Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là di sản
tư tưởng quý báu, luôn được Đảng ta thấm nhuần, vận dụng sáng tạo trong các
thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa thực hành
dân chủ trong Đảng và trong xã hội là nội dung vừa thể hiện rõ bản chất của chế
độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vừa là những nguyên tắc mang tính định hướng,
“kim chỉ nam” để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần
phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực phát triển
nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn mới.
Thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã
hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Thực hành
dân chủ trong Đảng
Thực hành dân chủ trong Đảng là tiến
trình thực hiện những quy định, nguyên tắc… của Đảng nhằm bảo đảm quyền của
đảng viên một cách thường xuyên, liên tục; trở thành chế độ, nền nếp trong mọi
sinh hoạt và hoạt động của Đảng, hướng đến và bảo đảm sự tập trung, thống nhất,
tạo sự đoàn kết, nhất trí, tăng cường năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến
đấu của Đảng.
Vì quan niệm dân chủ nghĩa là dân
là chủ và dân làm chủ, cho nên dân chủ trong Đảng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh thực chất cũng là quyền làm chủ của mỗi đảng viên trong mọi
hoạt động của Đảng, là sự bình đẳng của tất cả đảng viên trước Điều lệ, các
nghị quyết và các quy định của Đảng. Nếu dân chủ là “của quý báu nhất của nhân
dân” thì dân chủ trong Đảng cũng là “của quý báu nhất” của Đảng; thực hành
dân chủ trong Đảng cũng là “cái chìa khóa vạn năng” giúp Đảng vượt qua mọi khó
khăn, thách thức để hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị vẻ vang.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở
rộng thực hành dân chủ trong Đảng là điều cần thiết, bởi lẽ đảng viên
của Đảng phải làm việc, lãnh đạo theo phong cách dân chủ, tuân
thủ nguyên tắc tập trung dân chủ thì mới xây dựng được nước ta là nước dân chủ,
chế độ dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo đó, Đảng “phải thật
sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của
mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội
Đảng cho thật tốt” (1).
Ngược lại, sự mất dân chủ trong Đảng sẽ dẫn đến tình trạng mất đoàn kết và làm
nảy sinh các thói xấu, rất nguy hại như “không nói trước mặt, chỉ nói sau
lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, “thậm thà thậm thụt”(2).
Người nhấn mạnh, Đảng ta phải được tổ
chức một cách dân chủ. Điều đó có nghĩa là, tất cả mọi công việc của Đảng đều
được toàn thể các đảng viên tham gia, hoàn toàn bình quyền và không có ngoại lệ
nào, tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời, tất cả những
người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo và các cơ quan của
Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn nếu
không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề
mấu chốt của thực hành dân chủ trong Đảng chính là phải thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ, còn được gọi là “dân chủ tập trung”. Dân chủ tập trung
không chỉ là nguyên tắc lãnh đạo, mà còn là chế độ lãnh đạo của đảng cầm quyền.
“Tập thể lãnh đạo là dân chủ”, “cá nhân phụ trách là tập trung” và
“tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung”.
Khẳng định vai trò quan trọng của nguyên tắc dân chủ tập trung đối với thực
hành dân chủ trong Đảng, Người chỉ rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến
cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến
cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.
Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần
phải luôn luôn đi đôi với nhau” (3).
Như vậy, trong điều kiện một đảng cầm quyền thì tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách vừa là nguyên tắc lãnh đạo, vừa là
biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Đồng thời, sức mạnh của Đảng được
tạo dựng bởi đội ngũ cán bộ, nên muốn mở rộng dân chủ trong Đảng thì công
tác cán bộ phải thực sự dân chủ, công tâm, minh bạch.
Người nhấn mạnh, thực hành dân chủ
là cơ sở để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Thực hành dân chủ trong Đảng, từ Trung
ương đến cơ sở, là nền tảng vững chắc để xây dựng một Đảng đoàn kết, thống
nhất, trở thành hạt nhân, động lực xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Chính vì vậy, trong bản Di chúc thiêng liêng, Người
căn dặn và yêu cầu “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”.
Thấm nhuần những lời căn dặn của Người,
Đảng ta chủ trương tăng cường thực hiện dân chủ trong mọi sinh hoạt của Đảng,
coi đây là cơ sở quan trọng để tạo dựng và phát triển sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, tạo nên sức mạnh của Đảng. Đảng chủ trương nâng cao chất lượng sinh
hoạt cấp ủy và chi bộ; tạo điều kiện để mọi đảng viên, dù ở cương vị nào cũng
được bình đẳng thực hiện quyền và trách nhiệm của mình, được tham gia quyết
định công việc của Đảng, được chất vấn, tự phê bình và phê bình trong phạm
vi tổ chức về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; trong đó, có
quyền được thông tin, thảo luận, nêu ý kiến riêng, được bảo lưu ý kiến và trình
bày ý kiến trong tổ chức đảng.
Thực hành
dân chủ trong xã hội
Thực hành dân chủ trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính
là để dân thực sự là chủ và làm chủ xã hội, để dân chủ được phát huy đến cao
độ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện trên thực tế và đi vào thực chất;
qua đó, xây dựng chế độ ta thực sự là một chế độ dân chủ và tạo ra “cái chìa
khóa vạn năng” để Đảng ta cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thành
công (4).
Thực hành dân chủ chính là quá trình huy động, thu hút sự tham gia và phát huy
được tối đa quyền hạn, lực lượng của toàn dân để thực hiện thắng lợi những mục
tiêu, nhiệm vụ của cách mạng vì lợi ích của nhân dân, phát triển đất nước. Do
đó, “phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ,
làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng
tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng” (5).
Người chỉ rõ, thực hành dân chủ trong xã
hội phải hướng đến mục tiêu làm cho dân “ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự
do”; công bằng và bình đẳng trước pháp luật và trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Dân chủ được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là mục tiêu để xây dựng chế
độ mới, vì lợi ích của nhân dân. Người quan tâm tới nội dung toàn diện của dân
chủ, trong đó có thực hành dân chủ trong xã hội. Mục tiêu dân chủ được thể hiện
trước hết ở dân chủ trong kinh tế, dân chủ trong chính trị; cùng với đó, còn là
dân chủ trong văn hóa, trong phát triển xã hội và quản lý xã hội, hướng trực
tiếp vào việc giải quyết các vấn đề xã hội cấp thiết, tổ chức thực hiện chính
sách xã hội và an sinh xã hội cho con người, vì con người. Không chỉ thế, theo
Người, thực hành dân chủ còn là phải bảo đảm dân chủ trong đời sống
tinh thần của xã hội, nghĩa là phải tạo điều kiện, cơ hội để mọi người dân
dám nghĩ, dám nói lên những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của mình; đồng thời,
phải bảo đảm cho họ có được tự do về tư tưởng, thực hiện dân chủ trong sáng tạo
văn hóa và thụ hưởng những thành quả văn hóa.
Bởi quan niệm dân chủ là mục tiêu, nên
ngay khi chính thể dân chủ vừa mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
Chúng ta phải làm ngay, làm cho dân có ăn, có mặc, có nhà ở, được học hành,
được tự do đi lại, được chăm sóc sức khỏe, được hưởng quyền tự do mà họ xứng đáng
được hưởng với tư cách người chủ. Người còn nói rõ, dân chỉ biết
tới giá trị của tự do, dân chủ khi dân được ăn no, mặc ấm. Nước nhà tranh đấu
được độc lập, tự do mà “dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng
không làm gì”, chẳng để làm gì. Chính vì vậy, Người yêu cầu Đảng và Chính phủ
cũng như đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc phương châm “việc gì
có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Thực hành dân chủ trong xã hội là biện
pháp, chính sách hữu hiệu nhằm thực hiện mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân. Vì
vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ phải nâng cao đời sống của nhân dân; cán
bộ của Đảng và chính quyền các cấp từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm
đến mọi mặt đời sống của nhân dân. Người thường xuyên nhấn mạnh, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân là cơ sở quan trọng nhất để xây
dựng môi trường dân chủ, tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền
làm chủ của mình. Đồng thời, thực hành dân chủ còn có vai trò, tác dụng giải
phóng tiềm năng sáng tạo của nhân dân và trở thành động lực của quá
trình xây dựng một xã hội tiến bộ và phát triển, văn minh. Không phải ngẫu
nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đúc kết: “Có phát huy dân chủ đến cao
độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến
lên” (6) và
thực hành dân chủ chính là “cái chìa khóa vạn năng” có thể giải quyết mọi khó
khăn, tạo động lực để phát triển đất nước.
Mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong
Đảng và trong xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Nội dung, thực trạng và định
hướng
Những nội dung, phương diện cơ bản
Thứ nhất, thực hành dân chủ trong Đảng là “hạt
nhân”, tạo động lực, điều kiện và nêu gương để thực hiện, phát huy đầy đủ dân
chủ trong xã hội; đồng thời, thực hành dân chủ trong xã hội là điều kiện cần
thiết để củng cố, tạo môi trường, xung lực cho thực hành dân chủ trong Đảng.
Thực hành dân chủ trong Đảng và phát huy
dân chủ trong xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua, luôn bổ sung và
hoàn thiện lẫn nhau. Đó là hai mặt của một chỉnh thể. Tuy nhiên, chỉ có
tăng cường thực hành dân chủ trong Đảng rộng rãi, thực hiện tốt trách nhiệm nêu
gương thì mới có thể tiến hành mở rộng và phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội,
vì Đảng ta giữ vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và toàn xã hội. Do vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi đảng viên ở bất cứ địa vị nào cũng phải làm
gương thực hành dân chủ trong công tác, để tạo điều kiện cho mỗi người
và quần chúng nhân dân nhiệt thành phát huy sáng kiến, nâng cao hiệu quả công
việc.
Quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là, có bảo đảm và phát huy dân chủ ở trong Đảng thì mới bảo đảm được dân
chủ của toàn xã hội. Quyền
lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, của dân
tộc và của nhân dân; Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội, là nhân
tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Thực hành dân
chủ trong Đảng trở thành yếu tố quyết định, tạo động lực cho thực hành dân chủ
đầy đủ trong toàn xã hội. Người chủ trương xây dựng các tổ chức của
Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững mạnh để bảo đảm dân chủ
và thực hành dân chủ có hiệu quả, thực chất trong xã hội. Kế thừa và phát triển
những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới, Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ
chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ,
công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao
đạo đức xã hội” (7).
Thực tế cho thấy, khi Đảng ta trở thành
Đảng cầm quyền, luôn xuất hiện các nguy cơ thoái hóa, biến chất, sa vào chủ
nghĩa cá nhân… của một bộ phận cán bộ, đảng viên và điều này đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh lưu ý, trù liệu từ rất sớm. Do vậy, trước tiên, Đảng cần phải kiên
quyết chống mọi biểu hiện, hành vi vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng dưới mọi hình thức, như dân chủ hình thức, độc đoán, chuyên quyền, lợi
dụng, lạm dụng chức quyền, bất chấp các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước để trục lợi cá nhân, hoặc chỉ phục vụ cho “lợi ích nhóm” tiêu cực.
Dân chủ trong Đảng là tấm gương phản chiếu
dân chủ trong xã hội; vì vậy, nếu dân chủ trong xã hội chỉ là hình thức, chiếu
lệ hay sự mất dân chủ diễn ra tràn lan thì khó có thể nói đến dân chủ thực sự
trong Đảng. Bởi lẽ, thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội sẽ tạo môi
trường, điều kiện thuận lợi, “bầu không khí” cần thiết và là sự thôi thúc cho
thực hành dân chủ trong Đảng. Và rõ
ràng, chỉ trên nền tảng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa thì dân chủ trong nội bộ Đảng mới càng có thêm sinh lực,
sức sống, phản ánh được thực tiễn xã hội phong phú; tập trung, phát huy được
trí tuệ của toàn dân tộc và nhờ đó mà Đảng ngày càng được củng cố, vững mạnh
hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong bối cảnh mới,
để “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”, như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội
còn góp phần tạo dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo điều
kiện tiên quyết để nhân dân có thể tiến cử những người có đủ đức, đủ tài, có
tâm huyết, trách nhiệm với đất nước, không bỏ sót nhân tài, kể cả nhân tài
ngoài Đảng. Chỉ có dựa vào nhân dân, gắn với quá trình dân chủ hóa xã hội thực
sự, thì mới có điều kiện phát hiện, thu hút, tuyển dụng, sử dụng và trọng dụng
được nhân tài trong xã hội cho Đảng, góp phần vào thực hiện có hiệu quả, dân
chủ, công khai, minh bạch, công tâm công tác cán bộ của Đảng - “nhiệm vụ then
chốt của then chốt” trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa quyết định đến sự
thành bại của sự nghiệp cách mạng.
Thực hành dân chủ trong xã hội vừa là
“chìa khóa” để giải quyết được những khó khăn, thách thức ngày càng nhiều hơn
trước, vừa góp phần thúc đẩy tính tích cực, chủ động của nhân dân; khẳng định
quan điểm nhất quán của Đảng: “Nhân
dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng,
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm
mục tiêu phấn đấu” (8).
Thứ hai, thực hành dân chủ trong Đảng là cơ sở để
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã
hội, góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ
cách mạng.
Chính vì nhận thức rõ vai trò, sức mạnh to
lớn của dân chủ nói chung mà trong tư tưởng Hồ Chí Minh có sự gắn bó chặt chẽ
giữa dân với dân chủ, dân chủ với dân vận và công tác dân vận, dân chủ với đại
đoàn kết toàn dân tộc để tạo nên sức mạnh to lớn nhằm thực hiện và bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Do đó, theo Người, phải đẩy mạnh thực
hành dân chủ, vì có dân chủ mới có đồng thuận xã hội; dân chủ và đoàn kết phải
đi liền với nhau thì mới tạo ra sự đồng thuận xã hội - tiền đề để phát huy được
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Đặc
biệt, Người nhấn mạnh: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là
quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh
đạo… Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng
dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”(9).
Tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn vẹn nguyên giá trị thời sự. Kinh
nghiệm thực tế cho thấy rằng, chỉ có thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng thì
mới tạo nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc củng cố và phát
triển, tăng cường sự đồng thuận xã hội và sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp
nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, chế độ và nhờ đó, cách mạng Việt Nam mới
vượt qua được muôn vàn khó khăn, thách thức; đạt được nhiều thành tựu to lớn,
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cả trong thời kỳ đấu tranh giành độc
lập dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất
nước hiện nay.
Thứ ba, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã
hội đều tạo sinh lực cho sự ra đời những sáng kiến, tinh thần hăng hái đổi mới,
sáng tạo, khắc phục tư duy bảo thủ, giáo điều, sự trì trệ cả trong Đảng và
trong xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn
mạnh, “dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất
quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến.
Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và
người khác cũng học theo” (10).
Rõ ràng, chỉ khi phát huy và thực hành được dân chủ rộng rãi thì đảng viên,
quần chúng nhân dân mới đề xuất được nhiều sáng kiến, hăng hái trong thực hiện
nhiệm vụ được giao. Nhận thấy rõ đoàn kết, sáng kiến và sự nhiệt huyết của cán
bộ cũng như của nhân dân chính là kết quả của dân chủ, nên Người yêu cầu “phải
thật sự thi hành dân chủ trong Đảng và trong quần chúng”. Theo Người, một khi có dân chủ thực
sự thì mỗi người dân sẽ dám nói, dám nghĩ, dám làm, dám đề xuất những sáng kiến
tâm huyết của mình; đồng thời, người cán bộ, đảng viên mới có gan dám nói, dám
làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Có dân chủ thì sẽ khắc phục được
thói áp đặt, quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tránh được tư duy bảo thù, trì
trệ và mọi người có được quyền tự do tư tưởng, tự do thảo luận và khi ấy, tự do
tranh luận, thảo luận lại chính là quyền tự do phục tùng chân lý. Do vậy, Người
nhấn mạnh, điểm cốt lõi về thực hành dân chủ ở đây còn là và chính là “làm
sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình,
dám nói, dám làm” (11).
Thực trạng
mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội thời gian qua
Những kết quả, thành tựu đạt được cần tiếp
tục kế thừa, phát huy
Trong hơn 92 năm qua, dù phải đối diện
nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng
chân chính, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn coi trọng và thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ, coi đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản
thành một tổ chức chặt chẽ, thống nhất, vừa phát huy dân chủ, tôn trọng đóng
góp của mỗi cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của tập thể, duy trì sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng, nỗ lực thực
hiện sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị được nhân dân tin tưởng giao phó. Kế thừa và
quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ, Đảng ta tập
trung nâng cao nhận thức, mở rộng thực hành dân chủ và đã đạt được những kết
quả tích cực. Sự ra đời của Quy chế chất vấn trong Đảng và
việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng đã
làm gia tăng tính dân chủ trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn. Đồng
thời, công tác cán bộ cũng đã được chú trọng hơn, với yêu cầu phải tiến hành
theo những quy trình, quy định, các bước chặt chẽ, công khai, dân chủ, minh
bạch; đặc biệt, công tác bầu cử với những quy định mới bước đầu tạo ra sự công
bằng về cơ hội, tạo niềm tin, động lực phấn đấu cho chính đội ngũ cán bộ, đảng
viên.
Cùng với đó, việc thực hành dân chủ nói
chung, Quy chế Dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở nói riêng đã góp
phần phát huy được vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân trong tham gia
bàn thảo, góp ý vào những quyết định, chính sách phát triển của địa phương, đất
nước. Đặc biệt, nhân dân đã tích cực góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, tham gia
giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư. Dân chủ trong
Đảng được tăng cường, dân chủ trong xã hội được mở rộng hơn, tạo ra sự tương
tác tích cực, thúc đẩy lẫn nhau. Những kết quả đáng ghi nhận trong thực hành
dân chủ đó đã giúp tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát
triển, do nhân dân cùng với Đảng, chính quyền bàn bạc, tìm cách giải quyết có
hiệu quả, như vấn đề bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư khi
triển khai thu hồi đất để thực hiện các công trình, dự án của Nhà nước; vệ sinh
môi trường, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh… Bầu không khí dân chủ khởi
sắc đã tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong
trào thi đua sôi nổi, thiết thực, góp phần đưa đất nước ta vượt qua khó khăn,
thách thức, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; bảo đảm quốc
phòng, an ninh; góp ý xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; tạo sự nhất trí trong Đảng, đồng thuận trong xã hội, củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân; nâng cao tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước ta trên
trường quốc tế.
Những hạn chế, yếu kém cần nhận diện rõ và
nhanh chóng khắc phục
Thực tế cho thấy, bên cạnh những kết quả
đạt được, vẫn tồn tại những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm kéo dài, ảnh hưởng
tiêu cực tới quá trình xử lý, hài hòa hóa mối quan hệ giữa thực hành dân chủ
trong Đảng và trong xã hội. Thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước chưa
đạt hiệu quả như mong muốn, đã ảnh hưởng tới quy mô, chất lượng thực hành dân
chủ trong xã hội; thậm chí, có lúc, có nơi còn gây cản trở quá trình dân chủ
hóa trong xã hội. Một mặt, có khá nhiều chủ trương của Đảng về
thực hành dân chủ trong xã hội chưa được thể chế hóa kịp thời và khi thực hiện
thì còn nhiều hạn chế, yếu kém, đã dẫn tới việc quyền làm chủ của nhân dân chưa
được phát huy đầy đủ. Mặt khác, cơ chế bảo đảm để nhân dân
thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực chưa được hoàn thiện, quyền lực của các
cơ quan nhà nước vẫn rất lớn và một số công chức nhà nước đã lợi dụng quyền lực
được giao để gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân, trục lợi cá nhân, hướng lái
chính sách để phục vụ cho “lợi ích nhóm”, doanh nghiệp “sân sau”, “thân hữu”,
gây bức xúc dư luận.
Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của
Đảng có lúc, có nơi chưa nghiêm, còn có biểu hiện “nhẹ trên, nặng dưới” hoặc
“trên nóng, dưới lạnh”. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên có mặt còn thiếu
chặt chẽ; nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự
phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế thực sự hữu hiệu để
bảo vệ người dám đấu tranh, phê bình. Một bộ phận cán bộ, đảng viên còn chưa
quan tâm, nhận thức khá hời hợt, phiến diện về dân chủ và thực hành dân chủ;
thường rơi vào hai thái cực: Hoặc cho rằng dân chủ là quyền muốn làm gì, phát
ngôn thế nào cũng được, không tuân thủ các quy định, kỷ luật của Đảng hoặc thờ
ơ, coi thực hành dân chủ chỉ là nhiệm vụ của lãnh đạo cơ quan, đơn vị, không
liên quan đến mình. Nhiều cán bộ, đảng viên chưa nhận thấy dân chủ là quyền lợi
thiết thân, còn có biểu hiện “dĩ hòa vi quý”, né tránh, không dám đấu tranh để
bảo vệ quyền lợi của mình khi gặp phải những vi phạm, mất dân chủ. Ở một số
nơi, người đứng đầu thường có tâm lý coi nhẹ, phó mặc cho cấp dưới trong thực
hiện phát huy dân chủ tại địa phương, cơ quan, đơn vị, không sâu sát, thiếu tâm
huyết với nhiệm vụ quan trọng này. Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, một
trong những hạn chế của thực hành dân chủ là do vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa
chưa được quan tâm phát huy đầy đủ, quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi
còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ
cương, pháp luật. Khi dân chủ không được thực hành rộng rãi trong Đảng, còn
biểu hiện độc đoán, chuyên quyền… tất yếu sẽ dẫn đến việc coi nhẹ, thậm chí vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân và hệ lụy là, dân chủ trong xã hội cũng bị kìm
hãm, hạn chế. Bên cạnh đó, trong xã hội vẫn còn tình trạng một bộ phận người
dân lợi dụng “dân chủ” để đưa ra những đòi hỏi không chính đáng, không đúng
pháp luật… với các cơ quan công quyền, có thái độ coi thường kỷ cương, phép
nước, thậm chí bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo tham gia biểu tình,
gây rối, tụ tập đông người, làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vi phạm
pháp luật.
Những định
hướng chủ yếu
Một là, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã
hội đều phải hướng tới vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, là cơ sở để hình
thành những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa quan
điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều
hành xã hội để hiện thực đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi
của nhân dân, điều gì có lợi cho dân phải cố gắng làm, điều gì có hại cho dân
phải hết sức tránh, chăm lo phát triển, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân, như lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và
hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân
dân làm mục tiêu phấn đấu. Đây là điểm chung, thống nhất đối với cả
thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, là luận điểm quan trọng,
xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; bởi lẽ, không có dân chủ thì chắc chắn là sẽ không có chủ nghĩa xã
hội.
Thấm nhuần và thực hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ, nền dân chủ ở nước ta vừa mang bản chất tiến bộ của dân chủ xã
hội chủ nghĩa, vừa kế thừa những giá trị mang tính phổ quát của nhân loại trong
lịch sử, đồng thời không ngừng gia tăng thêm những giá trị mới; qua đó, dân chủ
trở thành giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ chính trị - xã
hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra ngày càng nhiều hơn, đầy đủ hơn
những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực, tiềm năng sáng tạo vô tận của
con người. Chính vì nhận thức được ngày càng sâu sắc vai trò đó của dân chủ,
nhất là trong mối quan hệ biện chứng với công bằng, nên Đảng ta đã xác định và
đưa dân chủ trở thành một trong những thành tố quan trọng, mang giá trị
cốt lõi trong hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, gắn quá trình tăng cường thực hành dân chủ
trong Đảng và trong xã hội với công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ vai trò của Nhà nước và cả hệ thống
chính trị, đặc biệt là thúc đẩy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của mỗi công dân
trong thực hành dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh
đến vai trò của Nhà nước trong thực hành dân chủ: “Để thực hiện tốt nhiệm vụ
cách mạng, Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của
toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi
người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây
dựng chủ nghĩa xã hội” (12).
Điều kiện có tính quyết định nhất để xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là Đảng phải lãnh đạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các
cơ quan nhà nước, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì
dân, phấn đấu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dân
chủ trong Đảng quyết định dân chủ trong tổ chức hoạt động của Nhà nước, gắn
liền với quá trình thực hành dân chủ trong xã hội. Bởi lẽ, trong các
cơ quan nhà nước có tổ chức đảng thì cán bộ chủ chốt đều là đảng viên. Do vậy,
Đảng phải thông qua bộ máy nhà nước, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các chủ
trương, đường lối thành các chính sách, quy định, pháp luật; tăng cường quản
lý, giám sát đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đảng và Nhà
nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính
trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai
trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất
nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(13).
Điều 28 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: 1. Công dân
có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị
với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; 2. Nhà
nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai,
minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Ba là, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội
đều phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; giữ nghiêm kỷ luật Đảng và bảo
đảm kỷ cương xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân chủ”
luôn phải gắn với “kỷ cương”, thực hành dân chủ trong Đảng phải đi đôi
với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong mọi hoạt động của Đảng; vì vậy,
Người cũng thẳng thắn chỉ rõ “căn bệnh” dân chủ tùy tiện, dân chủ quá trớn, dẫn
tới coi thường kỷ luật đảng ở một số cán bộ, đảng viên: “Ở trong
Đảng thì không thực hiện chế độ dân chủ tập trung, không tuân theo
nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Phớt lờ kỷ luật và chính sách của Đảng và của
Chính phủ. Khinh rẻ ý kiến của cấp dưới. Xem thường chỉ thị của cấp trên. Không
muốn chịu kiểm tra, không muốn nghe phê bình” (14).
Kế thừa tư tưởng này, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh và yêu cầu thực hành
dân chủ trong Đảng phải “gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, một xã hội
không thể ổn định và phát triển nếu thiếu pháp luật và sự tuân thủ pháp luật
của công dân; theo đó, thực hành dân chủ trong xã hội cũng không thể
tách rời với quá trình tăng cường kỷ cương xã hội. Theo Người, xã hội dân
chủ là một xã hội có trật tự, kỷ cương, bảo đảm cho mọi người cùng có quyền tự
do, dân chủ như nhau. Do đó, thời gian qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ
trương, giải pháp để phát huy dân chủ và thực hành dân chủ gắn với tăng cường
pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội; yêu cầu “xử lý kịp thời, nghiêm minh những
tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị -
xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân
dân” (15).
Qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận 35 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng đã xác định: Thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ
cương xã hội là mối quan hệ lớn thứ mười trong các mối quan hệ lớn, cần được
chú trọng nắm vững và xử lý tốt trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn
2021 - 2030 và các giai đoạn tiếp theo.
Bốn là, gắn kết chặt chẽ, xử lý hài hòa, hợp lý
mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội là nhằm hướng
tới, tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa để phát triển đất nước trong điều kiện mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, nước ta
là một nước dân chủ và đó là nền dân chủ mới, cần có quá trình phát
triển, hoàn thiện lâu dài để đi lên chủ nghĩa xã hội. Kế thừa và kiên định vận
dụng sáng tạo những luận điểm cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và
thực hành dân chủ trong điều kiện mới; nhận thức rõ vai trò của dân chủ xã hội
chủ nghĩa, đẩy mạnh thực hành dân chủ, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất
của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được
thực hiện trong thực tiễn cuộc sống ở mỗi cấp và tất cả các lĩnh vực. Dân chủ
gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được
pháp luật bảo đảm.
Đảng ta không chỉ xác định vai
trò, vị thế chủ thể mọi quyền lực nhà nước của nhân dân, mà còn khẳng
định bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là phải làm cho nhân dân
được hưởng quyền làm chủ, có đủ năng lực làm chủ trên thực tế và khi
đó, dân chủ trở thành động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
phát triển đất nước nhanh, bền vững. Theo đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
nhấn mạnh quan điểm phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Trước tình hình thế giới và trong nước
biến động nhanh và khó lường như hiện nay, việc kiên định vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, kết hợp chặt chẽ giữa thực hành dân chủ trong
Đảng và trong xã hội, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ tạo
ra động lực to lớn thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền
vững, hướng tới mục tiêu đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao
vào giữa thế kỷ XXI, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc.
Xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa
thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo
động lực phát triển đất nước nhanh và bền vững trong thời gian tới
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với việc nâng cao nhận thức, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ;
chú trọng xử lý hài hòa mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong
xã hội.
Nâng cao nhận thức, chú trọng xử lý hài
hòa, hợp lý mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng
đầu, có tính quyết định đối với thành công của việc đẩy mạnh thực hành dân chủ
rộng rãi và thực chất trong Đảng và trong xã hội. Những quan điểm, luận điểm
cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong
Đảng và trong xã hội cần được Đảng ta kiên định vận dụng sáng tạo trong giai
đoạn mới. Muốn vậy, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra là phải tiếp tục nghiên cứu một
cách có hệ thống và chuyên sâu tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa thực
hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, tạo cơ sở lý luận, khoa học vững chắc
để nâng cao, thống nhất nhận thức và từ đó, có căn cứ tổ chức triển khai, xử lý
hài hòa mối quan hệ này trong bối cảnh mới.
Thứ hai, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, nâng
cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tầm quan trọng, giá trị lý
luận và thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa thực hành
dân chủ trong Đảng và trong xã hội; đồng thời, gia tăng đối thoại để mở rộng
dân chủ.
Cần ra sức học tập, nắm vững nội dung cốt
lõi tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ để vận dụng sáng tạo trong thực tiễn, tạo
nên sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; góp phần tạo
ra sức mạnh tổng hợp và động lực phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai
đoạn cách mạng mới. Trước hết, Đảng phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền, phổ
biến nhằm nâng cao nhận thức của đảng viên và nhân dân về tầm quan trọng, vị
trí, vai trò, ý nghĩa của mối quan hệ giữa dân chủ trong Đảng và xã hội, góp
phần thúc đẩy quá trình thực hành dân chủ, xây dựng Đảng ta ngày càng trong
sạch, vững mạnh, xã hội ngày càng văn minh.
Thực tế cũng cho thấy rằng, dân
chủ luôn đi đôi với đối thoại, đặc biệt là đối thoại về những vấn đề được đảng
viên, dư luận quan tâm, còn những ý kiến khác nhau. Theo đó, cần mở rộng các
hình thức dân chủ, nhất là tăng cường đối thoại (cả trong Đảng và trong xã hội)
để đi đến thống nhất, tạo sự đồng thuận trong nhận thức và tổ chức thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc
biệt, trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền thì
đối thoại cởi mở và thực hành dân chủ rộng rãi luôn là phương thức,
chiến lược quan trọng để có thể tận dụng, phát huy được trí tuệ của toàn Đảng
và toàn thể nhân dân.
Thứ ba, nâng cao năng lực, hoàn thiện cơ chế thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, nhất là người đứng đầu trong thực hành dân chủ, tạo hiệu ứng lan tỏa
mạnh mẽ trong xã hội.
Muốn phát huy, mở rộng và thực hành dân
chủ trong Đảng có hiệu quả và thực chất thì yêu cầu đặt ra cấp thiết hiện nay
là, cần không ngừng tập trung nâng cao nhận thức, năng lực thực thi, củng
cố, hoàn thiện cơ chế thực hành dân chủ trong Đảng để dân chủ “thấm
sâu” và được thực hiện trong mọi hoạt động của Đảng, trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên, cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tiếp tục phát huy trách nhiệm nêu gương
của các cấp ủy, người đứng đầu, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược về thực
hành dân chủ trong Đảng và tại địa phương, cơ quan, đơn vị để nhân dân tin
tưởng; tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội.
Trên cơ sở các quy định được Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành thời gian qua, mỗi cấp ủy,
tổ chức đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội quán triệt, cụ thể
hóa, xây dựng thành các quy định cụ thể về nêu gương thực hành dân chủ sao cho
sát hợp với chức năng, chức trách, nhiệm vụ của từng tổ chức, lực lượng và mỗi
cán bộ, đảng viên trên từng cương vị công tác; qua đó, tạo thành phong trào
thực hành dân chủ sâu rộng, hiệu quả, thiết thực, có sức lan tỏa mạnh mẽ trong
xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng; rà soát, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả trong toàn hệ
thống chính trị, đi đôi với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Giữ vững các nguyên tắc tổ chức, hoạt động
và đề cao kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nghiêm túc thực
hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mớí, hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực trong hệ thống chính trị. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập
trung, thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của
tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu. Ở đây, cần chú ý “đổi mới, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả việc phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp, gắn với tăng
cường kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan, đơn vị thuộc Chính phủ, chính quyền
các địa phương… với các cơ quan, đơn vị của Đảng, Quốc hội, hội đồng nhân dân
các cấp, hệ thống các cơ quan tư pháp và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội; bảo đảm cả hệ thống tổ chức bộ máy luôn luôn vận hành một
cách đồng bộ, thống nhất” (16).
Thứ năm, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu
lý luận về thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội; nhanh chóng nhận diện
và giải quyết kịp thời những rào cản, “điểm nghẽn” nảy sinh để có thể xử lý hài
hòa, hợp lý mối quan hệ này trong thực tế.
Thời gian qua, tuy dân chủ trong Đảng và
trong xã hội đã được mở rộng, quá trình thực hành dân chủ trong Đảng và trong
xã hội đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đáng ghi nhận; nhưng có lúc, có nơi
vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên, người đứng đầu địa phương, cơ
quan, đơn vị và người dân chưa nhận thức và thực hành dân chủ đầy đủ, làm cho
mối quan hệ giữa thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội chưa gắn kết và
được xử lý hài hòa. Do vậy, yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải tiến
hành khảo sát kỹ lưỡng, tổng kết thực tiễn thực hành dân chủ, thường xuyên
tìm tòi, phát hiện và đúc kết, hoàn thiện các hình thức thực hiện dân chủ, kể
cả dân chủ đại diện lẫn dân chủ trực tiếp. Nhanh chóng nhận diện những rào cản,
nguy cơ… gây cản trở hoặc có tác động tiêu cực tới mối quan hệ giữa thực hành
dân chủ trong Đảng và trong xã hội; đặc biệt là, tập trung khắc phục tình trạng
một số đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý buông lỏng nguyên tắc tập trung dân
chủ, có biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, lộng quyền, gây bức xúc dư luận xã
hội và nhân dân; đề cao cảnh giác trước các hành vi lợi dụng dân chủ, dân chủ
quá trớn, dân chủ cực đoan, “bất tuân dân sự” đe dọa đến trật tự, kỷ cương,
pháp luật, gây bất ổn đến trật tự, an ninh, an toàn xã hội.
Thứ sáu, phát huy vai trò chủ thể, tinh thần tích
cực, chủ động của nhân dân tham gia góp ý xây dựng, kiểm tra, giám sát quá
trình dân chủ hóa trong Đảng và hệ thống chính trị; tăng cường vai trò của báo
chí, truyền thông đối với quá trình thực hành dân chủ trong Đảng và xã
hội.
Hoàn thiện cơ chế để bảo đảm quyền tham
gia ý kiến trực tiếp của người dân trong hoạch định đường lối, chính sách, pháp
luật; quyền giám sát trực tiếp của cộng đồng tại cơ sở đối với những vấn đề
liên quan đến đời sống của nhân dân, theo đúng phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”; thực hiện có hiệu quả Quy chế Dân chủ ở
cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy vai trò
của báo chí, truyền thông, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị -
xã hội và nhân dân trong phản biện và giám sát xã hội, trong đó có phản biện và
giám sát quá trình thực hành dân chủ trong Đảng và xã hội. Báo chí
cần thực hiện nhiệm vụ là kênh thông tin hữu ích giúp Đảng, Chính phủ lãnh đạo,
điều hành và quản lý tốt hơn các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhất là lên
án, đấu tranh chống lại các biểu hiện vi phạm dân chủ, những hành vi xâm phạm
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, góp phần tăng cường hiệu
quả thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình dân
chủ hóa đời sống xã hội bằng và thông qua việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế,
chính sách, văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở các cấp, các ngành, các
địa phương, cơ quan, đơn vị… để tăng cường vị thế, vai trò chủ thể xã hội của
nhân dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, thực hành dân chủ trong Đảng. Đặc
biệt, trong công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện ở nước ta hiện nay, “dân chủ
phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những
quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân” (17)./.
Nguồn: TCCS
(1) (6)
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 544, 376, 374
(2) (3)
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 283, 620, 284
(4) Xem: Phạm Văn Đức (Chủ biên): Thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy
nhất cầm quyền, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.
62
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t. 7, tr. 362
(7) (8) (13) (15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 173,
27 - 28, 173, 174
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 368
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 293
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 507
(16) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 96
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 38
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét