Để tăng cường
sức mạnh, tiềm lực mọi mặt cho bảo vệ lãnh thổ, ngoài chú trọng xây dựng lực
lượng quân sự từ Trung ương đến các làng bản biên giới, Nhà nước còn chú trọng
phát triển kinh tế ở các vùng biên ải; trong phát triển kinh tế luôn quan tâm
kết hợp tăng cường với sức mạnh quốc phòng. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực
làm vững mạnh biên giới, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Các triều đại
phong kiến Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều khuyến khích chiêu mộ người ra vùng biên
viễn khai khẩn đất hoang để mở rộng diện tích canh
tác, phát triển kinh tế biên giới vững mạnh, vừa tạo cơ sở xã hội cho nhà nước
ở biên giới, vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ ở những vùng đất mới khai phá.
Diện tích do nhân dân tự khai phá được cho thành ruộng tư, không thu thuế trong
nhiều năm đầu, những năm sau thu thuế rất nhẹ. Nhà nước khen thưởng những ai mộ
được nhiều người, khai khẩn được nhiều diện tích ở biên giới, vùng biển; mộ
được càng nhiều người, khai hoang được càng nhiều ruộng đất mức thưởng càng
cao. Với biện pháp này, nhà nước đã đưa được một lực lượng lớn cư dân ra biên
giới, khai phá được nhiều ruộng đất canh tác. Lực lượng cư dân bám trụ ở biên
giới ngày càng tăng làm cho sức mạnh biên phòng ngày càng được củng cố.
Để huy động lực
lượng nhân dân bảo vệ biên giới, trước hết Nhà nước phải quan tâm đến việc an
dân, cố kết các dòng họ, vỗ về nhân dân biên giới về kinh tế, xã hội… để họ gắn
bó với bản làng, bám trụ nơi biên cương bảo vệ chủ quyền lãnh thổ như: Triều
đình dùng biện pháp hôn nhân, gả công chúa cho các tù trưởng thiểu số cho họ
làm phò mã triều đình, duy trì chế độ thế tập (cha truyền con nối) cho
các thổ tù, dòng họ lớn cai quản nhân dân các địa phương biên giới, biến họ
thành những gia thần để ràng buộc trách nhiệm và thành những tôi trung của
triều đình, để họ thay mặt nhà nước quản lý đất đai, đoàn kết Nhân dân, ngăn
ngừa tình trạng chống đối, tự đem đất dâng cho giặc, chống lại âm mưu mua chuộc
của ngoại bang nhằm “gặm nhấm” dần đất đai biên giới ta. Thời Lý, họ Giáp (sau
được vua cho đổi thành họ Thân) ở vùng “cổ họng” Lạng Châu ba đời được nhà vua
gả công chúa, nối đời làm phò mã triều đình. Vì vậy, họ Giáp (Thân) trở thành
trung thần nhiều đời của triều đình ở vùng biên ải Lạng Sơn. Một số tù trưởng ở
biên giới có công lao còn được vua phong những chức tước ngang với đại thần
trong triều, được vua ban quốc tính.
Tuy nhiên,
ngoài biện pháp “nhu viễn” (mềm dẻo phương xa), triều đình cũng kết hợp
cả biện pháp “cương”, định rõ chức phận, thưởng phạt nghiêm minh các “khổn
quan” (quan coi giữ
biên giới) nếu làm yếu thế nước, tạo cơ hội cho nước ngoài lợi dụng xâm chiếm
đất đai ven biên giới trong Luật Hồng Đức - thế kỷ XV và Luật Gia Long - thế kỷ
XIX.
Với chính sách
an dân “nhu
viễn” linh hoạt đối
với nhân dân biên giới, Nhà nước đã thực sự đoàn kết được các tộc người thiểu
số chung sức khai phá và bảo vệ toàn vẹn
bờ cõi qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc.
PHAO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét