tới các tổ chức thành viên của Mặt trận và toàn thể nhân dân; đồng thời, góp phần giúp MTTQ Việt Nam các cấp thực hiện đúng và hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Mặt trận ở mỗi cấp theo Luật và Điều lệ MTTQ Việt Nam quy định.

Cùng với đó, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước…, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội”; Quy định số 97-QĐ/TW của Bộ Chính trị cũng nâng tầm Đảng đoàn MTTQ Việt Nam từ trực thuộc Ban Bí thư lên trực thuộc Bộ Chính trị; Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 120-QĐ/TW về cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ Cơ quan Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam; Quy định số 146-QĐ/TW của Ban Bí thư cũng đề cập tới nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, nguyên tắc làm việc, mối quan hệ công tác của Đảng đoàn MTTQ Việt Nam cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Chỉ thị số 22-CT/TW của Ban Bí thư cũng nêu rõ: “Chú trọng phát hiện, giới thiệu người có năng lực, uy tín, tâm huyết, trách nhiệm cao với đất nước và công tác Mặt trận; có thể mở rộng thành phần, số lượng tổ chức thành viên, cá nhân tiêu biểu trong nước và đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia Uỷ ban Mặt trận các cấp, góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế, sức mạnh đại đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.

Đại biểu nêu ý kiến tại Hội thảo 

Cơ sở pháp lý, căn cứ chính trị về hoạt động của MTTQ Việt Nam đã cơ bản đầy đủ, bởi vậy, việc đổi mới tổ chức bộ máy của MTTQ Việt Nam các cấp là nội dung quan trọng trong nhiệm kỳ mới, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà nói.

Theo PGS.TS Phạm Minh Tuấn, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, đổi mới tổ chức bộ máy của MTTQ Việt Nam không chỉ là yêu cầu và trách nhiệm của bản thân Mặt trận mà còn là yêu cầu khách quan của xã hội, là trách nhiệm của hệ thống chính trị, là đòi hỏi tất yếu của thể chế chính chính trị dân chủ, là điều kiện để phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Bởi vậy, MTTQ Việt Nam luôn quan tâm đến đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ cách mạng mới của đất nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, khắc phục triệt để căn bệnh “xa dân”, dân chủ hình thức, hành chính hóa hoạt động, công chức hóa cán bộ, tăng cường hiệu quả giám sát, phản biện xã hội và kiểm soát quyền lực.

Tại Hội thảo, các đại biểu tham dự đã tập trung thảo luận vào một số nội dung như tổ chức bộ máy của MTTQ Việt Nam hiện nay có những điểm gì hợp lý và chưa hợp lý; tính cấp thiết, tất yếu của đổi mới tổ chức bộ máy; đổi mới tổ chức bộ máy MTTQ Việt Nam bao gồm những nội dung cốt lõi gì và việc đổi mới phụ thuộc vào những yếu tố, điều kiện nào, làm rõ thêm các căn cứ chính trị, pháp lý và thực tiễn để đổi mới tổ chức bộ máy UBTƯ MTTQ Việt Nam khóa X, nhiệm kỳ 2024 - 2029.


Xây dựng Ngành Tổ chức xây dựng Đảng vững mạnh, bảo đảm “tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả”

 Trong buổi làm việc với Ban Tổ chức Trung ương, ngày 13/6/2024, đồng chí Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh yêu cầu xây dựng ngành Tổ chức xây dựng Đảng vững mạnh, bảo đảm “tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả” để đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Thường trực Ban Bí thư Lương Cường phát biểu tại buổi làm việc. Ảnh: Phương Hoa

Cùng dự buổi làm việc có đồng chí Nguyễn Duy Ngọc, Ủy viên Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng.

Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương Mai Văn Chính trình bày báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm vụ từ đầu nhiệm kỳ đến nay; phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2024.

Theo đó, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, bám sát Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chương trình làm việc toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương, Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tập thể cán bộ, công chức, viên chức của Ban Tổ chức Trung ương đã có nhiều nỗ lực, nêu cao trách nhiệm thực hiện tốt những nhiệm vụ được giao. Toàn ngành đã tập trung tham mưu, hoàn thành 95 đề án, nhiệm vụ về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Tính đến hết tháng 5/2024, Ban đã hoàn thành 5/18 đề án, nhiệm vụ theo chương trình công tác năm 2024. Ban đã chủ động tham mưu công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng; tham mưu Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương thống nhất thành lập 5 Tiểu ban và kịp thời tham mưu triển khai hoạt động của Tiểu ban Nhân sự, Tiểu ban Điều lệ Đảng…

Hình ảnh tại buổi làm việc. Ảnh: Phương Hoa

Phát biểu tại buổi làm việc, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường bày tỏ niềm vui mừng khi đến thăm và làm việc với Ban Tổ chức Trung ương, cơ quan tham mưu chiến lược của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác tổ chức xây dựng Đảng. Thường trực Ban Bí thư Lương Cường khẳng định, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và thách thức đan xen, Ban Tổ chức Trung ương đã phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, tham mưu hoàn thành một khối lượng lớn công việc với chất lượng ngày càng được nâng lên, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành tốt và xuất sắc.

Nâng cao chất lượng công tác cán bộ (Nguồn: vtvgo.vn) 

Nhấn mạnh vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của Ban Tổ chức Trung ương trong tham mưu về công tác cán bộ, Thường trực Ban Bí thư đề nghị những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc, Ban Tổ chức Trung ương cần tiếp tục nghiên cứu tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra theo thẩm quyền để không ngừng nâng cao chất lượng công tác tham mưu chiến lược, xứng đáng là “then chốt của then chốt”.

Theo kế hoạch, thời gian chuẩn bị tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng không còn dài, công việc rất nặng nề, Thường trực Ban Bí thư đề nghị Ban Tổ chức Trung ương tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Tổ chức Trung ương theo Quyết định số 152-QĐ/TW. Chú trọng nâng cao chất lượng tham mưu về công tác cán bộ, nhất là nhận xét, đánh giá đúng, đề xuất trúng cán bộ, bảo đảm tuân thủ nghiêm các nguyên tắc, quy định, quy trình về công tác cán bộ.

Cùng với đó là tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu, tham mưu chiến lược về công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới; tham mưu triển khai quán triệt Chỉ thị của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Hướng dẫn thực hiện một số nội dung cụ thể sau khi Chỉ thị được ban hành. Tích cực tham gia các nhiệm vụ của Tiểu ban phục vụ Đại hội và Tiểu ban Văn kiện theo kế hoạch.

Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng phát biểu tại buổi làm việc. Ảnh: Phương Hoa

Thường trực Ban Bí thư đề nghị Ban Tổ chức Trung ương tập trung tham mưu hoàn thành các đề án, nhiệm vụ theo Chương trình công tác năm 2024; nhất là tập trung xây dựng và sớm hoàn thành Đề án “Cơ chế, chính sách phát hiện, lựa chọn, trọng dụng, bố trí, sắp xếp cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội, cán bộ trẻ vào vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp” bảo đảm tính khả thi. Ban nghiên cứu đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, nhất là chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin, số hoá dữ liệu về công tác tổ chức xây dựng Đảng; tham mưu triển khai có hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chú trọng nâng cao chất lượng đầu vào, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, quản lý đầu ra đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là theo phân cấp; thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho nước bạn Lào, Campuchia.

Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh yêu cầu xây dựng ngành Tổ chức xây dựng Đảng vững mạnh, bảo đảm “tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả” để đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; xây dựng Đảng bộ cơ quan Ban Tổ chức Trung ương thật sự trong sạch, vững mạnh; tiếp tục làm tốt hơn công tác đào tạo, bồi dưỡng, có chính sách phù hợp đối với cán bộ, lấy hiệu quả công việc làm thước đo; chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần, sự tiến bộ cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong Ban.

Ban Tổ chức Trung ương sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ hiện có, đồng thời chủ động quy hoạch sắp xếp, bồi dưỡng lớp kế cận, kế tiếp có chất lượng tốt, sẵn sàng thay thế, bảo đảm sự ổn định, kế thừa, phát triển vững chắc, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của Ban.

Thay mặt lãnh đạo Ban, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng trân trọng cảm ơn Thường trực Ban Bí thư Lương Cường; đồng thời tiếp thu, lĩnh hội đầy đủ các chỉ đạo, định hướng sâu sát, cụ thể của Thường trực Ban Bí thư về những nhiệm vụ trọng tâm của Ban Tổ chức Trung ương, ngành Tổ chức xây dựng Đảng thời gian tới, đặc biệt là việc tổ chức chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Đồng chí Lê Minh Hưng khẳng định, Ban Tổ chức Trung ương sẽ tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời gian tới./.